Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Vận dụng lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, phân tích tất yếu của quá trình công nghiệp, hiện đại hóa của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.76 KB, 18 trang )

lOMoARcPSD|11346942

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------

BÀI TẬP LỚN MÔN
TRIẾẾT HỌC MÁC - LẾNIN
ĐỀ TÀI:
Vận dụng lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, phân tích tất yếu của
q trình cơng nghiệp, hiện đại hóa của Việt Nam trong
thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội

HÀ NỘI, NĂM 2020
............................................................................


lOMoARcPSD|11346942

MỤC LỤC
Đặt vấn đề........................................................................................................... 3
Nội dung...............................................................................................................
I. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ......4

1. Các khái niệm..................................................................................................4
1.1. Lực lượng sản xuất....................................................................................4
1.2. Quan hệ sản xuất.......................................................................................6
2. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.....................................................................................................7
2.1. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất..................................8
2.2. Quan hệ sản xuất tác động ngược trở lại lực lượng sản xuất................8


2.3. Mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất bao hàm sự chuyển hóa thành các mặt đối lập và phát sinh
mâu thuẫn............................................................................................................9
II. Tính tất yếu của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong
thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội...................................................................10
1. Thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam..........................................10
2. Khái niệm cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa......................................................10
3. Tính yếu của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.................................11
4. Q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa Xã hội.........................................................................................................13
Kết luận................................................................................................................17
Tài liệu tham khảo..............................................................................................18

Page | 2


lOMoARcPSD|11346942

ĐẶT VẤN ĐỀ
Lịch sử phát triển của xã hội đã trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau từ thấp đến cao.
Trong quan niệm triết học Mác – Lênin, tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại được quy
định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất, một mặt của phương thức
sản xuất, là yếu tố bảo đảm tính kế thừa trong sự phát triển lên của xã hội. Quan hệ sản xuất
là mặt thứ hai của phương thức sản xuất biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển của lịch
sử. Tác động qua lại biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được Mác và
Ph. Ăngghen khái quát thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất. Đây là quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển xã hội. Sự phát triển của lực
lượng sản xuất đòi hỏi phải có quan hệ sản xuất phù hợp. Đại hội Đảng lần VII đã nêu: “Để
phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất chúng ta phải thiết lập từng bước quan hệ
sản xuất từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu, phát triển nền kinh tế hàng hóa

nhiều thành phần theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lí của Nhà nước”. Sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất là rất quan trọng để thúc đấy xã
hội phát triển. Đặc biệt với sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ quá độ lên
Chủ nghĩa Xã hội ở nước ta, quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất sẽ giúp chúng ta khai thác được mọi tiềm năng, nguồn lực của đất nước.
Tìm hiểu về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất sẽ tạo điều
kiện cho sinh viên có nhận thức rõ ràng hơn về sản xuất xã hội. Chính vì vậy, em đã chọn đề
tài: “Vận dụng lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, phân tích tính tất yếu của quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong
thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa Xã hội” để nghiên cứu.
Với trình độ nhận thức hiểu biết về mọi mặt còn hạn chế và đây là bài tiểu luận đầu tiên
của em nên không tránh khỏi những vấn đề thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý của thầy
để bài viết được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Page | 3


lOMoARcPSD|11346942

NỘI DUNG
I. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN
HỆ SẢN XUẤT
1. Các khái niệm
Trong sản xuất vật chất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là các khái niệm chỉ hai
mối quan hệ “song trùng”, là quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ giữa người với
người. Hai quan hệ đó liên hệ, phụ thuộc nhau tạo thành phương thức sản xuất. Phương thức
sản xuất là sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, là cách
thức con người tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu của mình và xã hội ở những giai đoạn
lịch sử nhất định.

1.1. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất- kỹ thuật của hình thái kinh tế xã hội, biểu
hiện mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên. Trong quá trình sản xuất vật chất, con
người thể hiện năng lực chinh phục giới tự nhiên bằng sức mạnh hiện thực của mình, sức
mạnh đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát trong khái niệm lực lượng sản xuất. Lực
lượng sản xuất nói lên năng lực thực tiễn của con người trong quá trình tác động vào tự
nhiên tạo ra của cải vật chất đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của loài người.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất, tạo ra sức
sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu
cầu nhất định của con người và xã hội.
Tư liệu sản xuất bao gồm đối tuợng lao động và tư liệu lao động.
Đối tuợng lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà lao động con người
dùng tư liệu lao động tác động lên, nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử dụng
của con người. Khơng chỉ tìm và sử dụng những đối tượng lao động sẵn có mà bằng lao
động sáng tạo của mình, con người cịn tạo ra những đối tuợng lao động mới để mở rộng khả
năng sản xuất. Đối tượng lao động gồm loại có sẵn trong tự nhiên như: đất đai, sơng ngịi,
biển, khống sản,… và loại khơng có sẵn trong tự nhiên như: hóa chất, hợp kim, sợi tổng
hợp,… Cùng với sự vận động và phát triển của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại,
ngày càng nhiều đối tượng lao động mới được tạo ra, vai trò của nhiều đối tuợng lao động
cũng dần dần thay đổi nhưng cơ sở của mọi đối tuợng lao động vẫn là tự nhiên.
Page | 4


