Luận văn
Đề Tài:
Quan hệ Thương mai
giữa Việt Nam và Nhật Bản
thực trạng và giải pháp
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp
Ph¹m Quang Ninh - K45 - KT§N
-
1
-
LỜI NÓI ĐẦU
ào những năm đầu những năm của thập kỷ 90 trở lại đây, việc mở
rộng hội nhập và hợp tác kinh tế đã và đang trở thành một xu thế tất yếu của
quá trình phát triển nền kinh tế. Những lợi ích kinh tế của việc hội nhập
kinh tế quốc tế đã mang lại cho mỗi thành viên tham gia, những lợi ích kinh
tế mà không một quốc gia nào có thể phủ nhận. Việt Nam cũng vậy, để đẩy
mạnh quá trình Công nghiệp hoá Hiện đại hoá, Đảng và nhà nước ta đã và
đang thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá và đa phương
hóa quan hệ kinh tế quốc tế, lấy mục tiêu vì hoà bình và phát triển làm tiêu
chuẩn cho mọi hoạt động đối ngoại. Đồng thời, trong bối cảnh phân công
lao động quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, việc hợp tác kinh tế quốc tế… đã và
đang trở thành cách tốt nhất để các quốc gia phát huy được tối đa lợi thế của
mình, cũng như khai thác triệt để những lợi ích của các quốc gia khác để
phục vụ cho nước mình.
Không nằm ngoài xu thế trên, cả Việt Nam và Nhật Bản đều đã tìm
thấy ở nhau những điều kiện thuận lợi, cũng như lợi ích kinh tế của bản thân
mỗi nước khi xây dựng, phát triển và củng cố mối quan hệ hợp tác song
phương giữa hai nước. Bên cạnh những kết quả khả quan đã đạt được, trong
quan hệ buôn bán giữa Việt Nam - Nhật Bản còn có một số hạn chế cần
được khắc phục, loại bỏ nhằm phát triển hơn nữa cho xứng với tiềm năng
của hai nước, đưa mối quan hệ này lên tầm cao mới. Việc nghiên cứu
những thành tựu và những mặt tồn tại đó là rất cần thiết. Vì vậy em đã chọn
đề tài: “Quan hệ Thương mai giữa Việt Nam và Nhật Bản thực trạng và
giải pháp”.
Với yêu cầu của khoá luận về mặt kiến thức tổng hợp, kiến thức am
hiểu sâu rộng về thực tế chính sách là rất cao. Nhưng do sự hạn chế về mặt
v
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp
Ph¹m Quang Ninh - K45 - KT§N
-
2
-
thời gian, tài liệu cũng như năng lực nghiên cứu của mình nên trong đề tài
em chỉ tập trung vào lĩnh vực (quan hệ Thương mại giữa Việt Nam – Nhật
Bản giai đoạn từ năm 1992 trở lại đây). Và em rất mong được sự đóng góp
ý kiến của các thầy cô cũng như bạn đọc để cho đề tài được hoàn thiện hơn
nữa.
Qua đây, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các thầy
các cô và đặc biệt là thầy giáo TS Nguyễn Xuân Thiên đã trực tiếp hướng
dẫn em hoàn thành tốt khoá luận tốt nghiệp này.
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp
Ph¹m Quang Ninh - K45 - KT§N
-
3
-
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA QUAN HỆ
THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ NHẬT BẢN
1.1 Cơ sở lý luận.
Có thể nói, chiến tranh lạnh kết thúc vào đầu thập niên 90 của thế kỷ
thứ 20, tạo ra một diện mạo mới cho các quan hệ kinh tế quốc tế. Nó tác
động lớn tới nhiều quốc gia, làm thay đổi hẳn cục diện thế giới. Mở đầu,
được đánh dấu bằng sự tan rã của của chế độ chính trị ở đất nước Liên Xô
và một loạt các nước Xã hội Chủ nghĩa ở Đông Âu. Tình hình an ninh chính
trị trên thế giới, về cơ bản đã ở trong trạng thái ổn định. Nguy cơ của bùng
nổ chiến tranh hạt nhân (thế chiến thứ 3) đã bị đẩy lùi. Người ta đã cảm thấy
yên tâm hơn, để tập trung vào đầu tư phát triển kinh tế và củng cố đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập, gây ảnh hưởng
trực tiếp tới quan hệ ngoại giao giữa các nước như: hệ thống tôn giáo của
các nước rất phức tạp, quyền lợi các bên hay bị xung đột, gây ra chiến tranh
liên miên, làm cho nhiều khu vực trên thế giới không ổn định như: khu vực
Châu Phi, vùng Trung Cận Đông… mà điển hình là các lò lửa chiến tranh
Ấn Độ – Pakistan; Ixaren – Plestin, mà gần đây nhất là sự kiện ngày
11/09/2001 làm chấn động nước Mỹ. Làm dấy lên làn sóng khủng bố khắp
nơi trên thế giới; rồi sự kiện chiến tranh Irắc; vấn đề hạt nhân ở Bắc Triều
Tiên…đã trở thành vấn đề mà các quốc gia luôn phải cân nhắc. Các xu thế
cạnh tranh đối địch giữa các quốc gia, mâu thuẫn luôn luôn cùng tồn tại và
phát triển. Nhưng nó không thể nào, ngăn cản được xu thế toàn cầu hoá và
khu vực hoá.
Ngày nay, xu thế này đã trở thành một yêu cầu khách quan của nền
kinh tế thế giới. Thêm vào đó là, sự bùng nổ của cách mạng khoa học kỹ
thuật – công nghệ, đã mở ra một kỷ nguyên mới cho sự phát triển, cạnh
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp
Ph¹m Quang Ninh - K45 - KT§N
-
4
-
tranh và hợp tác giữa các nước trên thế giới mà nổi bật là vấn đề toàn cầu
hoá. Vậy toàn cầu hoá là gì?
Toàn cầu hoá là xu thế tất yếu đã được dự đoán từ lâu. Về logic, xu
hướng này bắt nguồn từ bản chất của hệ thống kinh tế thị trường là hệ thống
“mở” không bị giới hạn bởi các đường biên giới quốc gia. Đây là kết quả
của quá trình phân công lao động quốc tế, được đẩy nhanh trong mấy thập
niên thập niên gần đây. Phân công lao động quốc tế đã đạt đến trình độ,
không chỉ chuyên môn hoá chi tiết sản phẩm cho nhà máy, từng vùng mà
còn đến từng quốc gia, khu vực. Trên cơ sở đó, xuất hiện hình thái quan hệ
hợp tác, ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau trong phân công lao động giữa các
nước trong khu vực và trên thế giới.
Hiện nay, sản xuất của một nước phụ thuộc rất nhiều vào lao động
của một nước khác, bất kể nước đó phát triển hay kém phát triển. Không
còn tình trạng, chỉ có nước nhỏ, nước kém phát triển phụ thuộc một chiều,
phụ thuộc tuyệt đối vào các nước lớn, nước phát triển mà đã xuất hiện và
gia tăng xu hướng ngược lại: các nước lớn, nước phát triển cũng phụ thuộc
vào nước nhỏ, nước lạc hậu.
