Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Mâu thuẫn biện chứng và sự vận dụng nó trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.77 KB, 36 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
A. Lời mở đầu
Mâu thuẫn là hiện tợng có trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và t duy
con ngời. Trong hoạt động kinh tế, mặt trận cũng mang tỉnh phổ biến, chẳng hạn
nh cung - cầu, tích luỹ và tiêu dùng, tỉnh kế hoạch hoá của từng xí nghịêp, từng
Công ty và tính tự phát vô Chỉnh phủ của nền sản xuất hàng hoá ... Mâu thuẫn tồn
tạn khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi một sự vật mâu thuẫn
hình thành không phải chỉ là một mà là nhiều mâu thuẫn, và sự vật trong cùng mọt
lúc có nhiều mặt đối lập thì mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình
thành...
Trong sự nghiệp đổi mới ở nớc ta do Đảng khởi xớng và lãnh đạo đã dành
đợc nhiều thắng lợi bớc đầu mang tính quyết định, quan trọng trong việc chuyển
nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trờng có sự quản lý của
Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Trong những chuyển biến đó đã đạt đợc
nhiều thàh công to lớn nhng trong những thành công đó luôn luôn tồn tại những
mâu thuẫn làm kìm hãm sự phát triển của công cuộc đổi mới. Đòi hỏi phải đợc
giải quyết và nếu đợc giải quyết sẽ thúc đẩy cho sự phát triển của nền kinh tế.
Với mong muốn tìm hiểu thêm những vẫn đề của nền kinh tế quan điểm lý
luận cũng nh những vớng mắc trong giải pháp, qui trình xử lý các vấn đề chính trị
- xã hội có liên quan đến quá trình tiến hành cải cách trong việc chuyển nền kinh
tế tôi chọn "Mâu thuẫn biện chứng và sự vận dụng nó trong quá trình chuyển
sang kinh tế thị trờng ở Việt Nam" làm đề tài cho tiểu luận môn Triết học Mác -
Lê Nin.
Nguyễn Mai Anh
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
B. Nội dung
I. Lý luận chung Qui luật mâu thuẫn
1. Vai trò của qui luật
Mỗi một sự vật, hiện tợng tồn tại đều là một thể thống nhất đợc tạo tnàh với
các mặt các khuynh hớng các thuộc tính phát triển ngợc chiều nhau, đối lập nhau


chúng tạo thành các mâu thuẫn tồn tại trong sự vật hiện tợng.
Mâu thuẫn là một hiện tợng có trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và
t duy con ngời. Trong hoạt động kinh tế hiện tợng đó cũng mang tính phổ biến
chẳng hạn nh mâu thuẫn giữa cung - cầu, tích luỹ và tiêu dùng, tính kế hoạch hoá
cảu từng xí nghiệp, công ty với tính tự phát vô Chính phủ của nền sản xuất hàng
hoá.
Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự xuất hiện cho đến khi sự vật kết thúc tồn tại của
mình. trong mỗi sự vật mâu thuẫn hình thành không chỉ có một mà có nhiều mâu
thuẫn và sự vật trong cùng mọt lúc có nhiều mặt đối lập mâu thuẫn này mất đi thì
mâu thuẫn khác lại hình thành.
Những ngời theo chủ nghĩa duy tâm tìm nguồn gốc của sự vận động và sự
phát triển ở lý trí, ở ý muốn của con ngời của cá nhân kiệt xuất hay ở các lực lợng
siêu nhân.
Do phủ nhận sự tồn tại khách quan của các mâu thuẫn trong sự vật và hiện
tợng, những ngời theo quan điểm siêu hình tìm nguồn gốc của sự vận động và sự
phát triển ở sự tác động từ bên ngoài đối với sự vật. Rốt cuộc họ đã phải nhờ đến
"cái huých đầu tiên nh Niutơn hay cầu viện tới Thợng đế nh Arixtốt. Nh vậy bằng
cách này hay cách khác, quan điểm siêu hình về nguồn gốc vận động và phát triển
sớm hay muộn sẽ dẫn tới chủ nghĩa duy tâm.
Dựa trên những thành tựu khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện
chứng tìm thấy nguồn gốc của vận động và phát triển ở mâu thuẫn, ở sự đấu tranh
giữa các khuynh hớng, các mặt đối lập tồn tại trong các sự vật và hiện tợng.
Dới hình thức chung nhất, t tởng xem mâu thuẫn là nguồn gốc của vận động
và phát triển đó đợc Hêraclít nói tới và đợc Hêghen phát triển lên trong sự vận
Nguyễn Mai Anh
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
dụng vào nhận thức. Hêghen viết " mâu thuẫn thực tế là cái thúc đẩy thế giới".
Hơn nữa ông còn xem " mâu thuẫn là cội nguồn của tất cả vận động và sự sống".
C.Mác - Ph. Ăngghen và V.I Lê Nin đã luận chứng và phát triển hơn nữa

