Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng và sự vận dụng trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.69 KB, 14 trang )

A.MỞ ĐẦU
Xét về hoàn cảnh lịch sử, xuất phát điểm của nền kinh tế phong kiến vốn đã lạc hậu
lại phải trải qua hai cuộc chiến tranh tàn khốc, càng thêm kiệt quệ bởi chiến tranh. Sau
chiến tranh, bắt đầu từ cơ sở kinh tế lạc hậu, trì trệ đó, nước ta xây dựng nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, khiến cho dất nước lâm vào tình trạng
khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng. Trong khi đó, nhờ sử dụng triệt để kinh tế thị
trường mà CNTB đã đạt được những thành tựu về kinh tế - xã hội, phát triển lực
lượng sản xuất, nâng cao năng xuất lao động. Cũng nhờ kinh tế thị trường, quản lý xã
hội đạt được những thành tựu kinh tế - xã hội, phát triển lực lượng sản xuất nâng cao
năng suất lao động. Cũng nhờ kinh tế thị trường, quản lý xã hội đạt được những thành
quả về văn minh tài chính, văn minh cơng cộng; con người nhạy cảm, tinh tế, với khả
năng sáng tạo, sự thách thức đấu tranh phát triển. Trước tình hình đó, trong Đại hội
Đảng VI, Đảng ta kịp thời nhận ra sai lầm và tiến hành sửa đổi, chuyển sang xây dựng
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, kích thích sản xuất, phát triển kinh tế
nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh.
Mới chập chững những bước đầu tiên vào nền kinh tế thị trường đầy khó khăn, thử
thách, phức tạp, nền kinh tế Việt Nam đòi hỏi sự học tập, tiếp thu kinh nghiệm của
nhân loại trên cơ sở cân nhắc, chọn lựa phù hợp với hồn cảnh điều kiện của Việt
Nam. Trong q trình học hỏi đó, triết học Mác – Lênin, đặc biệt là phạm trù triết học
cái chung và cái riêng có vai trò là kim chỉ nan cho mọi hoạt động nhận thức về thị
trường.
Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,việc quản lý đúng
đắn của Đảng và Nhà nước rất quan trọng. Với mong muốn ủng hộ và tìm hiểu về nền
kinh tế Việt Nam , tôi chọn vấn đề “Mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng và sự
vận dụng trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta”
Hoàn thành tiểu luận này, tơi hi vọng mình có thể góp một phần nhỏ trong việc làm
rõ, củng cố lòng tin cho mọi người vào công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước.
Hướng tới xây dựng dựng một nhà nước vững mạnh trở thành một bộ phận không thể
thiếu của nền kinh tế thế giới.
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận


1. Khái niệm
- Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính khơng
những có ở một sự vật, một hiện tượng nào đó, mà còn lặp lại trong nhiều sự vật, hiện
tượng (nhiều cái riêng) khác nữa. Ví dụ như qui luật cung – cầu, qui luật giá trị thăng
dư là những đặc điểm chung mọi nền kinh tế thị trường bắt buộc phải tuân theo.


- Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng nhất định. Ví
dụ cái riêng trong lịch sử xã hội là một sự kiện riêng lẻ nào đó như: cuộc cách mạng
tháng Tám của Việt Nam. Một con người nào đó: Ngọc, Trang,… cũng là cái riêng
- Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ các mặt, các đặc điểm chỉ vốn có ở
một sự vật, hiện tượng (một cái riêng) nào đó mà khơng lặp lại ở sự vật, hiện tượng
nào khác. Ví dụ chiều cao, cân nặng, vó dáng,… của một người là cái đơn nhất
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng:
Trong lịch sử triết học đã có hai xu hướng - duy thực và duy danh - đối lập
nhau giải quyết vấn đề quan hệ giữa cái riêng và cái chung. Các nhà duy thực khẳng
định, cái chung tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào cái riêng. Các nhà duy danh cho
rằng, cái chung không tồn tại thực trong hiện thực khách quan. Chỉ có sự vật đơn lẻ,
cái riêng mới tồn tại thực. Cái chung chỉ tồn tại trong tư duy con người. Cái chung chỉ
là tên gọi, danh xưng của các đối tượng đơn lẻ. Tuy cùng coi cái riêng là duy nhất có
thực, song các nhà duy danh giải quyết khác nhau vấn đề hình thức tồn tại của nó.
Một số (như Occam) cho rằng, cái riêng tồn tại như đối tượng vật chất cảm tính; số
khác (Béccli) lại coi cảm giác là hình thức tồn tại của cái riêng…
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục những khiếm khuyết của cả hai xu
hướng đó trong việc lý giải mối quan hệ cái chung - cái riêng. Cả cái chung lẫn cái
đơn nhất đều không tồn tại độc lập, tự thân, chúng là thuộc tính nên phải gắn với đối
tượng xác định. Chỉ cái riêng (đối tượng, quá trình, hiện tượng riêng) mới tồn tại độc
lập. Cái chung và cái đơn nhất đều chỉ tồn tại trong cái riêng, như là các mặt của cái
riêng.
Cái chung không tồn tại độc lập, mà là một mặt của cái riêng và liên hệ không