Quá trình toàn cầu hoá, đã thúc đẩy nền kinh tế thế giới phát triển
theo một chiều hướng mới. Với lực lượng sản xuất phát triển như vũ bão
chưa từng có, trên cơ sở của nền công nghệ mới hiện đại được thể hiện ở
một số mặt sau:
Thứ nhất, có thể nói, xu hướng toàn cầu hoá các hoạt động kinh tế là
nhân tố đầu tiên tác động đến việc thiết lập các chiến lược kinh tế đối ngoại
của các nước. Nhằm thích ứng với một môi trường kinh tế quốc tế mới, đã
và đang thay đổi. Mục tiêu cuối cùng của các nhà kinh doanh là lợi nhuận,
thị phần và những ảnh hưởng quốc tế ngày càng sâu rộng của mình tới thị
trường các nước. Để đạt được mục đích này, các quốc gia phải bắt kịp, thích
ứng và thậm chí phải đón đầu, đi trước thời đại với những công nghệ mới
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp
Ph¹m Quang Ninh - K45 - KT§N
-
5
-
hiện đại và cả những triển vọng phát triển mới của nền kinh tế thế giới trong
tương lai.
Thứ hai, trong quá trình toàn cầu hoá, tiến bộ công nghệ nói chung,
đặc biệt là sự bùng nổ của cách mạng tin học trong những năm gần đây, đã
đẩy mạnh, đẩy nhanh quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế công nghiệp sang
nền kinh tế tin học trong nhiều quốc gia trên thế giới. Đây là nhân tố nổi bật,
giúp cho việc điều hành dễ dàng, các hoạt động kinh tế quốc tế phân tán ở
nhiều nước khác nhau trên thế giới. Bằng cách sử dụng rộng rãi các thiết bị
tin học, viễn thông ở nhiều quốc gia. Nhờ đó mà, các quốc gia phát triển và
các nhà kinh doanh, doanh nghiệp… không những có thể mở rộng các hoạt
động kinh tế về quy mô ra nước ngoài, mà còn có thể tăng cường các hoạt
động kinh tế về chiều sâu, đổi mới về phương thức tổ chức và quản lý.
Thứ ba, dưới tác động của toàn cầu hoá và cách mạng tin học, quá
trình liên kết khu vực cũng đang diễn ra mạnh mẽ giữa các nước, đòi hỏi các
quốc gia phải sử dụng tối ưu các nguồn lực để hội nhập có hiệu quả vào quá
trình hợp tác và phân công lao động quốc tế. Các tiến trình này sẽ làm nảy
sinh nhu cầu kết hợp chặt chẽ giữa các chính sách thương mại với đầu tư và
viện trợ…, đẩy mạnh tự do hoá thị trường, bằng cách dỡ bỏ các hàng rào
thuế quan và phi thuế quan giữa các nước.
Tuy nhiên, toàn cầu hoá kinh tế như con dao hai lưỡi. Một mặt nó là
cỗ xe có động cơ mạnh làm tăng tốc độ phát triển kinh tế, tạo cơ hội to lớn
để cải thiện điều kiện sống của người dân ở các nước giầu lẫn nước nghèo.
Nhưng mặt khác, nó cũng là cả một tiến trình đầy gian nan và thách thức.
Nó sẽ tiến công vào chủ quyền của mỗi quốc gia, có thể làm xói mòn nền
văn hoá và truyền thống của dân tộc, dẫn tới nguy cơ phân hoá xã hội, tạo ra
hố ngăn cách giữa các quốc gia cũng như các tầng lớp trong xã hội và nó
ngày càng trở nên mạnh mẽ và sâu sắc hơn.
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp
Ph¹m Quang Ninh - K45 - KT§N
-
6
-
Như vậy toàn cầu hoá là một xu hướng khách quan và xu hướng này
đang trong quá trình vận động không ngừng, tạo những cơ hội và cả những
thách thức cho tất cả các quốc gia. Vì vậy, các quốc gia cần phải biết khai
thác những ưu thế và hạn chế những thách thức của toàn cầu hoá kinh tế
quốc tế, từ đó tạo ra cơ hội để tham gia ngày càng có hiệu quả hơn vào quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Cùng với quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá cũng đang diễn ra đặc
biệt mạnh mẽ. Xu hướng tự do hoá thương mại và đầu tư được thúc đẩy bởi
sự gia tăng mạnh mẽ các hoạt động của các tổ chức kinh tế quốc tế và khu
vực hiện có cũng như đang hình thành. Các khối, tổ chức kinh tế ngày càng
đóng vai trò quan trọng trong những cuộc thương lượng, sắp xếp và giải
quyết các vấn đề khu vực và quốc tế, đặc biệt là trong việc thúc đẩy tự do
hoá thương mại và giao lưu kinh tế quốc tế. Bất kỳ một nước nào muốn phát
triển được trong tương lai thì đều phải tìm cách trở thành thành viên của ít
nhất một trong những tổ chức kiểu như vậy. Quá trình toàn cầu hoá đã dẫn
đến việc hình thành các khối kinh tế – mậu dịch tự do trong khu vực. Hiện
nay, nền kinh tế thế giới có rất nhiều khối liên minh, liên kết kinh tế hoặc
mậu dịch tự do. Ví dụ như, liên minh Châu Âu (EU): được coi là một tổ
chức liên kết khu vực rất điển hình, đường biên giới giữa các quốc gia đã bị
xóa bỏ không còn hàng rào thuế quan. Mặc dù tiến trình này, diễn ra không
hoàn toàn suôn sẻ như mong muốn, song việc hình thành một thị trường
thống nhất đang ngày được hoàn thiện hơn. Mục tiêu của toàn cầu hoá kinh
tế đó là, lưu thông tự do hàng hoá; các yếu tố - công nghệ sản xuất cả những
kinh nghiệm, kỹ năng quản lý… trên phạm vi toàn cầu. Nhưng trong tương
lai gần, mục tiêu này chưa thể thực hiện được. Chính vì vậy, việc từng
nhóm nước liên kết lại với nhau, cùng đưa ra những ưu đãi cho nhau cao
hơn những ưu huệ quốc tế hiện hành như: loại bỏ những hàng rào ngăn
cách, lưu thông hàng hoá và các yếu tố sản xuất… giữa các nước. Đây là
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp
Ph¹m Quang Ninh - K45 - KT§N
-
7
-
một khâu quan trọng, đặt nền móng cho quá trình toàn cầu hoá về kinh tế
được xúc tiến nhanh hơn. Từ đó có thể khẳng định rằng, khu vực hoá và hợp
tác kinh tế toàn cầu hoàn toàn không mâu thuẫn với nhau mà hỗ trợ cho
nhau, thúc đẩy lẫn nhau và bổ trợ cho nhau. Khu vực hoá chỉ nảy sinh trong
bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế đã phát triển đến một mức độ nhất định nào
đấy. Nhưng, trong trình độ hợp tác của khu vực hoá lại cao hơn so với toàn
cầu hoá kinh tế và khu vực hoá phát triển rộng rãi trên thế giới sẽ lại giúp
cho hợp tác kinh tế toàn cầu phát triển ngày càng sâu sắc hơn.
