Website: Email : Tel : 0918.775.368
lời Mở đầu
Mâu thuẫn luôn tồn tại trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và t duy
của con ngời. Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc.
Trong mỗi một sự vật có thể có nhiều mâu thuẫn và sự vật trong cùng một lúc có
rất nhiều mặt đối lập, mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình thành ...
Trong sự nghiệp đổi mới của nớc ta do Đảng khởi xớng và lãnh đạo đã đạt
đợc những thành tựu bớc đầu mang tính quyết định, quan trọng trong việc chuyển
nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trờng có
sự quản lý của nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa, đó là nền kinh tế thị tr-
ờng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, nền kinh tế đã bộc lộ nhiều mâu
thuẫn, bởi bên cạnh những u điểm, kinh tế thị trờng luôn chứa đựng những mặt
tiêu cực mang tính nội tại kìm hãm sự phát triển của công cuộc đổi mới. Giải
quyết đợc những mâu thuẫn ấy chính là tạo động lực cho sự phát triển kinh tế một
cách vững chắc và ổn định theo đúng những định hớng đã đặt ra. Vì vậy, trong
phạm vi của một bài tiểu luận, tôi chọn đề tài: Phép biện chứng về mâu thuẫn
và vận dụng nó trong phân tích mâu thuẫn biện chứng trong quá trình chuyến
sang kinh tế thị trờng ở Việt Nam, với mong muốn có thể có đợc một cái nhìn
đúng đắn hơn về nền kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Phạm vi của đề tài là rất rộng, do thời gian có hạn nên trong tiểu luận này
chỉ xem xét đánh giá một vài mâu thuẫn tiêu biểu .
- Mâu thuẫn giữa đổi mới về kinh tế và ổn định chính trị.
- Mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất.
- Mâu thuẫn giữa các hình thức sở hữu trong thời kỳ quá độ sang kinh tế
thị trờng ở Việt Nam.
- Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trờng với xây dựng con ngời mới xã hội chủ
nghĩa.
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nội dung
I . Lý luận chung về mâu thuẫn
Ngay từ thời cổ đại đã có những phỏng đoán thiên tài về sự tác động qua
lại của các mặt đối lập và xem xét sự tác động qua lại đó là cơ sở vận động của
thế giới. Nhiều đại biểu triết học cổ đại Phơng Đông đã xem vận động do sự hình
thành những đối lập và các đối lập ấy cũng luôn vận động. Nhà triết học Hy Lạp
cổ đại Hêracơlit- ngời đợc Lênin coi là ông tổ của phép biện chứng cho rằng
trong sự vận động biện chứng vĩnh viễn của mình, các sự vật đều có khuynh hớng
chuyển sang các mặt đối lập... T tởng biện chứng về những đối lập đạt đợc đỉnh
cao nhất trong sự phát triển của phép biện chứng trớc Mácxít là trong học thuyết
biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức, tiêu biểu là I.Cantơ và
G.V.Hêghen.
Các antinômi của Cantơ xuất hiện trên cơ sở vợt quá trình độ nhận thức có
tính chất kinh nghiệm khi Cantơ xem các mặt đối lập là những đối lập về chất.
Song do không giải quyết đợc vấn đề các antinômi, Cantơ đã đi tới từ bỏ việc thừa
nhận các mâu thuẫn khách quan. Ông xem sự tồn tại của mâu thuẫn là bằng
chứng nói lên tính bất lực của con ngời trong việc nhận thức thế giới.
Khi nghiên cứu phép biện chứng trong sự vận động và phát triển của ý
niệm tuyệt đối, Hêghen đã kịch liệt phê phán quan điểm siêu hình về sự đồng
nhất (quan điểm này cho rằng đã đồng nhất thì loại trừ mọi sự khác biệt về mâu
thuẫn). Theo ông, đó là sự đồng nhất trừu tợng, trống rỗng, không bao hàm một
nhân tố chân lý nào. Ông quan niệm bất kỳ sự đồng nhất nào cũng bao hàm sự
khác biệt và mâu thuẫn. Ông là ngời sớm nhận ra vai trò của mâu thuẫn trong quá
trình vận động và phát triển: Mâu thuẫn là nguồn gốc của tất cả mọi sự vận động
và của tất cả mọi sự sống, chỉ trong chừng mực một vật chứa đựng trong bản thân
nó một mâu thuẫn thì nó mới vận động, mới có xung lực và hoạt động. Tất cả mọi
vật đều có tính chất mâu thuẫn trong bản thân nó. Song do bị chi phối bởi quan
niệm duy tâm và lợi ích giai cấp Hêghen đã đẩy việc giải quyết mâu thuẫn không
thể điều hoà đợc trong xã hội công dân vào lĩnh vực t tởng thuần tuý.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Kế thừa một cách có phê phán tất cả những thành tựu t tởng về mâu thuẫn,
bằng việc tổng kết từ thực tế lịch sử loài ngời, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác đã cho rằng chúng ta phải tìm xung lực vận động và sự phát triển của sự vật
trong chính sự vật đó, trong những mâu thuẫn của bản thân sự vật. Quan điểm lý
luận đó đợc thể hiện trong quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
-Quy luật mâu thuẫn - đây là hạt nhân của phép biện chứng.