lOMoARcPSD|11346942

Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa vào đó để
tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng
yêu cầu sản xuất của con người. Trong tư liệu lao động bao gồm công cụ lao động và phuơng
tiện lao động. Công cụ lao động đuợc coi là bộ phận có ý nghĩa quyết định, động nhất trong
quan hệ giữa con người với tự nhiên. Cơng cụ lao động là “khí quan của bộ óc”, là “sức

mạnh của tri thức đã đuợc vật thể hóa, có tác dụng “nối dài bàn tay” và “nhân sức mạnh trí
tuệ” của con người. Trong mọi thời đại, việc chế tạo, cải tiến và hoàn thiện công cụ lao động
đã tạo ra những biến đổi to lớn và sâu sắc trong tư liệu sản xuất. Có thể thấy, trình độ phát
triển của cơng cụ lao động chính là thước đo sự chinh phục tự nhiên của con người, là cơ sở
xác định trình dộ phát triển của sản xuất, là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau giữa các
thời đại kinh tế. Chính vì vậy, C. Mác đã khẳng định: “Những thời đại kinh tế khác nhau
không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với
những tư liệu lao động nào”.
Tư liệu lao động dù có ý nghĩa đến đâu, nhưng nếu tách khỏi người lao động thì cũng
khơng thể phát huy được tác dụng, không thể trở thành lực lượng sản xuất của xã hội. Trong
lực lượng sản xuất, người lao động là nhân tố hàng đầu và giữ vai trò quyết định. Người lao
động là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động và năng lực sáng tạo nhất định
trong quá trình sản xuất của xã hội. Con người trong nền sản xuất có sức mạnh và kỹ năng
lao động cơ bắp. Trong lao động sức mạnh kỹ năng ấy được nhân lên gấp nhiều lần. Bên
cạnh đó, ngày nay trong nền sản xuất xã hội, lao động của con người ngày càng trở thành lao
động có trí tuệ và lao động trí tuệ. Trí tuệ cao, trình độ chun môn giỏi, đạo đức nghề
nghiệp trong sáng là những yếu tố quan trọng của người lao động. Trong điều kiện của khoa
học công nghệ hiện nay, con người trở thành nguồn lực cơ bản, vô tận và đặc biệt của sản
xuất.
Ngày nay, trên thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng và công nghệ hiện đại, khoa học
được coi là một trong những yếu tố thành phần của lực lượng sản xuất. Khoa học-công nghệ
đang trở thành "lực lượng sản xuất trực tiếp", trở thành "lực lượng sản xuất độc lập", là đặc
điểm thời đại của sản xuất vật chất hiện nay. Tri thức khoa học được kết tinh, “vật hóa” vào
người lao động, người quản lý, cơng cụ lao động và đối tượng. Sự phát triển của khoa học đã
kích thích sự phát triển năng lực làm chủ sản xuất của con người.