Hai tổ chức khu vực có tác động và ảnh hưởng trực tiếp nhất, liên
quan mật thiết đến quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta, đặc biệt là quan hệ
kinh tế Việt Nam – Nhật Bản. Đó là, Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái
Bình Dương (APEC) và Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN).
APEC được thành lập vào tháng 11 năm1989. Lúc đầu, chỉ có 18
nước thành viên. Hiện nay, có 21 nước trong đó có Nhật Bản và Việt Nam.
Đây là tổ chức hợp tác kinh tế khu vực có quy mô lớn nhất thế giới. Dân số
xấp xỉ 2165,5 triệu người (bằng 45,6 % dân số thế giới); diện tích lãnh thổ
43.631,8 triệu km
2
(chiếm khoảng 46,7 % diện tích lãnh thổ của toàn thế
giới); GDP 15.526,23 tỷ USD (chiếm khoảng 55,8 % GDP của toàn thế
giới); và kim ngạch xuất khẩu 2.255,6 tỷ USD (chiếm khoảng 43,8 % tổng
kim ngạch xuất khẩu của toàn thế giới). Chính vì vậy, mô hình hợp tác kinh
tế Châu Á Thái Bình Dương và tiềm năng to lớn của sự hợp tác kinh tế - kỹ
thuật của APEC, đã và đang cuốn hút sự chú ý của toàn thế giới. Thế kỷ 21
này, chắc chắn sẽ là thế kỷ phát triển đầy năng động của khu vực Châu Á
Thái Bình Dương mà APEC là tổ chức hạt nhân. Việt Nam và Nhật bản đều
là thành viên chính thức của APEC. Do đó, các quan hệ kinh tế song
phương giữa hai nước cũng chịu sự ràng buộc, chi phối của những nguyên
tắc mà tổ chức này đã đề ra.
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp
Ph¹m Quang Ninh - K45 - KT§N
-
8
-
Cùng với APEC, tổ chức kinh tế khu vực thứ hai có vai trò quan
trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến các quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam
và Nhật Bản là hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN).
ASEAN được thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1967, lúc đầu thành lập
mới có 5 nước thành viên. Hiện nay, đã phát triển và mở rộng ra toàn bộ các
nước Đông Nam Á. Bao gồm 11 nước, trong đó có Việt Nam. Ngay trong
ngày đầu thành lập, ASEAN đã long trọng tuyên bố mục tiêu hàng đầu của
Hiệp hội là: “Thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển
văn hoá trong khu vực thông qua các nỗ lực chung trên tinh thần bình đẳng,
hợp tác nhằm tăng cường cơ sở vật chất cho một cộng đồng các nước Đông
Nam Á hoà bình, hợp tác và thịnh vượng”. Kể từ đó cho đến nay, các nước
này luôn coi hợp tác kinh tế là một trong những nội dung chủ yếu trong các
hoạt động của mình. Là một nước thành viên của ASEAN, các quan hệ kinh
tế của Việt Nam với Nhật Bản, nhất là trong quan hệ của ASEAN cộng 3
gồm (Trung Quốc; Nhật Bản; Hàn Quốc) vừa chịu sự chi phối của những
nguyên tắc chung trong hợp tác kinh tế của Hiệp hội với các nước trong khu
vực và các khu vực khác, vừa nằm trong bối cảnh chung quốc tế, chịu sự chi
phối của các chính sách kinh tế đối ngoại của Nhật Bản với các nước trong
khu vực này.
Mặc dù có sự thành công không giống nhau, song thực tiễn hoạt động
của các hình thức liên kết khu vực như trên cho thấy, quá trình khu vực hoá
giúp các quốc gia trong khu vực có cùng những điều kiện nhất định hỗ trợ
nhau cùng phát triển, tạo ra lợi thế cạnh tranh chung (lợi thế so sánh khu
vực) trên pham vi toàn cầu. Đồng thời, tạo điều kiện để có được quan hệ
giao lưu kinh tế phát triển rộng rãi, không chỉ giữa các quốc gia trong khu
vực với nhau mà giữa khu vực với khu vực và giữa các quốc gia trong khu
vực với các quốc gia khác trên thế giới.
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp
Ph¹m Quang Ninh - K45 - KT§N
-
9
-
Cùng với sự phát triển không ngừng của xu thế này, sự dựa vào nhau,
hỗ trợ nhau, tác động và ảnh hưởng lẫn nhau của kinh tế các nước ngày
càng sâu sắc. Trách nhiệm của chính phủ các nước, phải dựa trên cơ sở của
tinh thần: cùng nhau gánh chịu trách nhiệm và sự rủi ro (nếu có) để tiến
hành hợp tác, phối hợp quốc tế rộng rãi và có hiệu quả trong việc tham gia
vào quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá.
Tóm lại, toàn cầu hoá và khu vực hóa luôn gắn liền với nhau, tạo
động lực thúc đẩy nhau làm cho hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng phát
triển. Trong xu thế ngày nay, mỗi dân tộc (quốc gia), đều tìm cố gắng tìm
cho mình một chỗ đứng để nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế. Vị
thế chính trị của mỗi nước, phụ thuộc rất nhiều vào sức mạnh kinh tế của
nước đó. Vì vậy, mỗi nước đều phải cố gắng thích nghi với luật chơi chung
của các nước trong khối, thế giới. Đồng thời phải cố gắng bảo vệ lợi ích dân
tộc mình, giữ gìn bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc.
1.2 Cơ sở thực tiễn
Bao gồm các nhân tố cả chủ quan cũng như thực tiễn khách quan của
hai phía Việt nam và Nhật Bản.
1.2.1 Các nhân tố từ phía Nhật Bản.
Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào
đầu những năm 1990, làm cho chiến tranh lạnh kết thúc. Không còn sự chạy
đua vũ trang giữa hai cực nữa. Người ta coi cuộc chiến tranh lạnh mà thực
chất là sự đối đầu về tư tưởng, chính trị quân sự giữa Liên Xô và Hoa Kỳ đã
chấm dứt. Tình hình thế giới đã mở ra một kỷ nguyên mới cho sự phát triển,
ở đó hợp tác và cạnh tranh trở thành hai mối quan tâm lớn của các quốc gia.
Cơ cấu hai cực chấm dứt và phát triển, xu hướng tiến tới đa cực. Trước sự
biến chuyển tình hình kinh tế thế giới, chủ yếu dựa vào sức mạnh kinh tế
của mình, các nhà hoạch định chính sách kinh tế Nhật Bản đã xây dựng
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp
Ph¹m Quang Ninh - K45 - KT§N
-
10
-
chiến lược kinh tế, với mục tiêu vươn lên trở thành một cường quốc cả về
kinh tế lẫn chính trị.