1- Mâu thuẫn là hiện tợng khách quan và phổ biến:
Mỗi một sự vật, hiện tợng đang tồn tại đều là một thể thống nhất đợc cấu
thành bởi các mặt, các khuynh hớng, các thuộc tính phát triển ngợc chiều nhau,
đối lập nhau ...
Trong phép biện chứng duy vật, khái niệm mặt đối lập là phạm trù dùng
để chỉ những mặt có những đặc điểm, những khuynh hớng phát triển ngợc chiều
nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội, t duyMâu thuẫn là một
hiện tợng khách quan và phổ biến. Mâu thuẫn mang tính khách quan vì là cái vốn
có trong các sự vật, hiện tợng và tồn tại trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội
và t duy nên có tính phổ biến. Chính vì vậy mâu thuẫn rất đa dạng và phức tạp.
Mâu thuẫn trong mỗi sự vật hiện tợng và trong các lĩnh vực khác nhau cũng khác
nhau và trong bản thân mỗi sự vật hiện tợng cũng lại bao hàm nhiều mâu thuẫn.
Mỗi mâu thuẫn và mỗi mặt của mâu thuẫn lại có đặc điểm, vai trò tác động lẫn
nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật. Vì vậy cần phải có phơng pháp
phân tích và giải quyết mâu thuẫn một cách cụ thể.
2- Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó, hai mặt đối lập vừa thống
nhất, vừa đấu tranh với nhau:
Sự thống nhất của các mặt đối lập
Hai mặt đối lập trong sự vật tồn tại trong sự thống nhất của chúng. Sự
thống nhất của các mặt đối lập đợc hiểu với ý nghĩa không phải chúng đứng bên
cạnh nhau mà là nơng tựa vào nhau, tạo ra sự phù hợp, cân bằng nh liên hệ phụ
thuộc, qui định và ràng buộc lẫn nhau. * Ví dụ: Quan hệ lực lợng sản xuất -
quan hệ sản xuất trong phơng thức sản xuất: khi lực lợng sản xuất phát triển thì
cùng với nó quan hệ sản xuất cũng phát triển, hai hình thức này chính là điều kiện
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tiền đề cho sự phát triển của phơng thức sản xuất. Nhng quan hệ của lực lợng sản
xuất và quan hệ sản xuất phải thoả mãn một số yêu cầu sau:
- Thứ nhất: Đó phải là một khái niệm chung nhất đợc khái quát từ các mặt
phù hợp khác nhau phản ánh đợc bản chất của sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với lực lợng sản xuất.
- Thứ hai: Đó phải là một khái niệm động phản ánh đợc trạng thái biến đổi
thờng xuyên của sự vận động, phát triển trong quan hệ của quan hệ sản xuất với
lực lợng sản xuất.
- Thứ ba: Đó phải là một khái niệm có ý nghĩa thực tiễn. Ngoài ý nghĩa nhận
thức, khái niệm về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lợng sản xuất đợc coi
là thoả đáng phải có tác dụng định hớng, chỉ dẫn cho việc xây dựng quan hệ sản
xuất, sao cho những quan hệ sản xuất có khả năng phù hợp cao nhất với lực lợng
sản xuất.
Ví dụ: Sự phát triển kinh tế trong chủ nghĩa t bản phục vụ lợi ích giai cấp t
sản nhng lại tạo tiền đề cho sự thay thế chủ nghĩa t bản bằng chủ nghĩa xã hội.
Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau
của chúng. Song đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn
phát triển, khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập
Tồn tại trong một thể thống nhất, hai mặt đối lập luôn luôn tác động qua lại
với nhau, đấu tranh với nhau.
Ví dụ: Lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội có giai cấp đối
kháng, mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu,
kìm hãm nó diễn ra gay gắt và quyết liệt. Chỉ có thông qua các cuộc cách mạng
xã hội bằng nhiều hình thức kể cả bạo lực mới có thể giải quyết đợc mâu thuẫn
một cách căn bản.