Page | 5


lOMoARcPSD|11346942


Lực lượng sản xuất chính là sự kết hợp giữa “lao động sống” với “lao động vật hóa”
tạo ra sản xuất, là toàn bộ những năng lực thực tiễn dùng trong sản xuất của xã hội ở các thời
kỳ nhất định.
1.2. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế-vật chất giữa người với người trong
q trình sản xuất vật chất. Đây chính là một quan hệ vật chất quan trọng nhất – quan hệ
kinh tế, trông các mối quan hệ vật chất giữa người với người. Trong quá trình sản xuất xã
hội, mối quan hệ giữa con người với con người tồn tại thống nhất với mối quan hệ giữa con
người với giới tự nhiên. Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên được xây dựng trong và
thông qua những quan hệ khác nhau giữa người với người, tức là những quan hệ sản xuất.
Trong quy luật này, quan hệ sản xuất mang tính thứ hai, do lực lượng sản xuất quy định.
Trong sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình, con người, dù muốn hay khơng cũng buộc
phải duy trì và thực hiện những quan hệ nhất định với nhau. Những quan hệ này mang tính
tất yếu và khơng phụ thuộc vào ý muốn của ai cả. Đó chính là những quan hệ sản xuất. Tuy
nhiên, quan hệ sản xuất là do con người tạo ra, song nó tuân theo những quy luật tất yếu,
khách quan sự vận động của đời sống xã hội.
Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt cơ bản sau: Quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất, quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ về phân phối sản phẩm lao động. Mỗi
mặt quan hệ của hệ thống quan hệ sản xuất có vai trị và ý nghĩa riêng biệt, xác định, khi nó
tác động tới nền sản xuất xã hội.
Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu đối về tư
liệu sản xuất. Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất- là quan hệ sở hữu giữa “những nhóm
người”, quy định địa vị của từng nhóm người trong sản xuất xã hội. Địa vị đó lại quy định
cách thức tổ chức, phân công và quản lý sản xuất; quy định phương thức phân phối sản phẩm
lao động cho các nhóm người theo địa vị của họ đối với sản xuất xã hội và cuối cùng, địa vị
đó của mỗi nhóm người tạo cơ sở để nhóm người này chiếm đoạt sức lao động của nhóm
người khác. Chính vì vậy, trong hệ thống các quan hệ sản xuất của mỗi nền kinh tế-xã hội
xác định, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất ln ln có vai trị quyết định đối với tất cả các
quan hệ xã hội khác.

Trong lịch sử loài người từ nguyên thủy đến nay đã có hai hình thức sở hữu tư liệu
sản xuất cơ bản là sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội. Trong đó, có ba hình thức sở hữu tư liệu

Page | 6


lOMoARcPSD|11346942

sản xuất tư nhân cơ bản, tương ứng với ba hình thức người bóc lột người là sở hữu chiếm
hữu nơ lệ, phong kiến, tư bản và hai hình thức cơ bản sở hữu tư liệu sản xuất xã hội là sở hữu
nguyên thuỷ và sở hữu cộng sản.
Quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc tổ
chức sản xuất và phân công lao động. Các quan hệ về mặt tổ chức, quản lý sản xuất là các
quan hệ có khả năng quyết định một cách trực tiếp quy mô, tốc độ, hiệu quả và xu hướng của
mỗi nền sản xuất cụ thể. Bằng cách nắm bắt các nhân tố xác định của một nền sản xuất, điều
khiển và tổ chức cách thức vận động của các nhân tố đó, các quan hệ tổ chức và quản lý sản
xuất có khả năng đẩy nhanh hoặc kìm hãm các quá trình khách quan của sản xuất. Các quan
hệ về mặt tổ chức và quản lý sản xuất ln ln có xu hướng thích ứng với kiểu quan hệ sở
hữu thống trị của mỗi nền sản xuất cụ thể. Do vậy, việc sử dụng hợp lý các quan hệ tổ chức
và quản lý sản xuất sẽ cho phép toàn bộ hệ thống quan hệ sản xuất có khả năng vươn tới tối
ưu. Trong trường hợp ngược lại, các quan hệ quản lý và tổ chức có thể làm biến dạng quan
hệ sở hữu, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế-xã hội.
Quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất
vật chất. Tính chất và hình thức phân phối, mức độ thu nhập của các giai cấp và của các tầng
lớp xã hội đều phụ thuộc vào quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất và quan hệ tổ chức, quản lý và
phân công lao động. Mặc dù bị phụ thuộc nhưng do có khả năng kích thích trực tiếp đến lợi
ích của người lao động, nên quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động là “chất xúc tác”
của sản xuất vật chất. Quan hệ này có thể thúc đẩy tốc độ và nhịp điệu của sản xuất vật chất,
làm toàn bộ đời sống kinh tế xã hội năng động, hoặc kìm hãm sản xuất vật chất, kìm hãm sự
phát triển của xã hội.

Trong quá trình sản xuất, ba mặt quan hệ trong quan hệ sản xuất có mối quan hệ hữu
cơ, tác động qua lại, chi phối, ảnh hưởng, luôn gắn bó với nhau, tạo thành một hệ thống
mang tính ổn định tương đối so với sự vận động không ngừng của lực lượng sản xuất.
2. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động
biện chứng lẫn nhau hình thành quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển của xã hội, phổ
biến của toàn bộ lịch sử loài người. Quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất với tính chất và