những luận điểm đó trên cơ sở biện chứng duy vật. C.Mác viết " Cái cấu thành bản
chất của sự vận động biện chứng, chính là sự cùng nhau tồn tại của hai mặt mâu
thuẫn. Sự đấu tranh giữa hai mặt ấy và sự dung hợp của hai mặt ấy thành một
phạm trù mới ". Nhấn mạnh hơn nữa t tởng đó V.I Lê Nin viết sự phát triển là một
cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Để hiểu đợc kết luận đó, chúng ta lu ý rằng, theo Ph. Ăngghen nguyên nhân
chính và cuối cùng của mọi sự vật là sự tác động lẫn nhau. Chính sự tác động qua
lại đó tạo thành nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Mâu thuẫn là sự tác
động qua lại, sự đấu tranh của các mặt đối lập qui định một cách tất yếu những
thay đổi của các mặt đang tác động qua lại cũng nh của sự vật nói chung, nó là
nguồn gốc vận động và phát triển, là xung lực của sự sống. Chẳng hạn bất kỳ một
sự vật nào cũng chỉ có thể tồn tại và phát triển đợc khi có sự tác động qua lại giữa
đồng hoá và dị hoá. Sự tiến hoá của các giống loài không thể có đợc, nếu không có
sự tác động qua lại giữa di truyền và biến dị. T tởng và nhận thức của con ngời
không thể phát triển nếu không có sự cọ sát thờng xuyên với thực tiễn, không có
sự tranh luận để làm rõ đúng sai. Đảng ta nói chung, từng Đảng viên nói riêng
không thể ngày càng hoàn thiện bản thân mình, khi không đẩy mạnh phê bình và
tự phê bình với t cách là hình thức đặc biệt của đấu đấu tranh giữa các mặt đối lập
trong Đảng, giữa tích cực và tiêu cực, giữa nhận thức - t tởng đúng và sai. Cho nên
Hội nghị lần thứ VI (lần 2) Ban chấp hành Trung ơng khoá VIII của Đảng đã xem
việc thực hiện nghiêm túc chế độ phê bình và tự phê bình là một trong 10 nhiệm
vụ cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay.
Sự vận động và sự phát triển bao giờ cũng là sự thống nhát giữa tính ổn định
và tính thay đổi. Thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập qui định tính ổn
định và tình thay đổi của sự vật. Do vậy, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận
động và sự phát triển.
Mặt khác, không có thống nhất của các mặt đối lập thì cũng không có đấu
tranh giữa các mặt đó, do vậy cũng không có mâu thuẫn nói chung. Hơn nữa, sự
Nguyễn Mai Anh
16

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vận động và sự phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính
thay đổi. Sự ổn định là điều kiện cho sự phân hoá, cho sự thay đổi và phát triển.
Mâu thuẫn là một hiện tợng khách quan và phổ biến, nó tồn tại ở trong tất
cả các sự vật và hiện tợng, ở mỗi giai đoạn tồn tại và phát triển của sự vật và hiện
tợng. Nhng ở các sự vật hiện tợng khác nhau, ở các giai đoạn phát triển khác nhau
của một sự vật, ở mỗi lĩnh vực, mối yếu tố cấu thành một sự vật sẽ có những mâu
thuẫn khác nhau.
2. Nội dung của qui luật
2.1 Nội dung của qui luật mâu thuẫn phép biện chứng
Qui luật mâu thuẫn là một trong ba qui luật của phép biện chứng duy vật và
là hạt nhân của phép biện chứng. Nội dung của qui luật chỉ ra cho chúng ta thấy
nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
Mâu thuẫn và mặt đối lập thờng đợc dùng nh những khái niệm đồng nghĩa,
Chẳng hạn, ngời ta có thể nói rằng các sự vật có mâu thuẫn hay các sự vật là sự
thống nhất của các mặt đối lập về thực chất là một. Nhng hiểu cho đúng hơn thì
mâu thuẫn là mối quan hệ giữa các mặt đối lập, còn mặt đối lập là mỗi mặt hợp
thành của mâu thuẫn. Mỗi mặt đó hợp thành từ nhiều thuộc tính, nhiều khuynh h-
ớng khác nhau. Ví dụ: Hai mặt đối lập trong chu kỳ tuần hoàn máu, trong sự trao
đổi chất của thực, động vật với môi trờng ... Tuy nhiên không nên nhầm lẫn mặt
đối lập nói chung với mâu thuẫn. Trong thực tế không phải mặt đối lập nào cũng
tạo thành mâu thuẫn, chỉ những mặt đối lập nào liên hệ với nhau thành một chỉnh
thể, tác động qua lại với nhau mới thành mâu thuẫn.
Khái niện khác nhau chỉ một trong những hình thức biểu hiện, một giai
đoạn phát triển của mâu thuẫn. Ví dụ: Giá trị sử dụng và giá trị trao đổi trong hàng
hoá, chỉ về sau trong điều kiện khác của nền sản xuất hàng hoá, nh trong chủ
nghĩa T bản chẳng hạn, sự khác nhau đó đã biến thành mặt đối lập, thành mâu
thuẫn. Tuy nhiên, không chỉ có sự khác nhau biến thành mặt đối lập, thành mâu
thuẫn mà còn có cả quá trình những mặt đối lập, mâu thuẫn biến thành sự khác
nhau. Ví dụ, sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao

Nguyễn Mai Anh
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
động chân tay trong điều kiện các xã hội phân chia thành giai cấp đã chuyển thành
sự khác biệt ( khác nhau ) trong chủ nghĩa xã hội.
Quan điểm siêu hình cho rằng sự vật là một thể thống nhất tuyệt đối, chúng
không có mâu thuẫn ben trong. Thực chất của quan điểm này là phủ nhận mâu
thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển. Còn quan điểm của chủ nghĩa duy
vật cho rằng vật hiện tợng luôn luôn có mâu thuẫn mâu thuẫn bên trong và mâu
thuẫn là hiện tợng khách quan chủ yếu bởi vì vật hiện tợng của thế giới khách
quan đều đợc tạo thành từ nhiều nhân tố, nhiều bộ phận, nhiều quá trình khác
nhau. Giữa chúng có mối liên hệ, tác động lẫn nhau trong đó sẽ có những liên hệ
trái ngợc nhau, gọi là các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn của sự vật. Các mặt đối
lập thờng xuyên tác động qua lại lẫn nhau gây nên một biến đổi nhất định, làm
cho sự vật vận động phát triển.
Các mặt đối lập và những mặt có xu hớng phát triển trái ngợc nhau nhng
chúng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau trong một chủ thể duy nhất là sự vật. Quan
hệ đó thể hiện cac mặt vừa thống nhất vừa tiêu diệt nhau. Sự thống nhất giữa các
mặt đối lập là sự nơng tựa, ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau làm tiền đề tồn tại và
phát triển cho nhau, có mặt này mới có mặt kia. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là
sự bài trừ gạt bỏ, phủ định lẫn nhau giữa chúng. Hai mặt đối lập cùng tồn tại trong
một thể thống nhất, chúng thờng xuyên muốn tiêu diệt lẫn nhau. Đó là một tất yếu
khách quan không tác rời sự thống nhất giữa chúng.
Quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh là hai mặt đối lập tồn tại không tách
rời nhau. Sự thống nhất giữa các mặt chỉ diễn ra trong những điều kiện nhất định
với một thời gian xác định. Bất cứ sự thống nhất nào cũng diễn ra sự đấu tranh
giữa các mặt đối lập làm cho nó luôn luôn có xu hớng chuyển thành cái khác. Còn
đấu tranh diễn ra từ khi thể thống nhất xác lập cho đến khi nó bị phá vỡ để chuyển
thành mới. Đấu tranh giữa các mặt đối lập diễn ra trải qua nhiều giai đoạn với
nhiều hình thức khác, từ khác biệt đến đối lập, từ đối lập đến xung đột, từ xung đột