Không thể hiểu đấu tranh của các mặt đối lập chỉ là sự thủ tiêu lẫn nhau giữa
các mặt đó. Sự thủ tiêu chỉ là một trong những hình thức đấu tranh của các mặt
đối lập. Tính đa dạng của hình thức đấu tranh giữa các mặt đối lập tuỳ thuộc vào
tính chất của các mặt đối lập cũng nh mối quan quan hệ qua lại giữa chúng, phụ
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thuộc vào lĩnh vực tồn tại của các mặt đối lập, phụ thuộc vào điều kiện trong đó
diễn ra cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Mâu thuẫn biện chứng có quan hệ nh thế nào với nguồn gốc của sự vận động
và sự phát triển?
Sự đấu tranh của các mặt đối lập đợc chia ra làm nhiều giai đoạn. Thông th-
ờng, khi mới xuất hiện, hai mặt đối lập cha thể hiện rõ sự xung khắc gay gắt. Tất
nhiên không phải bất kỳ sự khác nhau nào cũng đợc gọi là mâu thuẫn. Chỉ có
những mặt khác nhau tồn tại trong một sự vật nhng liên hệ hữu cơ với nhau, phát
triển ngợc chiều nhau, tạo thành động lực bên trong của sự phát triển, thì hai mặt
đối lập ấy mới hình thành bớc đầu của mâu thuẫn. Khi hai mặt đối lập của mâu
thuẫn phát triển đến giai đoạn xung đột gay gắt, nó biến thành đối lập. Nếu hội
đủ các mặt cần thiết hai mặt đối lập sẽ chuyễn hoá lẫn nhau. Mâu thuẫn đợc giải
quyết, sự thống nhất của hai mặt đối lập cũ đợc thay thế bằng sự thống nhất của
hai mặt đối lập mới, hai mặt đối lập mới lại đấu tranh chuyển hoá tạo thành mâu
thuẫn. Mâu thuẫn đợc giải quyết, sự vật mới hơn xuất hiện với trình độ cao hơn...
Cứ nh thế, đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi không ngừng từ
thấp lên caoSự chuyển hoá của các mặt đối lập :
Do đó , không nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là
sự hoán vị đổi chỗ một cách đơn giản máy móc. Thông thờng thì mâu thuẫn
chuyển hoá theo hai phơng thức:
+ Phơng thức thứ 1: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhng
ở trình độ cao hơn xét về phơng diện chất của sự vật.
+ Phơng thức thứ 2: Cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để hình thành
hai mặt đối lập mới hoàn toàn.
Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ kế hoạch tập trung, quan liêu bao
cấp sang cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng xã hội chủ
nghĩa .
thuẫn là hiện tợng khách quan phổ biến của thế giới. Mâu thuẫn đợc giải
quyết, sự vật cũng mất đi, sự vật mới hình thành, sự vật mới lại nảy sinh các mặt
đối lập và mâu thuẫn mới. Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hoá và phủ
định lẫn nhau để tạo thành sự vật mới hơn. Cứ nh vậy mà các sự vật, hiện tợng
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trong thế giới khách quan thờng xuyên phát triển và biến đổi không ngừng. Vì
vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của mọi sự phát triển.
II- Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình chuyển sang kinh tế thị
trờng ở việt nam
1. Thực trạng nền kinh tế thị trờng ở Việt Nam
Nền kinh tế nớc ta hiện nay, có thể nói, đang ở trong giai đoạn quá độ từ nền
kinh tế tập trung, hành chính, bao cấp sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của
Nhà nớc, theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, những đặc điểm của giai đoạn
quá độ trong nền kinh tế nớc ta, đơng nhiên là một vấn đề có ý nghĩa, rất cần đợc
nghiên cứu, xem xét. Nhận thức đợc những đặc điểm phức tạp của giai đoạn quá
độ đó chúng ta sẽ tránh đợc những sai lầm chủ quan, nóng vội hoặc những
khuynh hớng cực đoan, máy móc sao chép nguyên bản kinh tế thị trờng từ bên
ngoài vào.
1.1 Một số đặc điểm chung của nền kinh tế thị trờng ở Việt Nam
Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam theo định hớng xã hội chủ nghĩa là một tất
yếu lịch sử, nó nhằm tới mục tiêu cụ thể và mang tính cách mạng. Nó thay cũ đổi
mới hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn cả về kinh tế và chính trị xã hội, bảo
vệ và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin và t tỏng Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh và
điều kiện mới.