Mục tiêu của Nhật Bản trong những năm tiếp tới đây là, vươn lên vị
trí trở thành một cường quốc chính trị, kinh tế. Mục tiêu này được thể hiện
rất rõ trong chiến lược kinh tế nói chung và trong chiến lược kinh tế đối
ngoại nói riêng của Nhật Bản. Nhật Bản từng bước giảm dần sự phụ thuộc
vào Mỹ, vươn lên vị trí ngang hàng với Mỹ (Nhật Bản có thể trả lời
“không” trong đàm phán với Mỹ). Để thực hiện được chiến lược đó, Nhật
Bản ra sức phát triển quan hệ với các khu vực kinh tế thông qua hoạt động
thương mại, đầu tư trực tiếp và các khoản viện trợ cho các nước. Bên cạnh
đó, trước sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ của các quốc gia khu vực Châu Á
trong vài thập kỷ qua và với những lợi thế gần gũi về mặt địa lý, văn hoá xã
hội, Nhật Bản đã xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp với các nước. Họ đã
có một chiến lược kinh tế đối với các khu vực Châu Á. Đây được coi là
chiến lược trọng tâm để phát triển chiến lược kinh tế đối ngoại của Chính
phủ Nhật Bản trong thời gian tới.
Thay đổi chiến lược của Nhật Bản thời kỳ sau chiến tranh lạnh là, chú
trọng vào khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, phát triển các quan hệ phụ
thuộc lẫn nhau cùng nhau phát triển trong khu vực; phát huy vai trò toàn
diện của các tổ chức hợp tác khu vực. Hợp tác với các tổ chức quốc tế như
Liên Hợp Quốc và tổ chức mậu dịch thế giới Điều này, thể hiện trong
chính sách áp dụng vào Châu Á của Nhật Bản, nhằm phát huy tối đa vai trò
của mình ở Châu Á và sử dụng Châu Á làm căn cứ để Nhật Bản vươn lên
trở thành một cường quốc. Nhật Bản tranh thủ sự phát triển kinh tế của ở
Đông Á để đối phó với những chính sách bảo hộ mậu dịch của Mỹ và bảo
vệ lợi ích của Nhật Bản ở Châu Á - Thái Bình Dương bằng các cơ chế kinh
tế. Đồng thời đóng vai trò chủ đạo trong công cuộc xây dựng trật tự mới ở
Châu Á. Thông qua cuộc họp thượng đỉnh APEC ở Seattle, Nhật Bản cảm
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp
Ph¹m Quang Ninh - K45 - KT§N
-
11
-
thấy Mỹ đang chuyển chính sách hướng về Châu Á. Sợ rằng, vai trò lãnh
đạo Châu Á - Thái Bình Dương sẽ có thể rơi vào tay Mỹ sẽ làm mất đi vai
trò ảnh hưởng của mình. Hơn nữa, trước việc Mỹ, Canada, Mêhicô tăng
cường bảo hộ mậu dịch với việc thành lập khu vực mậu dịch tự do của ba
nước và sự lớn mạnh của cộng đồng kinh tế Châu Á đã buộc Nhật Bản phải
có chính sách phát triển hợp lý trong trong nội bộ nước mình và đối với các
nước Châu Á.
Trong quan hệ kinh tế quốc tế, Nhật Bản luôn giữ vai trò là đại diện ở
khu vực Châu Á. Nhưng quan hệ với các nước khu vực Châu Á thì Nhật
Bản lại đóng vai trò quan trọng dường như là quốc gia ngoài khu vực. Chính
vì lẽ đó, các nước thuộc khu vực Châu Á vừa là lực lượng đối tác “sân sau”
của Nhật Bản trong quan hệ kinh tế với Mỹ và các khu vực kinh tế khác,
đồng thời là một “bãi cỏ” con voi Nhật Bản khai thác.
Nhật Bản đang thực hiện chiến lược kinh tế đối ngoại hướng về Châu
Á, xuất phát từ nhiều lý do khác nhau. Ở phương diện kinh tế, cần nhấn
mạnh tới, đây là khu vực có nhiều lợi thế về Địa lý – Kinh tế, dân số, xã
hội…
* Châu Á là khu vực có số dân chiếm khoảng hơn 1/3 dân số thế giới,
chiếm gần 1/3 diện tích toàn cầu với hệ sinh thái, tài nguyên đa dạng, phong
phú, nguồn nhân lực dồi dào với trình độ khá cao. Do đó, gia tăng quan hệ
kinh tế với các nước ở Châu Á có nền nông nghiệp lạc hậu để tăng cường sự
lệ thuộc về kinh tế, chính trị. Để có vốn và công nghệ hiện đại cho quá trình
công nghiệp hoá, các nước này sẵn sàng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh
tế với các nước khác đặc biệt là Nhật Bản.
* Hơn nữa, nếu chỉ xét riêng về phía Nhật Bản, có thể nói đây là quốc
gia có tiềm lực kinh tế hàng đầu trong khu vực lại luôn dư thừa vốn, công
nghệ hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến Với sự phát triển năng động của
Châu Á, làm cho ý tưởng quay về với Châu Á ngày càng trở nên rõ nét hơn
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp
Ph¹m Quang Ninh - K45 - KT§N
-
12
-
trong chính sách của các nhà lãnh đạo cũng như các nhà kinh doanh Nhật
Bản.
* Ngoài ra, sự tác động xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá được
coi là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự thay đổi trong chính sách đối ngoại, đẩy
mạnh bành chướng kinh tế ra bên ngoài của Nhật trong những năm 1990,
đặc biệt là vào các nước ở khu vựoc Châu Á.
* Sau chiến tranh lạnh, Nhật Bản nhận thức được rằng, tình hình phát
triển ở khu vực Châu Á sẽ tiến triển theo chiều hướng tích cực. Ở đó, người
ta tìm thấy sự hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia, nhằm tận dụng những lợi
thế so sánh để tiếp tục duy trì sự phát triển đó cũng là giải pháp tốt để các
quốc gia trong khu vực này vượt qua, khắc phục được cuộc khủng hoảng
kinh tế trong khu vực. Dường như, các đối tác đều nhận thức được tầm quan
trọng của mối liên kết toàn diện. Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và an
ninh …ngày càng phát triển, bất chấp sự khác biệt về chế độ chính trị. Đây
là nét mới về chất trong quan hệ kinh tế quốc tế và khu vực những năm đầu
thập kỷ 90. Nếu trước đây, sự khác biệt về chế độ chính trị là một trở ngại
trong việc xác lập các quan hệ quốc tế, tin cậy lẫn nhau mà người ta cố gắng
vượt lên, song đã không thành công thì ngày nay tình hình đã đổi khác.
Chính bối cảnh này, tình hình khu vực đã tạo tiền đề cho Nhật Bản
thực thi tốt chính sách mở rộng hợp tác kinh tế, chính trị và văn hoá với các
nước ASEAN, trong đó có Việt Nam.
