TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LUẬT
----**----
BÀI TẬP LỚN
MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊ-NIN
Đề tài: Trình bày thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện
nay.
Sinh viên: Nguyễn Thu Quỳnh
Mã sinh viên: 11203399
Lớp: Kinh tế chính trị Mác – Lênin (220)_25
Hà Nội, 2021
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG................................................................................................2
I. Một số vấn đề lý luận về hội nhập kinh tế quốc tế ..............................................2
1. Khái niệm.........................................................................................................2
2. Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế ....................................2
3. Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế...................................................................3
II. Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay ................................3
1. Chủ trương, đường lối của Đảng về vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế qua từng
thời kì ...................................................................................................................3
2. Thành tựu của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế .................6
3. Thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế ..................................................................................................................8
III. Phương hướng nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam .......10
1. Tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức .....................................10
2. Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế .................................11
3. Giải quyết mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế .....11
LỜI KẾT ................................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................14
LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ sau cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba, cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học công nghệ đã kéo theo sự phát triển khơng ngừng của lực lượng
sản xuất, nhanh chóng vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia, mở rộng ra toàn thế
giới. Xu thế hội nhập giữa các quốc gia ngày càng hiện hữu, khơng phân biệt chế độ
chính trị, trình độ phát triển, kinh tế, văn hóa… dẫn đến sự ra đời của các tổ chức
trong phạm vi từng khu vực (EU, APEC…) và toàn cầu (WTO). Trong bối cảnh
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, cùng với những diễn biến, tình hình mới của thế
giới địi hỏi các quốc gia phải chung tay giải quyết (ứng phó với biến đổi khí hậu,
thiên tai, dịch bệnh…), do vậy, xu hướng hội nhập kinh tế, tồn cầu hóa ngày càng
trở nên phổ biến ở tất cả các quốc gia trên thế giới và Việt Nam khơng nằm ngồi
xu hướng này, thậm chí tham gia tích cực vào q trình tồn cầu hóa.
Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, hợp tác với các nước có tiềm lực kinh tế lớn. Đây là một mục
tiêu nhiệm vụ rất quan trọng, mang tính lâu dài, đối với một nước có nền kinh tế
đang phát triển như Việt Nam thì thật sự rất cần thiết. Việc hội nhập kinh tế quốc tế
mang đến cho nước ta rất nhiều lợi ích như mở rộng được thị trường xuất khẩu, thu
hút vốn đầu tư nước ngồi, nâng cao kĩ thuật cơng nghệ, học hỏi được những kinh
nghiệm quý báu của các nước có nền kinh tế phát triển hơn, từ đó tiếp thu và vận
dụng để xây dựng nền kinh tế nước nhà ngày một phát triển và giàu mạnh. Trong
Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Đại hội đã nêu rõ nhiệm vụ “Chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội
nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì
lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia”.
Nghiên cứu về hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là đề tài mang tính thời
sự, đã được rất nhiều nhà kinh tế đề cập đến bởi tính thực tiễn cao, phù hợp với tình
hình phát triển của Việt Nam (nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, do 1 đảng
cộng sản duy nhất lãnh đạo…). Bản thân em là một sinh viên năm nhất ở một ngơi
trường có bề dày đào tạo về kinh tế như trường Đại học Kinh tế Quốc dân, em cảm
thấy rất hứng thú khi được giao tìm hiểu, nghiên cứu đề tài này. Tuy nhiên, do sự
hiểu biết của em còn hạn chế nên trong bài viết em chỉ tập trung nghiên cứu nêu ra
những kết quả nổi bật đã đạt được và một số hạn chế về hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam sau 35 năm đổi mới (1986 - 2021), đồng thời đề xuất giải pháp khắc phục.
Do mới tham gia nghiên cứu khoa học nên bài viết không tránh khỏi thiếu sót, em
kính mong cơ giúp đỡ để em hồn thiện hơn.
1
Em xin chân thành cảm ơn!
PHẦN NỘI DUNG
I. Nhận thức chung về hội nhập kinh tế quốc tế
1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là quá trình quốc gia đó thực hiện
gắn kết nền kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích đồng
thời tuân thủ các chuẩn mực quốc tế chung.
2. Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, do yêu cầu khách quan trong bối cảnh tồn cầu hóa kinh tế.
Tồn cầu hóa là quá trình tạo ra liên kết và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng
gia tăng giữa các quốc gia trên quy mơ tồn cầu. Tồn cầu hóa diễn ra trên nhiều
phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,... trong đó, tồn cầu hóa kinh tế là
xu thế nổi trội nhất, vừa là trung tâm vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển của tồn
cầu hóa trong các lĩnh vực khác. Trong điều kiện tồn cầu hóa kinh tế, hội nhập kinh
tế quốc tế trở thành tất yếu khách quan.