Nh chúng ta đã biết, từ khi chủ nghĩa xã hội đợc xây dựng, tất cả các nớc xã
hội chủ nghĩa đều thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, cơ chế vận hành
và quản lý kinh tế này đợc duy trì trong một thời gian khá dài và xem nh là đặc
trng riêng biệt của CNXH, là cái đối lập với cơ chế thị trờng của CNTB.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì sự tồn tại của nền sản xuất
hàng hoá, nền kinh tế thị trờng bớc phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá là
tất yếu. Bởi nền kinh tế thị trờng cũng nh nền kinh tế tập trung không phải là
thuộc tính cố hữu của một chế độ xã hội nào mà vấn đề là áp dụng vào thời điểm
nào cho phù hợp. Nớc ta đang trong giai đoạn quá độ nên việc phát triển nền kinh
tế thị trờng là tất yếu khách quan. Nớc ta sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
VIII, 10 năm thực hiện Chiến lợc ổn định và phát triển kinh tế xã hội (1991-2000)
và 15 năm (1986-2000) tiến hành sự nghiệp đổi mới đã đạt đợc những thành tựu
quan trọng:
- GDP tăng hơn 2 lần so với năm 1990, tích luỹ nội bộ đạt 27%GDP, kết cấu
hạ tầng kinh tế- xã hội và năng lực sản xuất tăng nhiều, cơ cấu kinh tế có bớc
chuyển biến tích cực. Hiện nay sản xuất đã đáp ứng đợc các nhu cầu thiết yếu của
nhân dân và nền kinh tế đã phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế
nhà nớc giữ vai trò chủ đạo, cơ chế quản lý và phân phối có nhiều đổi mới đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội.
- Đất nớc đã ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế- xã hội. Phá đợc thế bị
bao vây cấm vận, mở rộng đợc quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, thu hút đợc khối lợng khá lớn vốn từ bên ngoài cùng nhiều công nghệ và
kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
- Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân đợc cải thiện rõ rệt, văn hoá
không ngừng tiến bộ.
- Quốc phòng và an ninh đợc giữ vững, tình hình chính trị- xã hội cơ bản ổn
định
Nhìn một cách tổng hợp, với những thành tựu đạt đợc trên đây sức mạnh về
mọi mặt của nớc ta đã lớn hơn nhiều so với 15 năm trớc. Khả năng độc lập tự chủ
đợc nâng lên, tạo thêm điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá trong
những năm tới....
Đại hội IX khẳng định: Đảng và Nhà nớc ta chủ trơng thực hiện nhất quán
và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa;
đó là nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa.
Khác với nền kinh tế thị trờng tự do, nền kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa,
nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng có những
đặc trng chủ yếu sau:
- Về mục đích của nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa là:
+ Phát triển lực lợng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Nâng cao đời sống nhân dân.
+ Phát triển lực lợng sản xuất hiện đại gắn với xây dựng quan hệ sản xuất
mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối.
- Về hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế: nền kinh tế thị trờng định h-
ớng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế (kinh tế
nhà nớc, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế t bản t nhân, kinh tế t bản
nhà nớc, kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài). Trong đó kinh tế nhà nớc giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế nhà nớc cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc
của nền kinh tế quốc dân.
Trong quá trình phát triển, chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về t liệu sản
xuất chủ yếu từng bớc đợc xác lập và sẽ chiếm u thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã
hội đợc xây dựng xong về cơ bản. Việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa phải qua nhiều bớc, nhiều hình thức từ thấp đến cao với những bớc đi vững
chắc. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quản xây dựng quan hệ sản xuất theo
định hớng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lợng sản xuất, cải thiện đời
sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.
- Về quản lý: kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý nhà
nớc , nhà nớc quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lợc, quy hoạch, kế hoạch,
chính sách, sử dụng cơ chế thị trờng, áp dụng các hình thức kinh tế và phơng
pháp quản lý thị trờng để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy
mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trờng, bảo vệ lợi ích của nhân
dân lao động và của toàn thể nhân dân.
- Về phân phối:
+ Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế.
+ Theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh.
+ Thông qua phúc lợi xã hội.
- Về mặt xã hội:
+ Tăng trởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bớc phát triển.
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Tăng trởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, giáo dục, xây dựng nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao dân trí, giáo dục
đào tạo con ngời, xây dựng phát triển nhuồn nhân lực của đất nớc, làm cho chủ
nghĩa Mác- Lênin, t tởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh
thần của nhân dân.