tách rời với cái đơn nhất, hệt như cái đơn nhất liên hệ chặt chẽ với cái chung. “Bất cứ
cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái
riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung…”1. Cái riêng khơng vĩnh cửu,
nó xuất hiện, tồn tại một thời gian xác định rồi biến thành cái riêng khác, rồi lại thành
cái riêng khác nữa… cứ thế mãi vô cùng. V.I. Lênin viết: “Bất cứ cái riêng nào cũng
thơng qua hàng nghìn sự chuyển hóa mà liên hệ với những cái riêng thuộc loại khác
(sự vật, hiện tượng, q trình). Nó “chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung” 2
và có khả năng chuyển hóa ở những điều kiện phù hợp thành cái riêng bất kỳ khác.
Mọi cái riêng đều là sự thống nhất các mặt đối lập cái đơn nhất và cái chung.
Thơng qua những thuộc tính, những đặc điểm khơng lặp lại của mình, nó thể hiện là
cái đơn nhất; nhưng thơng qua những thuộc tính lặp lại ở các đối tượng khác – nó lại
thể hiện là cái chung. Trong khi là những mặt của cái riêng, cái đơn nhất và cái chung
không đơn giản tồn tại trong cái riêng, mà gắn bó hữu cơ với nhau và trong những
điều kiện xác định có thể chuyển hóa vào nhau.

1 V. I. Lênin: Bút ký triết học//Toàn tập, Hà Nội, 2005, t. 29, tr. 381
2 V. I. Lênin: Bút ký triết học//Toàn tập, Hà Nội, 2005, t. 29, tr. 381


Mối liên hệ giữa cái đơn nhất với cái chung thể hiện trước hết ở mối liên hệ lẫn
nhau trong một thể thống nhất gồm các mặt, các yếu tố đơn lẻ vốn có trong một sự
vật, hiện tượng này và các mặt, các yếu tố được lặp lại ở nó và trong các sự vật, hiện
tượng khác. Mối liên hệ giữa cái chung với cái riêng biểu hiện là mối liên hệ lẫn nhau
giữa các thuộc tính (hay các bộ phận) cùng có ở nhiều đối tượng với từng đối tượng
đó được xét như cái tồn bộ. Như vậy, cái riêng là cái toàn bộ, cái chung chỉ là bộ
phận bởi bên cạnh cái chung thì bất cứ đối tượng (cái riêng) nào cũng cịn có cái đơn
nhất, tức là bên cạnh những mặt được lặp lại cịn có những mặt khơng lặp lại, những
mặt cá biệt; vì vậy, bất cứ sự vật, hiện tượng riêng lẻ nào cũng là sự thống nhất giữa
các mặt đối lập đó. Trong cùng một lúc, sự vật, hiện tượng đó vừa là cái đơn nhất, vừa
là cái chung; thông qua các đặc điểm cá biệt, các mặt khơng lặp lại của mình, sự vật,