Trên cơ sở đó có thể thấy rằng, vào đầu thập kỷ 90, quan hệ hai nước
Việt Nam - Nhật Bản đã phát triển nhanh chóng cả về bề rộng lẫn chiều sâu.
Tạo cơ sở vững chắc cho sự phát triển ổn định trong thế kỷ XXI. Trong giai
đoạn quá độ của quá trình toàn cầu hoá, việc cơ cấu lại tương quan lực
lượng trong khu vực và trên thế giới, làm cho quan hệ Việt – Nhật có điều
kiện phát triển thuận lợi hơn so với các nước khác, do hai nước có những lợi
ích tương đồng là cùng ở Châu Á; cùng có nhu cầu hoà bình và ổn định để
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp
Ph¹m Quang Ninh - K45 - KT§N
-
13
-
phát triển; có tiềm năng kinh tế cần bổ sung cho nhau và cần có sự ủng hộ
lẫn nhau trong việc nâng cao vai trò chính trị ở khu vực cũng như trên thế
giới. Hơn nữa, Việt Nam ngày càng có vị trí quan trọng trong chính sách
của Nhật Bản đối với Châu Á - Thái Bình Dương đặc biệt là Đông Nam Á.
Trong sự vận động của quan hệ Nhật – Mỹ, Nhật – Trung, Nhật – ASEAN,
Nhật Bản có lợi ích lớn về kinh tế, chính trị… trong quan hệ với Việt Nam.
1.2.2 Các nhân tố từ phía Việt Nam
Nước ta và một số nước khác, đã có lúc xem xét vấn đề độc lập kinh
tế, xây dựng một nền kinh tế hoàn chỉnh mang tính tự túc (tự cung tự cấp)
để tránh sự lệ thuộc vào bên ngoài. Có thể nói, việc mở rộng thương mại
quốc tế cùng các mối quan hệ kinh tế đối ngoại khác, vận dụng một trong
những bài học kinh nghiệm quý báu, được rút ra từ thực tiễn của nước ta
trong những năm qua. Kế thừa và phát huy có chọn lọc các quan điểm đổi
mới của Đại hội Đảng VI, Đại hội Đảng VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam
đã đề ra như: chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – Xã hội đến năm
2000 tiếp tục khẳng định quyết tâm thực hiện công cuộc đổi mới, phát triển
một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường
có sự định hướng của nhà nước theo định hướng XHCN. Trong lĩnh vực
ngoại thương, để tiến tới “tự do hoá thương mại”, từng bước tham gia, hội
nhập với các tổ chức thương mại khu vực và toàn cầu, nhiều văn bản, chính
sách mới về các hoạt động xuất nhập khẩu, đặc biệt là khuyến khích các
thành phần kinh tế trong và ngoài nước sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu,
kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư liên doanh với Việt Nam
để phát triển sản xuất các mặt hàng xuất khẩu… đã được chính phủ ban
hành.
Với nhiều biện pháp cải cách mạnh mẽ và táo bạo, sau 15 năm kiên
trì thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đã từng bước hình thành nền kinh
tế thị trường với những nét đặc trưng riêng của mình. Không chỉ vượt ra
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp
Ph¹m Quang Ninh - K45 - KT§N
-
14
-
khỏi khủng hoảng về kinh tế mà còn, thu được những thành tựu đáng kể trên
các lĩnh vực cả về kinh tế và xã hội. Thời kỳ từ năm 1991 – 1995, GDP tăng
bình quân hằng năm xấp xỉ 8,2 %; thời kỳ từ năm 1996 – 2000, mặc dù chịu
ảnh hưởng bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực nhưng mức tăng
trưởng GBP vẫn đạt mức bình quân xấp xỉ 7 %. Nhờ vậy, tổng thu nhập
trong 10 năm đã qua tăng hơn 2 lần, cơ cấu kinh tế có sự dịch chuyển tích
cực theo hướng CNH – HĐH (Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá), tạo tiền đề
cho những thay đổi sâu sắc cho nền kinh tế Việt Nam phát triển và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế.
Với phương châm “muốn làm bạn với tất cả các nước”, Việt Nam đã
thực hiện một chính sách đối ngoại rộng mở. Tính đến nay, Việt Nam đã là
thành viên chính thức của hai tổ chức kinh tế khu vực là ASEAN, APEC và
đang tích cực chuẩn bị gia nhập WTO. Ngoài ra, Việt Nam có quan hệ
thương mại với gần 170 nước và vùng lãnh thổ, ký hiệp ước thương mại với
hơn 60 nước và nhận được ưu đãi tối huệ quốc của 68 nước.
Nhật Bản, với tư cách là một nước có tiềm năng về kinh tế, có vai trò
ổn định và hỗ trợ phát triển trong khu vực… đã trở thành một đối tác đang
là hướng ưu tiên để Việt Nam thiết lập quan hệ lâu dài. Điều này, không chỉ
nhằm mục đích duy trì môi trường ổn định xung quanh, mà Việt Nam còn
mong muốn nhận được sự giúp đỡ từ phía Nhật Bản. Hơn thế nữa, Nhật Bản
cũng đã bắt đầu thể hiện vai trò của mình bằng các sáng kiến trong hành
động cụ thể của mình, đặc biệt trong quan hệ với các nước Đông Nam Á. Vì
thế, những thắc mắc trở ngại trong quan hệ giũa hai nước dễ dàng được tháo
gỡ, nhanh chóng tìm kiếm các biện pháp để thúc đẩy các mối quan hệ ảnh
hưởng này. Khi Việt Nam mở cửa hội nhập, chính thức trở thành viên chính
thức của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN). Cũng như trong quan
hệ với Việt Nam chắc chắn Nhật Bản sẽ có điều kiện mở rộng ảnh hưởng
của mình. Điều này, không chỉ tạo ra sự cân bằng trong quan hệ với các
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp
Ph¹m Quang Ninh - K45 - KT§N
-
15
-
nước, mà còn là dấu hiệu về tính chủ động và độc lập trong chính sách đối
ngoại của Nhật Bản nhằm nâng cao vị thế của mình trong khu vực và trên
thương trường quốc tế.
1.3 Ý nghĩa của quan hệ thương mại giữa Việt Nam – Nhật Bản.