đến mâu thuẫn.
Đến đây nếu có đủ điều kiện thích hợp thì nó diễn ra sự chuyển hoá cuối
cùng giữa các mặt đối lập. Cả hai đều có sự thay đổi về chất, cùng phát triển đến
Nguyễn Mai Anh
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
một trình độ cao hơn. Từ đó mâu thuẫn đợc giải quyết sự vật mới ra đời thay thế sự
vật cũ và quá trình lại tiếp tục.
Vì thế đấu tranh giữa các mặt đối lập, là nguồn gốc, động lực bên trong của
sự phát triển.
2.2 Mâu thuẫn là hiện tợng khách quan và phổ biến
Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong các sự vật hiện tợng, nó không những
tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý thức, ý chí con ngời mà còn qui định có ý
thức, ý chí con ngời.
Mâu thuẫn mang tính chất phổ biến, mâu thuẫn có trong mọi sự vật, hiện t-
ợng của thế giới bao gồm cả tự nhiên, xã hội lẫn t duy con ngời. Mâu thuẫn có
trong mọi giai đoạn phát triển khác nhau của sự vật và tồn tại giữa các sự vật, hiện
tợng với nhau.
Mâu thuẫn mang tính đa dạng. Mỗi sự vật, mỗi quá trình của thế giới khách
quan tồn tại những mâu thuẫn khác nhau. Mâu thuẫn trong tự nhiên khác mâu
thuẫn trong xã hội, khác mâu thuẫn trong t duy. Bản thân mỗi quá trình khác nhau
trong tự nhiên, xã hội, t duy lại có những mâu thuẫn khác nhau.
Nh vậy sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập cho thấy mối liên hệ
khách quan cơ bản, tất yếu và phổ biến của các sự vật hiện tợng, nó qui định
nguồn gốc, động lực phát triển tất yếu của thế giới vật chất. Đó chính là qui luật
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, một trong những qui luật cơ bản của
phép biện chứng duy vật.
2.3 Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Trong phép biện chứng duy vật khái niệm mặt đối lập là sự khái quát các
thuộc tính, khuynh hớng phát triển ngợc chiều nhau, tồn tại trong cùng một sự vật,

hiện tợng và tạo nên sự vật, hiện tợng đó. Do đó cần phải phân biệt rằng bất kỳ hai
mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Bởi vì trong các sự vật, hiện tợng của
thế giới khách quan, không phải chỉ tồn tại trong đó hai mặt đối lập. Trong cùng
một thời điểm ở mỗi sự vật có thể tồn tại nhiều mặt đối lập. chỉ có những mặt đối
lập là tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật nh một chỉnh thể nhng có khuynh
hớng phát triển ngợc chiều nhau, loại trừ, phủ định và chuyển hoá lẫn nhau. Sự
chuyển hoá này tạo thành nguồn gốc, động lực đồng thời qui định cái bản chất,
Nguyễn Mai Anh
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
khuynh hớng phát triển của sự vật thì hai mặt đối lập nh vậy mới gọi là hai mặt đối
lập tạo thành mâu thuẫn. Sự thống nhất của các mặt đối lập là " nơng tựa" vào
nhau, là điều kiện tồn tại của nhau. Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính tạo
thành sự vật thì nhất định không có sự tồn tại của sự vật. Bởi vậy, sự thống nhất
của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiếu đợc cho sự tồn tại của bất kỳ sự
vật, hiện tợng nào.
Sự thống nhất này do những đặc điểm của bản thanh sự vật tạo nên.
Ví dụ: Nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp và nền kinh tế thị trờng
(KTTT) là điều kiện chọ sự tồn tại và phát triển của công cuộc đổi mới nền kinh tế
ở Việt Nam, hai nền kinh tế hoàn toàn khác nhau vì bản chất và những biểu hiện
của có nhng nó lại hết sức quan trọng. Vì có là sự thống nhất tạo nên quá trình đổi
mới kinh tế ở Việt Nam. Thiếu sự thống nhất này nền KTTT ở Việt Nam không
thể tồn tại với ý nghĩa là chính nó.
Ví dụ: Lực lợng sản xuất - quan hệ sản xuất trong phơng thức sản xuất: Khi
lực lợng sản xuất phát triển thì cùng với nó quan hệ sản xuất cũng phát triển, hai
mặt này chính là điều kiện tiền đề để cho sự phát triển của phơng thức sản xuất.
Lực lợng sản xuất là yếu tố động luôn luôn vận động theo hớng hoàn thiện, quan
hệ sản xuất phải vận động theo để cho kịp với trình độ của lực lợng sản xuất, tạo
động lực phát triển lực lợng sản xuất và có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế.
Tuy nhiên khái niệm thống nhất này cũng chỉ tơng đối. Bản thân khái niệm