hiện tượng (cái riêng) đó biểu hiện là cái đơn nhất, nhưng thông qua các mặt lặp lại
trong các sự vật, hiện tượng khác, nó biểu hiện là cái chung.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Thứ nhất, nếu bất cứ cái chung nào cũng chỉ tồn tại trong cái riêng, như một
thuộc tính chung của một số cái riêng, nằm trong mối liên hệ chặt chẽ với cái đơn
nhất và mối liên hệ đó đem lại cho cái chung một hình thức riêng biệt, thì các phương
pháp thực tiễn dựa trên việc vận dụng một quy luật chung nào đó đều không thể như
nhau đối với mọi sự vật, hiện tượng (cái riêng) có liên hệ với cái chung đó. Vì bản
thân cái chung trong mọi sự vật, hiện tượng khơng phải là một và khơng giống nhau
hồn tồn, mà chỉ là biểu hiện của cái chung đã được cá biệt hóa, thì các phương pháp
xuất phát từ cái chung đó, trong mỗi trường hợp cụ thể, cần phải thay đổi hình thức,
phải cá biệt hóa cho phù hợp với đặc điểm của từng trường hợp. Thứ hai, nếu bất kỳ
một phương pháp nào cũng bao hàm cả cái chung lẫn cái đơn nhất, thì khi sử dụng
một kinh nghiệm nào đó trong điều kiện khác, khơng nên sử dụng hình thức hiện có
của nó, mà chỉ nên rút ra những mặt chung đối với trường hợp đó, chỉ rút ra những cái
thích hợp với điều kiện nhất định đó. Thứ ba, trong quá trình phát triển của sự vật,
trong những điều kiện nhất định “cái đơn nhất” có thể biến thành “cái chung” và
ngược lại “cái chung” có thể biến thành “cái đơn nhất”, nên trong hoạt động thực tiễn
có thể và cần phải tạo điều kiện thuận lợi để “cái đơn nhất” có lợi cho con người trở
thành “cái chung” và “cái chung” bất lợi trở thành “cái đơn nhất”.
II. Vận dụng cặp phạm trù này vào trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường
ở nước ta
1.Tổng quan, quan điểm về nền kinh tế thị trường
a) Khái niệm kinh tế thị trường
Trên góc độ vĩ mơ, thị trường là một phạm trù kinh tế tồn tại một cách khách quan
cùng với sự tồn tại và phát triển của sản xuất hàng hố, và lưu thơng hàng hố. Ở đâu
và khi nào có sản xuất hàng hố thì ở đó và khi ấy có thị trường. Theo David Begg,
thị trường "là sự biểu hiện thu gọn của quá trình mà thơng qua đó các quyết định của
các gia đình về tiêu dùng các mặt hàng nào, các quyết định của các cơng ty về sản
xuất cái gì, sản xuất như thế nào và cái quyết định của người công nhân về việc làm



bao lâu, cho ai đều được dung hòa bằng sự điều chỉnh giá cả". Ta cũng có thể định
nghĩa thị trường là nơi diễn ra hoạt động mua bán hàng hóa, nơi cung gặp cầu.
Kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm có năng suất,
chất lượng và hiệu quả cao; dư thừa và phong phú hàng hoá; dịch vụ được mở rộng và
coi như hàng hố thị trường; năng động, ln ln đối mới mặt hàng, cơng nghệ và
thị trường. Đó là một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, với những đặc
trưng cơ bản như: phát triển kinh tế hàng hoá, mở rộng thị trường, tự do kinh doanh,
tự do thương mại, tự định giá cả, đa dạng hoá sở hữu, phân phối do quan hệ cungcầu,..
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế tổng qt, là sự
vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất trong phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay
b) Đặc trưng của nền kinh tế thị trường
* 5 đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam cụ thể là:
– Thứ nhất là mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
+ Để có thể phân biệt nền kinh tế thị trường của nước ta so với nền kinh tế thị trường
khác phải nói đến mục đích chính trị mục tiêu kinh tế xã hội mà Đảng và nhân dân đã
chọn. Mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là
nhằm thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
+ Làm cho dân giàu: Nội dung căn bản của dân giàu là mức bình quân GDP đầu
người tăng nhanh trong một thời gian ngắn và khoảng cách giàu, nghèo trong xã hội
ngày càng được thu hẹp.
+ Làm cho nước mạnh: Thể hiện ở mức đóng góp to lớn của nền kinh tế thị trường
cho ngân sách quốc gia; ở sự gia tăng ngành kinh tế mũi nhọn; ở sự sử dụng tiết kiệm,
có hiệu quả các nguồn tài nguyên quốc gia; ở sự bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ
các bí mật quốc gia về tiềm lực kinh tế, khoa học, cơng nghệ và an ninh, quốc phịng.
+ Làm cho xã hội công bằng, văn minh: Thể hiện ở việc xử lý các quan hệ lợi ích