Page | 7


lOMoARcPSD|11346942

trình độ của lực lượng sản xuất chỉ rõ sự phụ thuộc của quan hệ sản xuất vào trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tác động ngược trở lại lực lượng sản xuất.
2.1. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất là nội dung của quá trình sản xuất, là yếu tố động và cách mạng,
thường xuyên vận động và phát triển. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của q trình sản
xuất mang tính ổn định tương đối. Lực lượng sản xuất là nội dung của phương thức sản xuất,
còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình
thức thì nội dung quyết định hình thức, hình thức phụ thuộc vào nội dung, nội dung thay đổi
trước, sau đó hình thức mới biến đổi theo.
Lực lượng sản xuất vận động, phát triển không ngừng sẽ mâu thuẫn với tính đứng im
tương đối của quan hệ sản xuất. Trong quá trình lao động, con người ln tìm cách cải tiến,
hồn thiện và chế tạo ra những cơng cụ lao động mới, đỡ chi phí mà năng suất, hiệu quả lao
động cao hơn. Cùng với điều đó, kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, tri thức khoa học
cũng tiến bộ hơn và phát triển hơn. Trong quá trình này, quan hệ sản xuất thường phát triển
chậm hơn nên đòi hỏi tất yếu của nền sản xuất xã hội là phải xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ,
thiết lập quan hệ mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đã phát triển.

2.2. Quan hệ sản xuất tác động ngược trở lại lực lượng sản xuất
Trong quan hệ giữa nội dung và hình thức thì khơng chỉ nội dung quyết định hình
thức mà hình thức khơng phải mặt thụ động, nó cũng tác động ngược trở lại nội dung. Quan
hệ sản xuất tồn tại độc lập tương đối và tác động mạnh mẽ trở lại lực lượng sản xuất (theo
hướng tích cực và tiêu cực) vì nó quy định mục đích của sản xuất, quy định hệ thống tổ chức
quản lý sản xuất và quản lý xã hội, quy định phương thức phân phối phần của cải ít hay
nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó ảnh hưởng đến thái độ của quảng đại quần
chúng lao động – lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội. nó tạo ra những điều kiện hoặc kích
thích hoặc hạn chế việc cải tiến cơng cụ lao động, áp dụng những thành tựu khoa học và kỹ
thuật vào sản xuất, hợp tác và phân công lao động... Khi phù hợp với sự phát triển của lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất sẽ tạo địa bàn, mở đường và trở thành động lực cơ bản thúc
đẩy và khi không phù hợp, quan hệ sản xuất sẽ trở thành xiềng xích trói buộc, kìm hãm sự
phát triển lực lượng sản xuất. Có thể thấy từ thực tiễn, lực lượng sản xuất chỉ có thể phát
triển khi có quan hệ sản xuất hợp lý, đồng bộ với nó.

Page | 8


lOMoARcPSD|11346942

2.3. Mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất bao hàm sự chuyển hóa thành các mặt đối lập và phát sinh mâu thuẫn.
Khi phương thức sản xuất mới ra đời, quan hệ sản xuất phát triển kịp và thúc đẩy sự
phát triển của lực lượng sản xuất thì được gọi là sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó thể hiện ở chỗ cả ba yếu tố của quan hệ
sản xuất “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển, có thể hiểu là quan hệ sản
xuất tạo điều kiện sử dụng và kết hợp tối ưu người lao động với tư liệu sản xuất, nhờ đó lực
lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của mình trong sản xuất.
Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
không phải là vĩnh viễn mà khi tới giai đoạn, nơi lực lượng sản xuất phát triển lên trình độ

mới mà quan hệ sản xuất “đi sau” hoặc “vượt trước” thì tình trạng phù hợp sẽ bị phá vỡ, xuất
hiện mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Mâu
thuẫn trên tồn tại đến một lúc nào đó thì quan hệ sản xuất sẽ "trở thành xiềng xích của lực
lượng sản xuất", kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đó gọi là sự không phù hợp
(hay mâu thuẫn) giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Nguyên nhân của phù hợp hay không phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất là do tính năng động của lực lượng sản xuất mâu thuẫn với tính ổn
định tương đối của quan hệ sản xuất. Trong sự phù hợp đã có những biểu hiện không phù
hợp và trong không phù hợp đã chứa đựng những điều kiện, yếu tố để chuyển thành phù hợp.
Đó chính là biểu hiện của phù hợp, khơng phù hợp có tính biện chứng. C. Mác đã nhận định:
“Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, lực lượng sản xuất mâu thuẫn với quan hệ
sản xuất hiện có…trong đó từ trước đến nay lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là
hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của lực
lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”. Có mục đích cơ bản là
giải quyết mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
bằng cách xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ và thay vào đó một quan hệ sản xuất mới, phù hợp với
trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất; mở đường cho lực lượng sản xuất đó phát
triển tiếp theo. Cứ như thế, sự phát triển biện chứng của phương thức sản xuất tuân theo
chuỗi xích phù hợp, khơng phù hợp. Việc xố bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế bằng quan hệ
sản xuất mới đồng nghĩa với sự xoá bỏ phương thức sản xuất cũ, tạo điều kiện cho sự ra đời
của phương thức sản xuất mới cao hơn, tiến bộ hơn.