Việt Nam, hiện đang trong giai đoạn nền kinh tế chuyển đổi, quá trình
tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng CNH – HĐH đang được đẩy mạnh. Chu
trình đổi mới toàn diện được bắt đầu từ năm 1986, đã làm cho nền kinh tế
thay đổi một cách cơ bản. Những thành tựu, mới đạt được là bước đầu
nhưng rất quan trọng. Như việc chuyển từ một nền kinh tế thiếu hụt về
lương thực, thực phẩm sang một nền kinh tế có dư thừa và xuất khẩu lương
thực, kiểm soát được lạm phát, không ngừng mở rộng, phát triển các mối
quan hệ kinh tế với các nước bên ngoài, tăng trưởng kinh tế cao, cải thiện
điều kiện sống… và những nhu cầu cơ bản khác của mọi tầng lớp xã hội
được đáp ứng. Điều quan trọng nhất là, sự chuyển đổi của cả một hệ thống
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là những nhân tố
quyết định, đánh dấu sự cố gắng nỗ lực của toàn thể dân tộc Việt Nam để
đạt tới “điểm cất cánh”. Và đây cũng là những nhân tố, làm cho Việt Nam
có khả năng thực hiện một chiến lược mới về CNH – HĐH đất nước. Để
thực hiện được chiến lược mới này trong tương lại, Việt Nam cần thực hiện
ba nhiệm vụ chiến lược chính sau đây:
- Thứ nhất; phát triển cơ sở hạ tầng Kinh tế - Xã hội và thực hiện tái
đầu tư theo hướng CNH – HĐH.
- Thứ hai; Tổ chức lại và phát triển các lực lượng chủ chốt trong cơ
cấu kinh tế đa sở hữu, đặc biệt là khu vực nhà nước một khu vực đóng góp
rất lớn cho tổng thu nhập quốc dân (GDP) của Việt Nam. Nó có thể tiếp tục,
đóng vai trò là lực lượng chính và cơ bản trong nền kinh tế thị trường trong
khoảng hai đến ba thập kỷ tới.
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp
Ph¹m Quang Ninh - K45 - KT§N
-
16
-
- Thực hiện chính sách: kết hợp giữa tăng trưởng cao với công bằng
xã hội.
Để thực hiện tốt những nhiệm vụ này, Việt Nam phải đương đầu với
những khó khăn lớn như:
+ Thiếu hụt vốn.
+ Thiếu công nghệ hiện đại.
+ Thiếu kinh nghiệm quản lý cả về vĩ mô cũng như là vi mô.
+ Sự cách biệt thu nhập ngày càng gia tăng tạo nên hố ngăn cách,
phân hoá giữa giầu và nghèo. Những tiêu cực trong phát triển nền kinh tế thị
trường như: tham nhũng, buôn lậu và sự sa sút môi trường…
Những khó khăn trên đây, không thể vượt qua được nếu chỉ dựa vào
những nỗ lực của bản thân Chính phủ và nhân dân Việt Nam. Thực hiện
chính sách đối ngoại theo hướng đổi mới, Việt Nam đã thiết lập quan hệ
hữu nghị với tất cả các nước trong khu vực, lần đầu tiên trong lịch sử có
quan hệ ngoại giao với tất cả các nước tư bản lớn. Việt Nam cũng có quan
hệ thân thiện với các nước Tây Bắc âu; duy trì quan hệ truyền thống với các
nước Đông Âu và các quốc gia thuộc Liên Xô cũ; có uy tín trong các nước
đang phát triển và phong trào không liên kết. Vai trò và uy tín quốc tế của
Việt Nam sẽ tăng lên gấp bội, khi Việt Nam đủ điều kiện cất cánh về kinh
tế. Với điều kiện địa lý tự nhiên thuận lợi, cộng với sự tương đồng về văn
hoá, phong tục tập quán giữa hai dân tộc Việt Nam – Nhật Bản tạo thêm
nhiều thuận lợi để phát triển mối quan hệ kinh tế – thương mại ngày càng
tốt đẹp hơn, mang lại nhiều lợi ích hơn nữa cho cả hai bên. Nhận thức được
điều này, trong những năm qua, với sự cố gắng nỗ lực của cả hai bên đã làm
cho quan hệ giữa hai nước đã được thiết lập và mang lại những thành công
đáng kể cho cả hai bên.
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp
Ph¹m Quang Ninh - K45 - KT§N
-
17
-
Trước hết đối với Việt Nam, việc phát triển quan hệ kinh tế thương
mại sẽ đem lại nhiều thuận lợi cho quốc gia trong lĩnh vực ngoại thương.
Nhật Bản, có một thị trường tiêu thụ rộng lớn cho các sản phẩm của Việt
Nam như: Dầu thô, hàng Dệt may, Giầy dép da, Than, Cafe… và các hàng
nông sản khác. Nhờ đó, tích luỹ được một nguồn ngoại tệ đáng kể cho đất
nước, góp phần đáng kể vào công cuộc đổi mới đất nước. Mặt khác, thông
qua nhập khẩu, nhu cầu tiêu dùng của người Việt Nam sẽ được thoả mãn
với những hàng hoá có chất lượng tốt hơn, mẫu mã đẹp hơn, nhiều tính năng
tác dụng do Nhật Bản sản xuất. Đây cũng là một động lực để nâng cao khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước với hàng hoá nhập khẩu
từ Nhật Bản. Hơn nữa khi tham gia vào quan hệ ngoại thương với Nhật,
Việt Nam có thể nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại từ một nước có công
nghệ tiên tiến như Nhật Bản, để từ đó đẩy mạnh, nhanh hơn quá trình CNH
– HĐH đất nước, nâng cao năng xuất lao động cho nền kinh tế nói chung.
Mặt khác, nhờ có một đội ngũ lao động lành nghề, có trình độ
chuyên môn cao và khả năng tiếp thu các thành tựu khoa học kỹ thuật hiện
đại, nên Nhật Bản đã khai thác và sử dụng hiệu quả nhân tố này trong quá
trình sản xuất, để tạo ra những sản phẩm có lợi thế so sánh. Bên cạnh đó,
Nhật Bản còn có lợi thế trong việc sử dụng và phát huy vốn đầu tư của
mình. Thông qua hoạt động đầu tư, Việt Nam đã thu hút được một nguồn
vốn đầu tư lớn từ Nhật đó là: vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) và
vốn đầu tư trực tiếp (FDI); cũng như tiếp thu được những công nghệ mới,
kinh nghiệm quản lý tiên tiến của Nhật Bản Với luồng vốn đầu tư trực tiếp
của Nhật Bản vào Việt Nam, sẽ cải thiện phần nào tình trạng thiếu vốn,
thiếu công nghệ mà các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam đang
vấp phải.
Trong quan hệ kinh tế đối ngoại với Nhật Bản, Việt Nam nhận được
nhiều những khoản viện trợ phát triển chính thức (ODA) từ Nhật Bản. Đây
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp
Ph¹m Quang Ninh - K45 - KT§N
-
18
-
là hoạt động viện trợ mang tính chất chính phủ của Nhật Bản đối với công
cuộc kiến thiết, phát triển đất nước của Việt Nam. Hoạt động này được
chính phủ Nhật Bản tiến hành từ khá lâu và đóng một vai trò quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam cho tới nay. Thông qua
nguồn vốn ODA, Nhật bản đã hỗ trợ cho Việt Nam xây dựng cơ sở hạ tầng
kinh tế - xã hội vốn lạc hậu, hư hỏng và xuống cấp nghiêm trọng. Với các
dự án xây dựng, tu sửa đường xá, cẩu cống, xây dựng hệ thống thông tin
liện lạc, khai thác nguồn năng lượng… làm thay đổi bộ mặt của đất nước,
đồng thời làm tăng sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Trong quan hệ kinh tế – thương mại giữa Việt Nam – Nhật bản,
không chỉ mang lại nhiều thuận lợi cho Việt Nam mà về phía Nhật Bản
cũng có nhiều lợi ích, góp phần vào mục tiêu kinh tế – chính trị của họ. Về
mặt kinh tế, Việt Nam là một thị trường rộng lớn của các doanh nghiệp Nhật
Bản, đặc biệt là các mặt hàng như đồ điện tử, điện lạnh. xe máy, ô tô….