ngay trong nội bộ nền kinh tế thị trường, ở đó việc góp phần to lớn vào giải quyết các
vấn đề xã hội, ở việc cung ứng các hàng hóa và dịch vụ có giá trị khơng chỉ về kinh tế
mà cịn có giá trị cao về văn hóa, xã hội.
+ Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam lấy lợi ích và phúc lợi
tồn dân làm mục tiêu. Phát triển kinh tế thị trường để phát triển lực lượng sản xuất,
giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất; xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội
nâng cao đời sống nhân dân bằng việc đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích
mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thốt nghèo và từng
bước khá giả hơn. Kinh tế thị trường bản thân nó là nội lực thúc đẩy tiến trình kinh tế
– xã hội. Mục tiêu này thể hiện rõ mục đích phát triển kinh tế thị trường là vì con
người, nâng cao đời sống nhân dân, mọi người điều được hưởng thụ thành quả của sự
phát triển.
– Thứ hai là vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa


+ Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tồn tại
nhiều hình thức sở hữu với nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Theo quan điểm tại
đại hội XII của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay có bốn thành phần kinh tế gồm:
thành phần kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế tư nhân và
thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi.
+ Các thành phần kinh tế độc lập với nhau bình đẳng với nhau trước pháp luật. Nhà
nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển.
+ Ngoài ra mỗi thành phần kinh tế chịu sự tác động của các quy luật kinh tế riêng bên
cạnh tính thống nhất giữa các thành phần kinh tế cũng có sự khác nhau thậm chí có
thể có mẫu thuẫn khiến cho nền kinh tế thị trường ở nước ta có khả năng phát triển
theo những hướng khác nhau. Các thành phần kinh tế khác nhau dựa trên các quan hệ
sở hữu khác nhau và thường đại diện cho những giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau.
Do đó trong q trình cùng phát triển chúng đan xen đấu tranh mâu thuẫn và phát
triển theo những khuynh hướng khác nhau. Vì vậy kinh tế nhà nước phải giữ vai trò
chủ đạo là để giữ vững định hướng xả hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế

– Thứ ba là hoạt động quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
+ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đại diện cho đa số nhân dân trong xã hội và
phải bảo vệ quyền lợi, lợi ích của nhân dân.
+ Quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, bằng chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng
thời sự dụng cơ chế thị trường, các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế
thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy tính tích cực và
khắc phục những tiêu cực, hạn chế do cơ chế thị trường mang lại, bảo vệ lợi ích của
nhân dân và xã hội.
– Thứ tư kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện đa dạng hóa các
hình thức phân phối.
+ Mỗi chế độ xã hội lại có hình thức phân phối đặc trưng. Các hình thức phân phối là
một bộ phận của quan hệ sản xuất và do quan hệ sở hữu quyết định. Nhưng ngược lại
quan hệ phân phối là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của quan hệ sở hữu.
+ Tại Việt Nam hiện đang thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động,
hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông
qua phúc lợi xã hội. Cơ chế phân phối này tạo động lực để kích thích các chủ thể kinh
tế nâng cao hiệu quả hoạt động, sản xuất, kinh doanh, đồng thời hạn chế những bất
cơng trong xã hội.
+ Do trình độ của lực lượng sản xuất còn chưa đồng đều nên tồn tại nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, do đó tất yếu cần có sự tồn tại đa dạng về quan hệ
phân phối.
– Thứ năm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời với bảo đảm công bằng xã hội nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Nền kinh tế luôn gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, giáo dục, xây dựng
con người và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
+ Nền kinh tế đó ln có sự gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội,
phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, mọi người đều có


cơ hội và điều kiện phát triển toàn diện. Đây cũng là một trong những mục tiêu của