đã nói lên tính chất tơng đối của nó. Thống nhất của các đối lập trong thống nhất
đã bao hàm trong nó sự đối lập.
Tồn tại trong một thể thống nhất, hai mặt đối lập luôn luôn tác động qua lại
với nhau, " đấu tranh" với nhau. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua
lại theo xu hớng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa cá mặt đó.
Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tác rời sự
đấu tranh chuyển hoá giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự
vật hống nhất nh một chỉnh thể trọn vẹn nhng không nằm yêu bên nhau mà điểu
chỉnh chuyển hoá lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật. Sự
đấu tranh chuyển hoá bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt trong thế giới
khách quan thể hiện dới nhiều dạng khác nhau.
Nguyễn Mai Anh
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ví dụ: Lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội có giai cấp đối
kháng, mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm
hãm nó diễn ra gay gắt quyết liệt. Chỉ có thông qua các cuộc cách mạng xã hội
bằng nhiều hình thức kể cả bạo lực mới có thể giải quyết đợc mâu thuẫn một cách
căn bản.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập đợc chia làm nhiều giai đoạn. Thông th-
ờng, khi mới xuất hiện mặt đối lập cha thể hiện rõ sự xung khắc gay gắt ngời ta
gọi đó là giai đoạn khác nhau. Tất nhiên không phải bất kỳ sự khác nhau nào cũng
đợc gọi là mâu thuẫn. Chỉ có những mặt khác nhau, tồn tại trong một sự vật hiện t-
ợng liên kết hữu cơ với nhau, phát triển ngợc chiều nhau, tạo thành động lực bên
trong của sự phát triển, khi hai mặt ấy mới hình thành bắt đầu của mâu thuẫn. Khi
hai mặt đối lập của mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn xung đột găy gắt, nó biến
thành độc lập. Nếu hội đủ các mặt cần thiết hai mặt đối lập sẽ chuyển hoá lẫn
nhau. Sự vật cứ mất đi, sự vật mới xuất hiện. Sau khi mâu thuẫn đợc giải quyết sự
thống nhất của hai mặt đối lập cũ đợc thay thế bằng sự thống nhất của hai mặt đối
lập mới, hai mặt đối lập mới lại đấu tranh chuyển hoá tạo thành mâu thuẫn. Mâu

thuẫn đợc giải quyết, sự vật mới hơn xuất hiện với trình độ cao hơn. Cứ nh thế,
đấu tranh giữa các mặt đối lập cho sự vật bién đổi không ngừng từ thấp lên cao.
Chính vì vậy Lê Nin khẳng định: " sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các
mặt đối lập".
Khi bàn về mối quan hệ thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập Lê Nin
khẳng định rằng: "Mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn tại với ý nghĩa
nó chính là nhờ có sự thống nhất giữa các mặt đối lập mà chúng ta nhận biết đợc
sự vật, hiện tợng tồn tại trong thế giới khách quan. Song bản thân của sự thống
nhất chỉ tơng đối tạm thời. Đấu tranh giữa các mặt đối lập mới là tuyệt đối. Nó
diễn ra thờng xuyên và liên tục trong suốt quá trình tồn tại cảu sự vật. Kể cả trong
trạng thái sự vật ổn định, cũng nh khi chuyển hoá nhảy vọt về chất của các mặt đối
lập là có điều kiện thoáng qua, tạm thời tơng đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập
bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối cũng nh sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối.
2.4 Sự chuyển hoá của các mặt đối lập.
Nguyễn Mai Anh
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đều dẫn đến sự chuyển hoá
giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình độ
nhất định hội đủ các điều kiện cần thiết mới chuyến hoá, bài trừ và phủ định lẫn
nhau. Trong giới tự nhiên chuyển hoá của các mặt đối lập thờng xuyên diễn ra một
cách tự phát, còn trong xã hội sự chuyển hoá của các mặt đối lập nhất thiết phải
diễn ra thông qua hoạt động có ý thức của con ngời. Chuyển hoá của các mặt đối
lập chính là lúc mâu thuẫn đợc giải quyết, sự vật cứ mất đi, sự vật mới ra đời, đó
chính là quá trình diễn biến rất phức tạp với nhiều hình thức phong phú.
Do đó không nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là sự
hoán vị đổi vị trí một cách đơn giản, máy móc. Thông thờng thì mâu thuẫn chuyển
hoá theo hai phơng thức:
Phơng thức thứ nhất: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nh-
ng ở trình độ cao hơn, xét về mặt phơng diện chất của sự vật.