Page | 9


lOMoARcPSD|11346942

Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất là quy luật vận động, phát triển của xã hội qua sự thay thế phương thức sản xuất này
bằng phương thức sản xuất khác dẫn đến hình thái kinh tế xã hội này được thay thế bằng

hình thái kinh tế xã hội khác cao hơn, tiến bộ hơn. Nhưng không phải bất cứ nước nào cũng
phải nhất thiết tuần tự trải qua tất cả các hình thái kinh tế xã hội mà loài người đã biết đến.
Thực tế phát triển của lịch sử nhân loại cho thấy, tùy theo điều kiện lịch sử- cụ thể, một số
nước có thể bỏ qua một hoặc một số hình thái kinh tế xã hội để tiến lên một hình thái cao
hơn, phù hợp hơn.
II. TÍNH TẤT YẾU CỦA Q TRÌNH CƠNG NGHIỆP HÓA HIÊN ĐẠI HÓA Ở
VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để,
toàn diện, từ xã hội cũ sang xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Nó diễn ra từ khi cách
mạng vơ sản thắng lợi, giai cấp vơ sản giành được chính quyền, bắt tay vào việc xây dựng xã
hội mới và kết thúc khi xây dựng thành công các cơ sở của xã hội xã hội chủ nghĩa về vật
chất - kỹ thuật, kinh tế, văn hố, tư tưởng. Nói cách khác, kết thúc thời kỳ quá độ khi đã xây
dựng xong cả về lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất, cả cơ sở kinh tế lẫn kiến trúc
thượng tầng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc
địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất là rất thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến
tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân, phong kiến cịn nhiều. Các thế lực
thù địch thường xun tìm cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của
nhân dân ta.
Việc bỏ qua giai đoạn lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản ở nước ta làm cho dân
tộc tránh khỏi những đau khổ, bất hạnh gắn liền với chủ nghĩa tư bản nhưng mặt khác lại có
những khó khăn. Nước ta bước vào thời kì quá độ thiếu một trình độ cần thiết về xã hội hóa
lao động, về phát triển sản xuất hàng hóa, phát triển kỹ thuật, về cơ sở vật chất, những điều
kiện cơ bản cần thiết cho chủ nghĩa xã hội.
2. Khái niệm cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

Page | 10



lOMoARcPSD|11346942

Cho đến nay có nhiều cách diễn đạt khác nhau về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đảng và nhà nước đã kế thừa có chọn lọc những tri thức văn minh nhân loại và rút kinh
nghiệm trong lịch sử tiến hành cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đã xác định: “Cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa là q trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh
doanh, dịch vụ và quản lý ngang xã hội, từ sử dụng lao động thủ cơng là chính sang sử dụng
một cách phổ biến sức lao động với công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, nhằm tạo ra
năng suất lao động xã hội cao”.
3. Tính tất yếu khách quan của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Từ đại hội Đảng lần thứ VIII đến nay, Đảng ta luôn xác định cơng nghiệp hóa là
nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Để có một xã hội như
ngày nay khơng phải do tự nhiên mà có, nó do q trình tích luỹ về lượng ngay từ khi loài
người xuất hiện, khi mà sản xuất thô sơ, đời sống không ổn định, cơ sở vật chất hầu như
khơng có gì nhưng bằng sự nỗ lực, con người tác động vào giới tự nhiên, cải biến nó thơng
qua lao động và trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, giờ đây con người đã tạo ra được
những thành công đáng kể. Thành tựu đạt được là do quy luật phát triển, do tự thân vận động
của con người trong toàn xã hội. Ngày nay, trong công cuộc xây dựng kinh tế, các nước đã
cố gắng rất nhiều trong cuộc chạy đua về kinh tế. Thể hiện ở các chính sách, đường lối về
phát triển kinh tế ngày một toàn diện hơn, về các mặt quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất,
nền văn hóa và con người của xã hội đó. Muốn xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật, phát triển
lực lượng sản xuất thì cơng nghiệp hóa- hiện đại hóa chính là con đường duy nhất và tất yếu
để đạt được điều đó. Cơng nghiệp hố là xu hướng mang tính quy luật của các nước đi từ nền
sản xuất nhỏ lên một nền sản xuất lớn như nước ta hiện nay. Tuy nhiên, tuỳ từng nước khác
nhau, do điểm xuất phát tiến lên khác nhau, mục tiêu phát triển không giống nhau nên cách
thức tiến hành cơ sở vật chất-kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại không giống nhau. Đối
với những nước có nền kinh tế kém phát triển như nước ta thì cơng nghiệp hóa là q trình
mang tính quy luật, tất yếu để tồn tại và phát triển nhằm tạo ra cơ sở vật chất-kỹ thuật cho
nền sản xuất lớn hiện đại.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong hồn cảnh quốc tế có những biến đổi to lớn

và sâu sắc. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn hút
tất cả các nước ở mức độ khác nhau. Nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội đang trong quá