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự khác biệt so với kinh
tế thị trường tư bản chủ nghĩa về việc phân cực giàu nghèo, phân hóa xã hội.
Ngoài ra nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế độc lập, tự
chủ đi đôi với chủ động hội nhập quốc tế, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn
lực tổng hợp để phát triển đất nước.
c) Tất yếu của nền kinh tế thị trường
Xét về hoàn cảnh lịch sử, xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta là kinh
tế phong kiến. Ngoài ra nước ta vừa mới trải qua hai cuộc chiến tranh giữ nước
khốc liệt, mà ở đó, cơ sở vật chất vốn đã ít ỏi cịn bị tàn phá nặng nề.
Sau chiến tranh, ta tiếp tục xây dựng nền kinh tế bao cấp, kế hoạch hoá
tập trung dựa trên hình thức sở hữu cơng cộng về TLSX. Trong thời gian đầu
sau chiến tranh, với sự nỗ lực của nhân dân ta, cùng sự giúp đỡ của các nước
trong hệ thống XHCN mà mơ hình kế hoạch hố đã phát huy được tính ưu việt
của nó. Từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán, bằng công cụ kế hoạch hoá nhà nước
đã tập trung vào tay mình một lượng vật chất quan trọng về đất đai, tài sản
và tiền bạc để ôn định và phát triển kinh tế. Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời
kỳ này tỏ ra phù hợp, đã huy động ở mức cao nhất sức người sức của cho tiền
tuyến.
Sau ngày giải phóng miền Nam, trên bức tranh về nền kinh tế nước ta tồn
tại một lúc cả ba gam màu: kinh tế tự cấp tự túc, kinh tế kế hoạch hoá tập trung
và kinh tế hàng hố. Do sự khơng hải hoà giữa các nền kinh tế và sự chủ quan
cứng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý mà chúng ta đã
không tạo ra được động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển mà cịn gây lãng phí
tài ngun, ơ nhiễm mơi trường... Lúc này, nước ta đồng thời cũng bị cắt giảm
nguồn viện trợ từ các nước XHCN. Tắt cả những nguyên nhân đó đã khiến cho
nền kinh tế nước ta trong những năm cuối thập kỷ 80 lâm vào khủng hoảng trầm
trọng, đời sống nhân dân bị giảm sút, thậm chí ở một số nơi cịn bị nạn đói đe
doạ. Ngun nhân của sự suy thoái này là từ những sai lầm cơ bản như:
- Ta đã thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất trên một qui
mô lớn trong điều kiện chưa cho phép, khiến cho một bộ phận tài sản vô

chủ và không sử dụng có hiệu quả nguồn lực vốn đang rất khan hiếm của
đất nước trong khi dân số ngày một gia tăng với tỉ lệ khá cao 2, 2%.
- Thực hiện việc phân phối theo lao động cũng trong điều kiện chưa cho
phép. Khi tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình thức vừa phân
phối bình quân vừa phân phối lại một cách gián tiếp đã làm mất động lực
của sự phát triển.
Việc quản lý kinh tế của nhà nước lại sử dụng các cơng cụ hành chính,
mệnh lệnh theo kiểu thời chiến khơng thích hợp với u cầu tự do lựa chọn của
người sản xuất và người tiêu đùng đã khơng kích thích sự sáng tạo của hàng
triệu người lao động.
Trong khi đó, nhờ sử dụng triệt để kinh tế thị trường, CNTB đã đạt được


những thành tựu về kinh tế- xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng
suất lao động. Cũng nhờ kinh tế thị trường, quản lý xã hội đạt được những thành
quả về văn minh hành chính, văn minh công cộng; con người nhạy cảm, tỉnh tế,
với khả năng sáng tạo, sự thách thức đua tranh phát triển. Do mắc phải những
sai lầm như trên mà đẻ phát triển kinh tế XHCN ở nước ta không thể chấp nhận
việc tiếp tục kế hoạch hố tập trung như trước.Do đó, sự tồn tại kinh tế hàng hóa ,
kinh tế thị trường ở nước ta là một tất yếu khách quan:
+ Phân công lao động xã hội là cơ sở tất yếu của nền sản xuất hàng hóa vẫn tồn tại và
ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu ở nước ta hiện nay
Phân công lao động xã hội phát triển thể hiện ở chỗ các ngành nghề ở nước ta ngày
càng đa dạng, phong phú, chuyên môn hóa sâu. Tác động của phân cơng lao động:
– Góp phần phá vỡ tính chất tự cung tự cấp của nền kinh tế tự nhiên trước đây và thúc
đẩy kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ hơn.
– Là cơ sở và là động lực để nâng cao năng suất lao động xã hội, nghĩa là làm cho nền
kinh tế ngày càng có nhiều sản phẩm thặng dư dùng để trao đổi, mua bán. Do đó, làm
cho trao đổi, mua bán hàng hóa trên thị trường ngày càng phát triển hơn.
+ Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế: Do tồn tại nhiều hình thức sở hữu ( sở hữu

toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ thể
kinh tế độc lập, lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng
quan hệ hàng hóa -tiền tệ.
+ Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tuy cùng dựa trên chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền
tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng, mặt khác các đơn vị kinh tế cịn có
sự khác nhau về trình độ kỹ thuật – cơng nghệ, về trình độ quản lý, nên chi phí sản
xuất và hiệu quả cũng khác nhau nên quan hệ kinh tế giữa họ phải thực hiện bằng
quan hệ hàng hóa tiền tệ.
+ Trong quan hệ kinh tế đối ngoại trong điều kiện phân công lao động quốc tế mỗi
quốc gia riêng biệt là chủ sở hữu đối với mỗi hàng hóa đưa ra trao đổi trên thị trường,
sự trao đổi này phải trên nguyên tắc ngang giá.
Với bốn lý do trên, kinh tế thị trường ở nước ta là một tồn tại tất yếu.
Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định mơ hình nền kinh tế ở nước ta trong thời kỳ
quá độ là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự lựa chọn đó là xuất
phát từ những lợi ích của việc phát triển kinh tế – xã hội đem lại cho nước ta.
2. Vận dụng chỉ ra cái chung, cái riêng của nền KTTT ở nước ta hiện nay 
Chính vì việc q tập trung vào cái bên ngồi cái riêng đó là những mục tiêu phát
triển, xây dựng mà quên đi cái riêng là những sở hữu tư nhân và cá nhân. Điều đó
trái với quy luật phát triển và quan hệ giữa cái chung và cái riêng dẫn đến những
hậu quả nghiêm trọng làm kìm hãm sự phát triển kinh tế. Đồng thời trước những
đổi thay của tình hình kinh tế thế giới là các nước tư bản chủ nghĩa đã sớm chuyển
sang kinh tế thị trường và đạt được những bước tăng trưởng mạnh trong nền kinh


tế.Đó là những u cầu cấp bách địi hỏi phải thay đổi phương hướng, con đường
nhằm cải thiện nền kinh tế trong nước. Nói cách khác đó là những điều kiện tiên
quyết yêu cầu cái chung phải trở thành cái đơn nhất và cái đơn nhất phải trở thành
cái chung. Cơ chế quản lí kinh tế từ kế hoạch tập trung phải trở thành nền kinh tế