Ngoài ra, Việt Nam còn là một quốc gia có nguồn tài nguyên tương
đối đa dạng và phong phú. Việt Nam nằm ở vùng nhiệt đới, thuận lợi cho
việc phát triển nông nghiệp và các cây công nghiệp. Bờ biển từ Bắc xuống
Nam của Việt Nam chuyển hướng, uốn khúc theo hình chữ “S”, kéo dài trên
15 vĩ độ. Bờ biển dài trên 3000 km là điểm thuận lợi để Việt Nam phát triển
các ngành thuỷ hải sản, cảng biển vận tải biển, du lịch, giao thông. Bên cạnh
đó, vùng Biển Việt Nam có thềm lục địa mở rộng hứa hẹn nhiều tài nguyên
khoáng sản đặc biệt là các kim loại quí hiếm và dầu mỏ. Mặt khác, cùng với
sự gia tăng đầu tư sang Việt Nam, một thị trường lao động rẻ, trẻ, có trình
độ văn hoá khá… Các doanh nghiệp Nhật Bản cũng tiết kiệm được chi phí
sản xuất, cạnh tranh tốt hơn trong xuất khẩu, gia tăng hiệu quả của nền sản
xuất nói chung.
Ngoài những lợi ích về kinh tế, Nhật Bản còn đạt được những mục
tiêu chính trị của mình. Có thể nhận thấy rằng, từ khi Việt Nam gia nhập
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp
Ph¹m Quang Ninh - K45 - KT§N
-
19
-
ASEAN vào năm 1995, bình thường hoá quan hệ với Mỹ, được xét kết nạp
vào diễn đàn APEC, cùng với những hoạt động tại liên hợp quốc và các tổ
chức quốc tế khác, tiếng nói của Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế và khu
vực được các nước khác coi trọng. Với uy tín quốc tế của Việt Nam ngày
càng tăng, quan hệ chính trị giữa Việt Nam và Nhật Bản có cơ hội phát triển
lên một tầm cao mới. Điều này góp phần làm tăng thêm vai trò vị trí quốc tế
của Nhật Bản. Tuy Việt Nam không phải là một trong những ưu tiên hàng
đầu trong chính sách ngoại giao của Nhật Bản, song Nhật Bản muốn phát
huy vai trò chủ đạo ở khu vực và vai trò chính trị quốc tế, Nhật Bản không
thể không tính đến thực tại và tiềm năng của Việt Nam ở trong khu vực.
Thực tế quan hệ lịch sử của hai nước và quan hệ quốc tế trong khu vực đã
khẳng định điều này. Từ lâu, Nhật Bản nhận thức rõ tầm quan trọng của
Việt Nam trong chiến lược Đông Nam Á của mình. Sự ổn định chính trị và
hợp tác quốc gia trong khu vực, có ý nghĩa tích cực đối với mục tiêu và lợi
ích trong chiến lược của Nhật Bản.Trên thực tế, trong khi tình hình chiến
tranh lạnh đang căng thẳng, sự đối đầu tại khu vực còn nổi trội hơn xu
hướng hợp tác và quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia, thì Nhật bản không
thể triển khai được chính sách ngoại giao tích cực độc lập. Trong bối cảnh
khu vực như vậy, Nhật Bản bị sức ép từ bên ngoài phải đứng vào vị trí của
một bên, chống lại phía bên kia ngoài ý muốn. Hiện nay, trong xu thế hợp
tác, liên kết phát triển. Thực tế, Việt Nam đã gia nhập ASEAN, thì tình hình
này rất có lợi cho Nhật Bản, khi mà Nhật quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Người ta không thể hình dung được một Đông Nam Á hoà bình, ổn định,
phát triển mà không có Việt Nam, một nước có tiềm năng và được coi là
một nước cỡ lớn ở khu Vực Đông Nam Á. Chính sách thúc đẩy quan hệ
toàn diện với khu vực Đông Nam Á của Nhật Bản có nhiều cơ hội thành
công khi quan hệ giữa Việt Nam – Nhật Bản được tăng cường. Mặt khác,
Việt Nam có vị trí chiến lược quan trọng ở khu vực Đông Nam Á, nằm án
ngữ các tuyến đường giao thông biển ở khu vực Thái Bình Dương, có nhiều
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp
Ph¹m Quang Ninh - K45 - KT§N
-
20
-
cửa ngõ thông ra biển thuận lợi, có các hải cảng như cảng Hải Phòng, Cam
Ranh, Đà Nẵng, Vũng Tầu… có ý nghĩa về mặt quân sự cũng như kinh tế.
Quyết định sử dụng những hải cảng này của Vệt Nam trong tương lai, có thể
xem như là một nhân tố tác động đến chiến lược an ninh của Nhật Bản.
Nhật Bản muốn bảo vệ được vận tải biển qua biển Đông, cũng như bảo đảm
an ninh ở phía Tây Nam thì, không thể không tính tới nhân tố này. An ninh
kinh tế cũng như an ninh quốc phòng của Nhật Bản phụ thuộc nhiều vào
khu vực biển Đông, nơi mà Việt Nam là một trong những đối tác chính.
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp
Ph¹m Quang Ninh - K45 - KT§N
-
21
-
Chương 2
THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM -
NHẬT BẢN TỪ NĂM 1992 ĐẾN NAY
S
au hơn 30 năm (1973 – 2004) thiết lập quan hệ ngoại giao chính
thức, quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam - Nhật Bản trong mối quan
hệ mới không ngừng được củng cố và hoàn thiện. Trên cơ sở lợi ích riêng
của hai nước, mặc dù có sự khác biệt về chính trị, nhưng hai nước đã có
nhiều cố gắng duy trì và phát triển mối quan hệ này. Đặc biệt từ năm 1992
đến nay, do đã có các bước tiến triển khả quan với nhiều sự kiện lớn trong
quan hệ chính trị, ngoại giao, kinh tế giữa hai nước khiến cho các hoạt động
xuất nhập khẩu đã diễn ra với tốc độ và quy mô ngày càng mạnh mẽ, sôi
động hơn hẳn so với giai đoạn từ năm 1986 đến 1991. Trước khi đề cập đến
quan hệ giữa hai bên từ năm 1992 đến nay, chúng ta cần có cái nhìn tổng
quan nhất về động thái phát triển kinh tế thương mại giữa hai nước giai
đoạn trước năm 1992.