Page | 11
Downloaded by Quang Tr?n ()


lOMoARcPSD|11346942

trình quốc tế hóa sâu sắc, ảnh hưởng lớn tới nhịp độ phát triển lịch sử và cuộc sống của các
dân tộc. Những xu thế đó vừa tạo thời cơ phát triển nhanh cho các nước, vừa đặt ra những
thách thức gay gắt, nhất là đối với những nước lạc hậu về kinh tế. Việt Nam là một nước có
nền kinh tế nhỏ, người dân chủ yếu làm nông nghiệp, lại lạc hậu về khoa học-kỹ thuật, lực
lượng sản xuất còn non nớt chưa phù hợp với quan hệ sản xuất của chủ nghĩa xã hội. Để có
cơ sở kỹ thuật của nền sản xuất lớn, chỉ có con đường là cơng nghiệp hóa, cơ khí hóa cân đối
và hiện đại trên trình độ khoa học kỹ thuật phát triển cao. Muốn vậy, cơng nghiệp hóa-hiện
đại hóa phải phát triển tuần tự và phát triển nhảy vọt, cùng lúc thực hiện hai cuộc cách mạng
đó là chuyển lao động thơ sơ sang lao động bằng máy móc và chuyển lao động máy móc
sang lao động tự động hố có sự chỉ đạo của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, trên phạm vi tồn thế giới, cơng nghiệp hóa vẫn đang được coi là phương hướng
chủ đạo, phải trải qua của các nước đang phát triển. Đối với nước ta, khi những tư tưởng cơ
bản trong học thuyết Mác về hình thái kinh tế-xã hội được nhận thức lại một cách khoa học
và sâu sắc với tư cách là cơ sở lý luận của cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước thì chúng
ta phải đẩy mạnh sự nghiệp này trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội để nhanh chóng
tạo ra lực lượng sản xuất, hiện đại cho chế độ xã hội mới. Công nghiệp hóa phải đi đơi với
hiện đại hóa, kết hợp những bước tiến tuần tự về công nghệ với việc tranh thủ những cơ hội
đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học
cơng nghệ trên thế giới.
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là tất yếu khách quan vì nó là con đường duy nhất để
tạo ra sự phát triển về chất đối với lực lượng sản xuất và năng suất lao động. Chất của lực

lượng sản xuất là hệ thống cơng cụ lao động hiện đại với trình độ cơng nghệ hiện đại. Cơng
nghiệp hóa tạo điều kiện để đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng tăng của mọi
thành viên trong xã hội bởi vì cơng nghiệp hóa sẽ làm cho lực lượng sản xuất phát triển,
năng suất lao động tăng, khối kượng của cải sản xuất ra ngày càng nhiều tù đó mới có thể
đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội nói chung và của con người nói riêng.
4. Q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa Xã hội
Trước khi đi vào cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và muốn thành cơng trên đất nước thì
phải có tiềm lực về kinh tế con người trong đó lực lượng lao động là một yếu tố quan trọng.

Page | 12
Downloaded by Quang Tr?n ()


lOMoARcPSD|11346942

Ngồi ra phải có sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất mới là yếu tố căn bản nhất.
Trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở nước ta với nền kinh tế chưa phát triển
cao, lực lượng sản xuất ln tồn tại ở nhiều trình độ khác nhau, tương ứng với mỗi trình độ
của lực lượng sản xuất sẽ có một kiểu quan hệ sản xuất. Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá
độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam là điểm xuất phát rất thấp, sản xuất nhỏ là phổ biến.
Chúng ta sẽ không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội nếu không xây dựng nền công
nghiệp tiên tiến. Nước ta xuất phát từ một nền kinh tế tiểu nông, con đường phát triển mang
tính tự phát sẽ là trải qua chủ nghĩa tư bản, song để tránh cho nhân dân khỏi những đau khổ
mà chế độ tư bản chủ nghĩa có thể gây ra, Đảng ta dứt khốt lựa chọn con đường xã hội chủ
nghĩa. Tuy nhiên để thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta cần sử dụng
chủ nghĩa tư bản nhà nước như một công cụ hữu hiệu. Việt Nam không theo con đường tư
bản chủ nghĩa nhưng không phải triệt tiêu tư bản mà vẫn quan hệ với chủ nghĩa tư bản trên
cơ sở có lợi cho đơi bên và học hỏi những thành tựu tiên tiến của họ. Điều quan trọng là phải