thị trường hội nhập cùng thế giới.
Nếu chúng ta không thực hiện những bước chuyền đổi trên, chúng ta sẽ phải đối
mặt với rất nhiều vấn đề kinh tế như:
- Nếu không thay đổi cơ chế kinh tế, vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì khơng thểnào
có đủ sản phẩm để tiêu dùng muốn nói đến tích luỹ vốn để mở rộng, sản xuất.
Thực tế những năm cuối của thập kỷ tám mơi đã chỉ rõ thực hiện cơ chế kinh tế
cũ cho dù chúng ta đã liên tục chúng ta đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế
quản lý kinh tế, nhng hiệu quả của nền sản xuất xã hội đạt mức rất thấp. Sản
xuất không đáp ứng nổi nhu cầu tiêu dùng của xã hội, tích luỹ hầu nh khơng
có, đơi khi cịn ăn lạm cả vào vốn vay của nóc ngồi.
- Do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc nên nó chỉ có tác dụng
thúc đẩy tăng trởng kinh tế trong giai đoạn ngắn và chỉ có tác dụng phát triển
kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại q dài nên nó
khơng những khơng cịn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản xuất phát
triển mà nó cịn sinh ra nhiều hiện tợng tiêu cực làm giảm năngsuất, chất lợng
và hiệu quả sản xuất.
- Xét vẻ sự tồn tại thực tế ở nóc ta những nhân tố của kinh tế thị trịng. Về vấn
để này có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều ý kiến cho rằng thị trường
nước ta là thị trường sơ khai Nhng thực tế kinh tế thị trường đã hình thành và
phát triển đạt đọc những mức phát triển khác nhau ở hầu hếtcác đô thị và các
vùng đồng bằng ven biển. Thị trường trong nước đã được thông suốt và vươn
tới cả những vùng hẻo lánh và đang đợc mở rộng với thị trường quốc tế. Nhưng
thi trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ còn thiếu hẳn thị tròng đất đai và
về cơ bản vẫn là thị tròng tự do, mức độ can thiệp của nhà nước còn rất thấp.
Chính vì vậy mà từ đại hội Đảng VI, chúng ta đã có quyết định về việc chuyển
sang kinh tế thị trường,đánh đầu một bước ngoặt lớn trong lịch sử Việt Nam. Tuy
nhiên việc chuyển đổi tiếp thu cần phải là bản chất chứ không chỉ dừng lại ở hình
thức, phải giữ được cái đơn nhất cần thiết của nền kinh tế đất nước, từ đó cịn phải
xây dựng một nền kinh tế mới về chất, thẻ hiện sự phát triển, phủ định biện chứng
đối với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Trước những yêu cầu trên Đảng và

Nhà nước đã quyết định xây dựng nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Việc chuyển đổi này mặc dù đã gây ra rất nhiều khó khăn cho nền kinh tế trong
nước nhưng đó là một bước phát triển tất yếu cần thiết đúng theo quy luật biện chứng
giữa cái chung và cái riêng.
Đảng và nhà nước đã vận dụng chủ động, sáng tạo mối quan hệ biện chứng giữa
cái chung và cái riêng vào việc quản lí nền kinh tế nước ta đẻ đạt được nhiều thành
tựu. Điều đó được thể hiện ở việc quan tâm đến phát triển từng cá thể - cái riêng
đồng thời hướng những cái riêng này theo một cái chung nhất định là định hướng


xã hội chủ nghĩa. Học tập, tiếp thu nền kinh tế thị trường của các nước tư bản nhưng
không làm mắt cái đơn nhất là bản chất xã hội chủ nghĩa. Điều này đã giúp cho chúng
ta xây dựng được nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
3. Một số giải pháp tiếp tục phát triển KTTT Việt Nam những năm tới từ góc độ
những đặc điểm riêng của Việt Nam.
Nghị quyết Đại hội X, khí xác định những nguyên nhân dẫn đến một sổ khuyết
điểm, yếu kém trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội TX, đã nêu nguyên nhân
chủ quan đầu tiên là: "Tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới. Một số
vấn đề ở tằm quan điểm, chủ trương lớn chưa được làm rõ cho nên chưa đạt được
sự thông nhất cao về nhận thức và thiêu đứt khốt trong hoạch định chính sách, chỉ
đạo điều hành"
Những vấn đề chưa đủ rõ, chưa đạt được sự thống nhất cao và thiếu dứt khốt đó
thường thuộc về lĩnh vực kinh tế (như sở hữu, thành phần kinh tế, cổ phần hóa, mơ
hình doanh nghiệp, độc lập tự chủ và mức độ mở cửa, hội nhập...)
Văn kiện Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ ba lĩnh vực được coi là ba khâu đột phá để
đổi mới, phát triển nhanh và bền vững hơn, trong đó khâu đầu tiên là "xây dựng
đồng bộ thể chế KTTT định hướng XHCN mà trọng tâm là đổi mới cơ chế, chính
sách". Vậy mà đã qua hai năm thực hiện nghị quyết, bên cạnh những thành tựu cơ
bản nêu trên, vấn còn nhiều mặt yếu kém và chậm chuyể biến: quá trình xây dựng
thể chế chưa theo kịp yêu cầu khách quan của công cuộc đổi mới và hội nhập kinh