2.1 Sự tiến triển của quan hệ thương mại giữa Việt Nam – Nhật
Bản từ năm 1973 đến năm 1991
Sau khi hiệp định Pari, về việc chấm dứt cuộc chiến tranh Việt Nam
được ký kết, ngày 21/9/1973 Việt Nam và Nhật Bản đã chính thức thiết lập
quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Hai năm sau, vào tháng 10 năm 1975, cả
hai bên đã cùng mở đại sứ quán ở thủ đô của nhau. Đã mở ra, một thời kỳ
mới trong quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước. Cũng từ đó, quan hệ hai
nước bước sang một trang mới.
Trước năm 1986, ngoài quan hệ với các thị trường truyền thống khu
vực 1 (các nước XHCN) Việt Nam đã từng bước mở rộng quan hệ thương
mại với các nước khác, các thị trường khu vực II (các nước TBCN và các
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp
Ph¹m Quang Ninh - K45 - KT§N
-
22
-
nước đang phát triển). Đặc biệt năm 1976, Nhật Bản đã trở thành bạn hàng
lớn thứ hai sau Liên Xô về cả xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá.
Bảng 1
: Danh sách 5 bạn hàng xuất khẩu lớn nhất cuả Việt Nam
giai đoạn (1976 – 1990)
Nước Tỷ trọng trong tổng Kim ngạch Xuật
khẩu Việt nam (%)
Xếp hạng
Liên Xô 44.1 1
Nhật Bản 40.6 2
Singapore 7.0 3
Hồng Kông 7.0 4
Ba Lan 3.9 5
(Nguồn: Nguyễn Trần Quế: Kinh tế đối ngoại Việt Nam – Thực tiễn
và chính sách, Viện Kinh tế thế giới, Hà Nội,1992)
Bảng 2: Danh sách 5 bạn hàng nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam
giai đoạn (1976- 1990)
Nước Tỷ trọng trong tổng Kim ngạch Nhập
khẩu Việt Nam (%)
Xếp hạng
Liên Xô 67.1 1
Nhật Bản 6.7 2
Pháp 2.7 3
Tiệp Khắc 2.3 4
Hồng Kông 2.1 5
Nguồn: Nguyễn Trần Quế - Kinh tế đối ngoại Việt Nam – thực tiễn và
chính sách. Viện kinh tế thế giới, Hà Nội, 1992
Trong ba năm liền từ năm 1976 - 1978, quan hệ mậu dịch của hai
nước tiếp tục phát triển, với tổng kim ngạch hàng năm tương ứng khoảng
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp
Ph¹m Quang Ninh - K45 - KT§N
-
23
-
159 triệu USD, 247 triệu USD và 268 triệu USD. Như vậy, có sự gia tăng
quá nhanh về quy mô và giá trị.
Bước sang năm 1979, do nhiều yếu tố phi kinh tế tác động nên mậu
dịch song phương của hai nước có sự giảm sút. Kim ngạch xuất khẩu chỉ
còn 50 triệu USD, nhiều hợp đồng làm ăn bị hoãn lại. Lý do cơ bản là vì
các năm này, Nhật Bản không vượt ra khỏi áp lực chính trị vì ảnh hưởng dư
luận phản đối của các nước tư bản chủ nghĩa trên thế giới mà đứng đầu
không phải ai khác là Mỹ. Về thực trạng diễn biến quân sự, chính trị giữa
Việt Nam và Trung Quốc qua cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, cuộc dẹp
bỏ chế độ Pôn-Pốt của Việt Nam ở Campuchia phía Tây Nam, cộng thêm
một số vấn đề khác nữa… Đã dẫn đến quyết định tối cao của Bộ ngoại giao
Nhật Bản ngày 8/1/1987, là sẽ hoãn viện trợ cho Việt Nam cho đến khi nào
các vấn đề trên được giải quyết ổn thoả. Tuy nhiên, Nhật Bản chỉ đình chỉ
mọi cuộc tiếp xúc ngoại giao hoặc tài trợ nhân đạo. Nói cách khác, đồng
thời với việc đình chỉ tài trợ kinh tế, Nhật Bản vẫn tiếp tục duy trì sự giúp
đỡ nhân đạo cho Việt Nam trong suốt thời gian từ năm 1979 đến trước khi
nối lại tài trợ ODA toàn diện cho Việt Nam năm 1992.
Bảng 3:
Tài trợ của Nhật Bản và các nước thuộc tổ chức DAC cho
Việt Nam thời kỳ 1979 – 1991
(đơn vị: triệu đô la Mỹ)
Năm Từ Nhật Bản
Từ DAC Năm Từ Nhật Bản
Từ DAC
1979 38,7 229,6 1986 1,5 54,2
1980 3,7 158,4 1987 0,3 90,0
1981 0,9 129,4 1988 4,8 65,8
1982 1,3 104,9 1989 1,6 -
1983 0,7 73,5 1990 1,3 -
1984 1,1 80,7 1991 7,1 107,7
1985 0,6 54,2
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp
Ph¹m Quang Ninh - K45 - KT§N
-
24
-
(Nguồn: OECD, Development Assistance Committe Statistic và
Japan’s ODA Annual Report 1995)
Từ năm 1983 – 1986, quan hệ thương mại giữa Việt Nam – Nhật Bản
có xu hướng gia tăng. Hoạt động xuất nhập khẩu được đẩy mạnh, điều này
xuất phát từ nhu cầu kinh tế của cả đôi bên như: Việt Nam muốn có các sản
phẩm hàng hoá công nghiệp cần thiết, phục vụ cho nhu cầu thiết yếu, các
thiết bị công nghệ hiện đại, phục vụ cho việc CNH - HĐH đất nước. Còn về
phía Nhật Bản, họ lại muốn khai thác tài nguyên thiên nhiên, thị trường, lao
động… của Việt Nam. Do vậy mà tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt gần
214 triệu USD vào năm 1985. Trong đó, Việt Nam xuất sang Nhật Bản
những sản phẩm thô có giá trị thấp và nhập từ Nhật những hàng hoá có hàm
lượng “chất xám” cao.
Bảng 4:
Buôn bán giữa Việt Nam – Nhật Bản giai đoạn (1973 –
1986)
(đơn vị: Nghìn đồng)
Năm Kim ngạch Xuất khẩu Kim ngạch Nhập
khẩu
Tổng kim ngạch Xuất
nhập khẩu
1973 7.627 4.429 12.056
1974 30.194 20.394 50.588
1975 26.697 2.973 69.670
1976 39.906 8.795 158.701
1977 71.848 174.669 246.517
1978 50.834 216.820 267.654
1979 48.228 117.734 165.692
1980 48.627 113.090 161.717
1981 37.334 109.449 146.793
1982 36.018 92.339 128.357
1983 37.625 119.221 156.846
1984 51.206 119.221 170.224
1985 65.027 148.036 213.863