Ví dụ: Lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến đấu
tranh chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới là quan hệ sản xuất
t bản chủ nghĩa và lực lợng sản xuất mới cao hơn về trình độ.
Phơng thức thứ hai: Có hai mặt chuyển hoá lẫn nhau để hình thành hai mặt
đối lập hoàn toàn.
Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao
cấp sang cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
Từ những mâu thuẫn trên cho thấy trong thế giới hiện thực, bất kỳ sự vật
hiện tợng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt những thuộc tính có
khuynh hớng phát triển ngợc chiều nhau. Sự đấu tranh chuyển hoá của các mặt đối
lập trong những điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là hiện tợng
khách quan phổ biến của thế giới. Mâu thuẫn đợc giải quyết sự vật cũ mất đi, sự
vật mới hình thành sự vật mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới. Các
mặt đối lập này đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau để tạo thành sự vật
mới hơn. Cứ nh vậy mà các sự vật hiện tợng trong thế giới khách quan thờng
xuyên biến đổi và phát triển không ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn và nguồn gốc, là
động lực của mọi quá trình phát triển.
Nguyễn Mai Anh
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
II. Sự cần thiết khách quan phải phát triển nền kinh tế thị trờng
theo định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, sự tồn tại của sản
xuất hàng hoá là một tất yếu khách quan. Bởi vì, trong nền kinh tế nớc ta lực lợng
sản xuất xã hội còn rất thấp, đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau, sự
phân công lao động xã hội yếu và sự tồn tại nhiều chủ thể sở hữu khác nhau nh các
thực thể kinh tế độc lập. Trong những điều kiện đó, viẹc trao đổi sản phẩm giữa
các chủ thể sản xuất với nhau không thể thực hiện theo nguyên tắc nào khác là
nguyên tắc trao đổi ngang giá, tức là thực hiện sự trao đổi hàng hoá thông qua thị
trờng, sản phẩm phải trở thành hàng hoá.

Về phơng diện kinh tế, có thẻ khái quát rằng, lịch sử phát triển của sản xuất
và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích
ứng với trình độ phát triển cảu lực lợng sản xuất và phân công lao động xã hội, hai
thời kỳ kinh tế khác hẳn nhau về chất. Đó là thời đại kinh tế tự nhiên, tự cung tự
cấp, và thời đại kinh tế hàng hoá, mà giai đoạn cao của nó đợc gọi là kinh tế thị tr-
ờng.
Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế xã hội đầu tiên của nhân loại. Đó là
phơng thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ thấp ban đầu là sự dụng những tặng vật của
tự nhiên và sau đó là đợc thực hiện thông qua những tác động trực tiếp vào tự
nhiên để tạo ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì sự sinh tồn của con ngời.
Nó đợc bó hẹp trong mối quan hệ tuần hoàn kép kín giữa con ngời và tự nhiên.
Kinh tế tự nhiên lấy quan hệ trực tiếp giữa con ngời và tự nhiên mà tiêu biểu là
giữa lao động và đất đai làm nền tảng. Hoạt động kinh tế đó gằn liền với xã hội
sinh tồn, với kinh tế nông nghiệp, tự cung tự cấp. Nó đã tồn tại và thống trị trong
các xã hội cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tuy không còn
giữ địa vị thống trị nhng vẫn còn tồn tại trong xã hội t bản cho đến ngày nay. Kinh
tế tự nhiên, hiện vật, sinh tồn, tự cung, tự cấp gắn liền với kém phát triển và lạc
hậu.
Kinh tế khó khăn bắt đầu bằng kinh tế hàng hoá đơn giản, ra đời từ khi chế
độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã, dựa trên hai tiền đề cơ bản là có sự phân công lao
động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ chiếm hữu lẫn nhau về t liệu
Nguyễn Mai Anh
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
sản xuất. Chuyển từ kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp sang kinh tế hàng hoá là đánh
dấu bớc chuyển sang thời đại kinh tế của sự phát triển thời đại văn minh cảu nhân
loại. Trong lịch sử phát triển của mình vị thế của kinh tế hàng hoá cũng đang đợc
đổi thay từ chỗ nh là kiểu tổ chức kinh tế xã hội không phổ biến không hợp thời
trong xã hội chiếm hữu nô lệ củ những ngời thợ thủ công và nông dân đã đi đến
chỗ đợc thừa nhận trong xã hội phong kiến và đến chủ nghĩa t bản thì kinh tế hàng