nhận thức được vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong thời kỳ quá độ. Như thế mới
thúc đẩy sự phát triển của lực lượng lao động.
Quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trước hết là q trình cải biến lao động thủ
cơng, lạc hậu thành lao động sử dụng máy móc. Đó chính là phải cơ khí hóa nền kinh tế quốc
dân. Đây là bước chuyển đổi rất căn bản từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công
nghiệp. Đi liền với cơ khí hóa là điện khí hóa và tự động hóa sản xuất từng bước trong toàn
bộ nền kinh tế. Sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa địi hỏi phải xây dựng và phát triển
mạnh mẽ các ngành công nghiệp, trong đó then chốt là ngành chế tạo tư liệu sản xuất. Sự
phát triển của các ngành chế tạo tư liệu sản xuất là cơ sở, bước đệm để cải tạo, phát triển nền
kinh tế. Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa cịn là sử dụng kỹ thuật, công nghệ ngày
càng tiên tiến hiện đại nhằm đạt năng suất lao động xã hội cao.
Đồng thời, mục tiêu của cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa cịn là sử dụng kỹ thuật, công
nghệ ngày càng tiên tiến hiện đại nhằm đạt được năng suất lao động xã hội cao. Khi mà nền
khoa học của thế giới đang có sự phát triển như vũ bão, khoa học đang trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp tức là trở thành nhân tố quyết định đến khả năng cạnh tranh của hàng hoá,
hiệu quả của sản xuất, kinh doanh thì khoa học-cơng nghệ phải là động lực của công nghiệp

Page | 13
Downloaded by Quang Tr?n ()


lOMoARcPSD|11346942

hóa-hiện đại hóa. Vì thế, phát triển khoa học- cơng nghệ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
sự nghiệp cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước. Để có thể phát triển khoa học- công nghệ
trong điều kiện Việt Nam hiện nay cần xác định được những phương hướng đúng đắn cho sự
phát triển của khoa học-cơng nghệ, ví dụ như phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng
mọi khả năng để đạt được trình độ tiên tiến, tranh thủ ứng dụng nhiều hơn thành tựu về khoa
học-công nghệ… và phải tạo dựng được những điều kiện cần thiết cho sự phát triển của khoa
học-công nghệ như đảm bảo đội ngũ cán bộ khoa học có số lượng lớn, chất lượng cao, các

chính sách kinh tế-xã hội phù hợp.
Trong q trình cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa, người lao động – lực lượng sản xuất
thứ nhất phải được nâng cao trình độ văn hố và kỹ thuật vì họ vừa là kết quả sự phát triển
lực lượng sản xuất, vừa là người tạo ra sự phát triển đó.
Cơng nghiệp hóa ở nước ta nhằm mục tiêu đi lên xây dựng Chủ nghĩa Xã hội. Do đó,
cơng nghiệp hóa khơng chỉ là phát triển lực lượng sản xuất mà còn là q trình thiết lập,
củng cố và hồn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất và
phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, bất cứ sự thay đổi nào của quan hệ sản xuất,
nhất là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, cũng đều là kết quả tất yếu của sự phát triển lực
lượng sản xuất. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa khơng chỉ là phát triển mạnh lực lượng sản
xuất, khơi dậy và khai thác mọi tiềm năng kinh tế, mọi nguồn lực để thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và tùy theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà quan hệ sản xuất sẽ từng
bước được cải biến cho phù hợp.
Trong thời đại ngày nay, cơng nghiệp hóa khơng chỉ đơn thuần là phát triển công
nghiệp, cũng không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của nghành cơng nghiệp.
Q trình cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa cũng là q trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Cơng
nghiệp hóa-hiện đại hóa địi hỏi phải xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại. Và xu hướng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý, tiến bộ là tỷ trọng khu vực xây dựng và công
nghiệp, đặc biệt là tỷ trọng khu vực dịch vụ ngày càng tăng, tỷ trọng khu vực nơng-lâm-ngư
nghiệp và khai khống ngày càng giảm trong tổng giá trị sản phẩm xã hội. Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thực hiện theo phương
châm: kết hợp cơng nghệ với nhiều trình độ, tranh thủ cơng nghệ mũi nhọn-tiên tiến vừa tận