tế quốc tế, các yếu tổ của thị trường và các loại thị trường hình thành chậm, thiếu
đơng bộ, vận hành chưa thơng suốt, độ an tồn và vững chắc chưa cao, phân bổ
nguôn lực quốc gia chưa hợp lý, việc xây dựng mơ hình mới về doanh nghiệp và
đơn vị sự nghiệp cơng lập cịn lúng túng, chính sách tiền lương cịn mang tính bình
qn, chưa bảo đảm đời sống của người hưởng lương, chưa khuyến khích, thu hút
và sử dụng được người tài.
Thực tiễn phát triển nhanh về kinh tế, ỏn định về chính trị, xã hội và vị thể ngày
càng cao của đất nước trên trường quốc tế và cả những mặt hạn chế, yếu kém nêu
trên, khi được chỉ rõ nguyên nhân, đã tác động rât mạnh đên đổi mới tư duy, nhận
thức trong Đảng, dẫn đến sự thơng nhất ở cấp độ cao hơn và bình điện rộng hơn tạo
điều kiện chín muổi cho sự ra đời Nghị quyết T.Ư 6 "hoàn thiện thẻ chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, với nội dung và ý nghĩa chủ yếu là "tiếp tục" ở
tốc độ nhanh hơn, mức độ cao và toàn điện hơn. Nghị quyết đã nêu rõ năm chủ trương
và giải pháp cụ thể như sau:
- Thống nhất nhận thức về nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta
- Hoàn thiện thể chế về sở hữu, páht triển các thành phần kinh tế, các loại hình
doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất kinh doanh
- Hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố của thị trường và phát triển
đồng bộ các loại thị trường
- Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội
trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường


- Hồn thiện thể chế, nâng cao vai trị lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhà nước về kinh tế, tăng cường sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã
hội, các tổ chưc xã hội, nghề nghiệp và của nhân dân vào quá trình phát triển
kinh tế - xã hội
Chúng ta tin chắc rằng, với sự phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, sự đồng
thuận cao và sức sáng tạo của các tầng lớp nhân dân. Nghị quyết đại hội lần thứ sáu
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X “Về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tes thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa” sớm được quán triệt và thực hiện tốt trong cả
nước
C. KẾT LUẬN
Tiểu luận với đề tài “Mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng và sự vận dụng
trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta” của tôi đã nêu ra những
kiến thức cơ bản về cái chung, cái riêng, mối quan hệ giữa chúng. Cái chung và cái
riêng gắn bó chặt chẽ với nhau. Cái chung tồn tại bên trong cái riêng, thông qua cái
riêng để thể hiện sự tồn tại của mình, cịn cái riêng tồn tại trong mối liên hệ dẫn đến
cái chung. Vận dụng vào nền kinh tế ở Việt Nam, đất nước ta đã tiến hành phát triển
nền kkinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tiếp thu cái chung của nền kinh
tế thế giới nhưng không làm mất cái đơn nhất, bản sắc của nền kinh tế Việt Nam.
Thực hiện đúng quy luật phát triển chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng,
đặt mức tăng trưởng kinh tế cao. Chúng ta cần phải tiếp tục cải thiện những điểm
thiếu xót nhằm hoàn thiện nền kinh tế, tiểu biểu là cải thiện nhận thức, thống nhất
quan điểm để mỗi cá nhân đều tin tưởng vào nền kinh tế thị trường bản chất xã hội
chủ nghĩa ở nước ta thông qua việc giáo dục tuyên truyền. Đồng thời là tăng cường
công tác quản lí của Nhà nước, kích thích các doanh nghiệp, cá nhân cạnh tranh phát
triển cơng bằng lành mạnh. Tích cực hội nhập, học hỏi nền kinh tế quốc tế, khuyến
khích các doanh nghiệp đầu tư vào thị trường Việt Nam. Qua đó làm cho nền kinh tế
của nước ta năng động, phát triển, hội nhập với thế giới.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

GS.TS Phạm Văn Đức
Mai Ngọc Công
Đặng Kim Nhung.
Đỗ Đức Thịnh

Giáo trình triết học Mác – Lênin

Lý luận hiện đại về kinh tế thị trường
Chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế
thị trường và vận dụng vào Việt Nam
Nhà nước trong kinh tế thị trường các nước
đang phát triển ở Châu Á

NXBCTQG
NXBTK
NXBTK






×