hoá giản đơn không những đợc thừa nhận mà còn phát triển lên giai đoạn cao hơn
đó là kinh tế thị trờng.
Chỉ đến cuối những năm 80 về cơ bản, trong nền kinh tế nớc ta, sản xuất
nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên hiện vật, tự cung, tự cấp còn
chiếm u thế. Xã hội Việt Nam về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng của văn minh nông
nghiệp lúa nớc, nông dân chiếm đại đa số. Việt Nam vẫn là một nớc nghèo nàn lạc
hậu và kém phát triển. Phát triển trở thành nhiệm vụ , mục tiêu đối với toàn Đảng
toàn dân ta trong bớc đờng đi tới. Muốn vậy, phải chuyển toàn bộ nền kinh tế quốc
dân sang trạng thái của sự phát triển, là phát triển nền kinh tế thị trờng cùng với nó
là thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
ở nớc ta, trong thời kỳ quá độ muốn phát triển mạnh mẽ lực lợng sản xuất
thì phải xã hội hoá và chuyên môn hoá lao động. Quá trình ấy chỉ có thể diễn ra
một cách thuận lợi trong một nền kinh tế hàng hoá sản xuất càng xã hội hoá,
chuyên môn hoá thì càng đòi hỏi phát triển sự hợp lại và trao đổi hoạt động trong
xã hội càng phải thông qua sự trao đổi hàng hoá giữa các đơn vị sản xuất để đảm
bảo những nhu cầu cần thiết của các loại hoạt động sản xuất khác nhau.
Chỉ có đẩy mạnh sản xuất hàng hoá mới làm cho nền kinh tế nớc ta phát
triển năng động. Kinh tế tự nhiên, do bản thân của nó, chỉ duy trì tái sản xuất giản
đơn. Trong cơ chế kinh tế cũ, vì coi thờng qui luật giá trị nên các cơ sở kinh tế
cũng thiếu sức sống và động lực để phát triển sản xuất. Sử dụng sản xuất hàng hoá
là sản xuất qui luật giá trị, qui luật này buộc mỗi ngời sản xuất tự chịu trách nhiệm
về hàng hoá do mình làm ra. Chính vì thế mà nền kinh tế trở nên sống động, Mỗi
ngời sản xuất đâều chịu sức ép buộc phải quan tâm tới sự tiêu thụ trên thị trờng,
Nguyễn Mai Anh
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
sao cho sản phẩm của mình đợc xã hội thừa nhận và cũng từ đó họ mới có đợc thu
nhập.
Phát triển sản xuất hàng hoá là sự phát triển của lực lợng sản xuất xã hội,
xũng có nghĩa là sản phẩm xã hội ngày càng phong phú, đáp ứng nhu cầu đa dạng

của mọi ngời. ở nông thôn nớc ta, sự phát triển kinh tế hàng hoá và việc tăng tỷ lệ
hàng hoá nông sản đã làm cho hàng hoá bán ra của nông dân nhiều lên, thu nhập tăng
lên, đồng thời các ngành nghề ở nông thôn cũng ngày một phát triển, tạo ra cho nông
dân nhiều việc làm. Đó cũng là điều đã diễn ra ở thành phố đối với những ngời lao
động thành thị.
Phát triển sản xuất hàng hoá có thể đào tạo ngày càng nhiều các bộ quản lý
và lao động. Muốn thu đợc lợi nhuận, họ cần phải vận dụng nhiều biện pháp để
quản lý kinh tế, thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, hạ giá thành sản phẩm, làm cho sản
xuất phù hợp với nhu cầu của thị trờng, nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh tế. Qua
cuộc cạnh tranh trên thị trờng, những nhân tố quản lý kinh tế và lao động thành
thạo xuất hiện ngày càng nhiều và đó là một dấu hiệu quan trọng của tiến bộ kinh
tế.
Cái đợc lớn nhất từ khi đất nớc chuyển sang nền kinh tế thị trờng là con ng-
ời trở lên năng động hơn, thái độ dựa dẫm, ngồi chờ, ỷ lại vào cấp trên và vào Nhà
nớc đã mất đi đáng kể. Các chính sách kinh tế mới và cơ chế thị trờng thực sự đã
khơi dậy và nâng cao vai trò chủ động kích thích sự sáng tạo của con ngời quản lý
điều hành làm ngời trực tiếp sản xuất tính hiệu quả của sản xuất và kinh doanh đợc
quan tâm đặc biệt đợc coi là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá một ngành
sản xuất hoặc kinh doanh nào đó. Nền kinh tế đợc cởi trói đã làm sáng lại biết bao
nhiêu tiềm năng vật chất và trí tuệ, giải phóng đợc lực lợng sản xuất, đã khơi dậy
đợc các động lực cho chính nó. Nh vậy mà đời sống của nhân dân ở nhiều vùng đ-
ợc cải thiện rõ nét và điều quan trọng nhất là đất nớc đã ra khỏi khủng hoảng đã có
tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Cái thời mà nhiệm vụ thờng trực số 1 của Chính
phủ là lo điều hoà lơng thực giữa các vùng các miền để cho dân có gạo ăn ở mức
quy định còn ngời dân muốn mua từ cái kim sợi chỉ, lạng đờng mớ rau cũng đều
phải chen chúc xếp hàng và theo tem phiếu và xem các mặt hàng làm sao đủ sức
Nguyễn Mai Anh
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
cạnh tranh với hàng ngoại, chen chân vào đợc và hơn nữa trụ lại đợc ở thị trờng