Chủ trơng xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ
nghĩa thể hiện t duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất
với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất. Đó là mô hình kinh tế tổng quát
của nớc ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đại hội Đảng IX Đảng ta một lần nữa
khẳng định: Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu đợc qua 15 năm đổi
mới đã chứng minh tính đúng đắn cuả Cơng lĩnh đợc thông qua tại Đại hội VII
của Đảng đồng thời giúp Đảng ta nhận thức ngày càng rõ hơn về con đờng đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nớc ta. Chúng ta một lần nữa khẳng định: cơng lĩnh là ngọn cờ
chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nớc Việt Nam từng bớc quá ddộ
lên chủ nghĩa xã hội, định hớng cho mọi hoạt động của Đảng hiện nay và trong
những thập kỷ tới. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nớc Việt Nam
theo con đờng xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin và t tởng
Hồ Chí Minh.
1.2 Một số đặc điểm của kinh tế thị trờng ở Việt Nam nhìn từ góc độ
triết học:
Nền kinh tế nớc ta hiện nay đang ở trong giai đoạn quá độ chuyển tiếp từ
nền kinh tế tập trung, hành chính bao cấp sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý
của Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Do vậy những đặc trng của nó đã
đợc trình bày ở trên là vấn đề có ý nghĩa, rất cần đợc nghiên cứu, xem xét. Nhận
thức đợc những đặc trng đó chúng ta sẽ tránh đợc những sai lầm chủ quan, nóng
vội, duy ý trí hoặc những khuynh hớng cực đoan, máy móc.
Vậy từ phơng diện triết học thì những đặc điểm của nền kinh tế quá độ của
nớc ta hiện nay là gì ? Nh chúng ta đã biết, trong nền kinh tế tập trung-bao cấp,
mọi chức năng kinh tế - xã hội của nền kinh tế đều đợc triển khai trong quá trình
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
kế hoạch hoá ở cấp độ quốc gia. Tính bao cấp của nhà nớc đối với các hoạt động
của sản xuất, lu thông, phân phối... khá nặng nề. Lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi
ích cá nhân ngời lao động, một động lực trực tiếp của hoạt động xã hội cha đợc
quan tâm đúng mức. Vì thế, nền kinh tế vận động chậm chạp, kém năng động.
Kể từ Đại hội lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đến nay, theo đờng lối
đổi mới, đất nớc ta đã từng bớc chuyển sang nền kinh tế thị trờng với định hớng
xã hội chủ nghĩa và điều đó có nghĩa là, chúng ta đã đạt đợc những thành tựu hết
sức quan trọng, những thành tựu cho phép chúng ta điều chỉnh và bổ xung nhận
thức, làm cho quan niệm về chủ nghĩa xã hội ngày càng cụ thể; đờng lối, chủ tr-
ơng, chính sách ngày càng đồng bộ, có căn cứ khoa học và thực tiễn. Những
thành tựu đó, trong một chừng mực nhất định, đã thể hiện khả năng của kinh tế
thị trờng trong việc năng động hoá nền kinh tế đất nớc.
Thành tựu những năm đổi mới ở nớc ta vừa qua đã có tác dụng làm cho
chúng ta quen dần với các quan hệ hàng hoá. Bớc chuyển sang cơ chế thị trờng
này đơng nhiên không tránh khỏi có những mặt tiêu cực của nó; nhng dẫu sao nó
cũng nói lên sức sống và khả năng tác động của các quan hệ thị trờng. Về thực
chất của bớc chuyển này, một số ngời cho rằng: ở Việt Nam, dù nền kinh tế thị
trờng chỉ mới vừa đợc hình thành, còn đang trong những bớc chập chững ban đầu
và đợc điều tiết một cách có ý thức theo định hớng xã hội chủ nghĩa, song cũng
đã tác động khá rõ đến mọi mặt của đời sống xã hội và để lại ở đó những dấu ấn
của mình về mặt văn hoá ... . Sự đan xen chi phối mãnh liệt của các nhân tố khác
của đời sống xã hội trong bối cảnh của một xã hội vừa ra khỏi cơ chế hành chính
- bao cấp đã làm cho cơ chế thị trờng biến đổi theo nhiều chiều hớng khác nhau.
Nguyên nhân của tình trạng trên trớc hết thuộc về sự đổi mới các quan hệ sở
hữu. Nếu trớc đây nền kinh tế chỉ tồn tại một kiểu sở hữu tơng đối thuần khiết với
hai thành phần sở hữu chủ đạo là sở hữu nhà nớc và sở hữu tập thể thì hiện nay
cùng với sở hữu chủ đạo là sở hữu nhà nớc còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu
khác nhằm đáp ứng đòi hỏi đa dạng và năng động của nền kinh tế.
Vai trò của Nhà nớc và của kinh tế Nhà nớc trong một nền kinh tế hớng tới
thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa là rất quan trọng. Nhà nớc, ngoài việc
trực tiếp phải quyết định những vấn đề của bản thân nền kinh tế còn phải đóng
10