Page | 14
Downloaded by Quang Tr?n ()


lOMoARcPSD|11346942


dụng được nguồn lao động dồi dào, vừa cho phép rút ngắn khoảng cách lạc hậu, vừa phù
hợp với nguồn vốn có hạn ở trong nước; lấy quy mơ vừa và nhỏ là chủ yếu, có tính đến quy
mơ lớn nhưng phải là quy mơ hợp lý và có điều kiện; giữ được tốc độ tăng trưởng hợp lý…
Vì vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta những năm trước mắt cần thực hiện theo định
hướng chung sau đây: chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát huy
các thế mạnh của đất nước, tăng sức cạnh tranh, gắn với nhu cầu thị trường trong nước và
ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu.
Như vậy, cơng nghiệp hóa tất yếu gắn liền với hiện đại hóa để từng bước tạo ra những
giá trị vật chất mới với trình độ cơng nghệ cao, hồn thành cơ bản việc xây dựng cơ sở vật
chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Thực tế phát triển kinh tế ở nước ta gần 40 năm qua đã chứng minh rằng: quan hệ sản
xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất khơng chỉ khi nó trở nên lạc hậu, mà cả
khi nó được áp đặt một hình thức đi trước quá xa so với lực lượng sản xuất, một lần nữa quy
luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
lại thể hiện rõ tính tất yếu và tính phổ biến mạnh mẽ của nó bất chấp cả ý muốn chủ quan của
con người. Dù mong muốn đẩy mạnh phát triển sản xuất, nhanh chóng thực hiện cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, chúng ta cũng không thể bất chấp quy luật, mà trái lại
phải tôn trọng và hành động đúng quy luật khách quan. Đó là một trong những bài học lớn
mà Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã chỉ rõ. Với Nghị quyết Đại
hội VI, chúng ta đã quyết định đấu tranh xóa bỏ cơ chế hành chính tập trung, quan liêu, bao
cấp, chuyển dần kinh tế sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế
kinh tế mới khuyến khích phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, mở rộng quan hệ
kinh tế với các nước, các khu vực trên thế giới, động viên mọi người làm giàu trong khuôn
khổ luật pháp cho phép.
Đường lối của đảng đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, được nhân dân lao động hứng
khởi hưởng ứng và đã đem lại nguồn sinh khí mới, tạo đà cho nền kinh tế phát triển nhanh
chóng và dần dần đi vào thế ổn định. Sau tám năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã
đạt được những thành tựu đáng kể: tăng trưởng kinh tế khá, lạm phát được đẩy lùi, đời sống
nhân dân được cải thiện từng bước. Sở dĩ có sự chuyển biến đi lên theo hướng vững chắc
như vậy chính là nhờ chúng ta đã đổi mới từng bước quan hệ sản xuất cho phù hợp với sự

phát triển của lực lượng sản xuất, do đó đã giải phóng sức sản xuất của xã hội, khai thác

Page | 15
Downloaded by Quang Tr?n ()


lOMoARcPSD|11346942

được các tiềm năng cả ở bên trong và bên ngồi, làm cho lực lượng sản xuất nước ta có
những bước phát triển nhảy vọt về chất.
Đối với nước ta, một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội, tiến hành
cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa càng là một yêu cầu cấp bách, là nhiệm vụ trung tâm có tầm
quan trọng hàng đầu trong suốt thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội. Tại Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng, sau khi phân tích những thuận lợi, khó khăn, thực trạng của
đất nước và tính tốn các mặt đã đưa ra mục tiêu tổng quát và nhiệm vị chủ yếu với nội
dung: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn
hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công
nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế nước ta trên trường
quốc tế được nâng cao”.

Page | 16
Downloaded by Quang Tr?n ()


lOMoARcPSD|11346942

KẾT LUẬN
Từ những phân tích trên ta có thể nói cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa là một q trình tất

yếu để đưa đất nước ta từ một nước nghèo nàn, lạc hậu trở thành một nước công nghiệp phát
triển để từng bước tiến lên sánh vai với các cường quốc năm châu. Những thành tựu và kinh
nghiệm mà chúng ta đã đạt được đã tạo tiền đề cho phép Đảng ta quyết định chuyển mọi hoạt
động của đất nước sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh và vựng chắc tiến trên con
đường xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện được điều đó chúng ta cần phải hiểu và vận dụng một
cách tốt nhất quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất – một quy luật tất yếu đối với q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.

Page | 17
Downloaded by Quang Tr?n ()


lOMoARcPSD|11346942

Tài liệu tham khảo
1. C. Mác và Ph. Ăngghen : Tồn tập, 2004, t.13.
2. Giáo trình Triết học Mác- Lênin, NXB Chính Trị Quốc Gia.
3. Giáo trình Kinh tế chính trị, NXB Chính Trị Quốc Gia.
4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX.

Page | 18
Downloaded by Quang Tr?n ()



×