của các nớc khác.
Nh vậy phát triển sản xuất hàng hoá đối với nớc ta là một tất yếu kinh tế,
một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu thành nền kinh tế
hiện đại hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đờng đúng đắn để
phát triển lực lợng sản xuất khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nớc để
thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá. Kinh tế hàng hoá không đối lập
với các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà trái
lại thúc đẩy các nhiệm vụ đó phát triển mạnh mẽ hơn.
Thực tiễn những năm đổi mới chỉ ra rằng, việc chuyển sang mô hình kinh tế
hàng hoá là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ mô hình kinh tế đó chúng ta đã bớc đầu khai
thác đợc tiềm năng trong nớc đi đôi với thu hút vốn và kỹ thuật nớc ngoài, giải
phóng đợc năng lực sản xuất trong xã hội, phát triển lực lợng sản xuất, góp phần
quyết định bảo đảm nhịp độ tăng trởgn GDP bình quân hàng năm trong những
năm 1991 - 1995 là 8,3% vợt mức đề ra ( 5,5% - 6%)
1. Bản chất, đặc điểm của nền kinh tế thị trờng (KTTT) định hớng xã hội chủ
nghĩa ở nớc ta.
Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung - hành
chính - quan liêu - bao cấp sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa
là nội dung, bản chất và đặc điểm khái quát nhất đối với nền kinh tế nớc ta trong
hiẹn tại và tơng lai. Đặc biệt, cơng lĩnh xây dựng đất nớc, trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội đợc Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng cộng sản Việt Nam lần
thứ VII thông qua vào năm 1991 cũng đã nêu lên 6 đặc trng bản chất của xã hội xã
hội chủ nghĩa và những quan điẻm phơng hớng tổng quát và phát triển kinh tế - xã
hội theo định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta. Tuy nhiên cũng cần phải phân tích
sâu thêm bản chất, đặc điểm đã đợc khái quát nói trên, đã có thể hiểu rõ và thống
nhất hơn trong nhận thức và hành động.
2. Nền KTTT định hớng XHCN mà nớc ta sẽ xây dựng là nền KTTT hiện đại
với tính chất xã hội hiện đại.
Nguyễn Mai Anh

16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Khi nhìn lại những sai lầm trong thời kỳ thực hiẹn "cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp" tại ở Đại hội lần thứ VI (12/1986) Đảng ta thừa nhận: " chúng ta đã
có những thành kiến không đúng, trên thực tế, cha thật sự thừa nhận những qui
luật của sản xuất hàng hoá đang tồn tại khách quan, do đó không vận dụng chúng
vào việc chế định các chủ trơng chính sách kinh tế" Trong nhận thức cũng nh
trong hành động chúng ta cha thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở
nớc ta còn tồn tại trong một thời gian tơng đối dài, cha nắm vững và vận dụng
đúng qui luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ cảu lực
lợng sản xuất.
Mặc dù nền kinh tế nớc ta đang nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát
triển nhng khi nớc ta chuyển sang phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trờng, thì
thế giới đã chuyển sang giai đoạn kinh tế thị trờng hiện đại ( do những khiếm
khuyết của kinh tế thị trờng tự do ). Bởi vậy chúng ta không thể và không nhất
thiết phải trải qua giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn và giai đoạn kinh tế thị tr-
ờng tự do, mà đi thẳng vào phát triển kinh tế thị trờng hiện đại. Đây là nội dung và
yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Mặt khác, thế giới vẫn đang nằm trong thời đại
quá độ từ chủ nghĩa t bản lên chủ nghĩa xã hội, cho nên, sự phát triển kinh tế xã
hội nớc ta phải theo định hớng xã hội chủ nghĩa là cần thiết, khách quan và cũng
là nội dung, yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Sự nghiệp dân giàu, nớc mạnh, xã
hội công bằng và văn minh vừa là mục tiêu, vừa là nội dung, nhiệm vụ của việc
phát triển kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta. Đảng và Nhà nớc
khuyến khích mọi ngời dân trong xã hội làm giàu một cách hợp pháp. Dân có giàu
thì nớc mới mạnh, nhng dân giàu phải làm cho nớc mạnh, bảo đảm độc lập tự chủ
và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia.
3 Nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai
trò chỉ đạo của kinh tế Nhà nớc.
Trong thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế do lịch sử để lại
và còn có lợi ích cho sự phát triển kinh tế chủ nghĩa xã hội. Kinh tế t bản t nhân,

kinh tế cá thể.
Nguyễn Mai Anh
16

×