Tồn cầu hóa kinh tế đã làm cho các mối liên hệ quốc tế của sản xuất và trao
đổi ngày càng gia tăng, khiến cho nền kinh tế của mỗi nước khơng thể tách rời nền
kinh tế tồn cầu, các yếu tố sản xuất cũng được lưu thông trên phạm vi tồn cầu. Do
đó nếu khơng hội nhập kinh tế quốc tế thì các nước sẽ khơng thể tự đảm bảo các điều
kiện cần thiết cho sản xuất trong nước. Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại nhiều cơ
hội và lợi ích để các nước phát triển nền kinh tế của mình.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến của các
nước, nhất là các nước đang và kém phát triển trong điều kiện hiện nay.
Đối với các nước đang và kém phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế là một cơ
hội để tiếp cận và sử dụng các nguồn lực kinh tế từ các nước phát triển hơn như tài
chính, khoa học kĩ thuật hiện đại,... Và chỉ có phát triển kinh tế mở và hội nhập kinh
tế mới mang lại cơ hội cải thiện nền kinh tế dành cho những nước đang và kém phát
triển, giúp những nước này rút ngắn khoảng cách về kinh tế đối với các nước tiên
tiến. Tuy nhiên, các nước này cũng cần có chiến lược hội nhập hợp lý, tìm những
đối tác phù hợp để tránh việc quá phụ thuộc vào tài chính cũng như các nguồn lực
từ các đối tác. Chính sách hội nhập phải dựa và gắn chặt với chiến lược phát triển
của đất nước. Cải cách bên trong quyết định tốc độ và hiệu quả của hội nhập, đồng
2
thời hội nhập sẽ hỗ trợ, thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, qua đó nâng cao sức
cạnh tranh của nền kinh tế.
3. Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, chuẩn bị các điều kiện để thực hiện hội nhập thành công.
Hội nhập là tất yếu, tuy nhiên q trình này địi hỏi phải có sự chuẩn bị các
điều kiện trong nội bộ nền kinh tế. Các điều kiện sẵn sàng về tư duy, sự tham gia của
toàn xã hội, sự hoàn thiện và hiệu lực của thể chế, nguồn nhân lực và sự am hiểu về
môi trường kinh tế quốc tế,... là những điều kiện chủ yếu để hội nhập thành công.
Một nước đứng trước quyết định hội nhập nên hiểu rõ điều kiện vật chất cũng như
tiềm lực của nước mình trước tiên, sau đó mới tìm hiểu về kinh tế của các nước khác.
Thứ hai, thực hiện đa dạng các hình thức, các mức độ hội nhập kinh tế quốc
tế phù hợp với điều kiện từng quốc gia
Hội nhập kinh tế có thể diễn ra theo nhiều mức độ, tùy thuộc vào mức độ tham
gia của một nước vào các quan hệ kinh tế đối ngoại, các tổ chức kinh tế khu vực và
thế giới. Theo đó, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế được chia ra thành các mức độ
cơ bản từ thấp đến cao đó là: Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA), Khu vực mậu
dịch tự do (FTA), Liên minh thuế quan (CU), Thị trường chung, Liên minh kinh tế
- tiền tệ,...
II. Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay
Sau 35 năm thực hiện đổi mới, đất nước ta đã từng bước hội nhập vào nền
kinh tế khu vực và thế giới, mở rộng mối quan hệ kinh tế với các nước, tham gia tích
cực và có trách nhiệm tại các diễn đàn, tổ chức quốc tế. Ngay từ những năm 1980
của thế kỉ XX, nước ta đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề hội nhập
kinh tế quốc tế. Từ đó cho tới nay, đường lối và chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế
của Đảng luôn được đưa ra một cách nhất quán, không ngừng được triển khai, phát
triển sao cho phù hợp với bối cảnh đất nước và thế giới qua từng thời kì.
1. Chủ trương, đường lối của Đảng về vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế qua
từng thời kì
Đại hội Đảng lần thứ VII năm 1991 xác định rõ chủ trương “hợp tác bình đẳng
và cùng có lợi với tất cả các nước, khơng phân biệt chế độ chính trị, xã hội khác
nhau trên cơ sở các ngun tắc cùng tồn tại hịa bình... Với chính sách đối ngoại mở
rộng, chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong
3
cộng đồng thế giới, phấn đầu vì hịa bình, độc lập và phát triển”1, đánh dấu bước
khởi đầu của tiến trình hội nhập trong giai đoạn mới của nước ta. Nhờ chủ trương
này, Việt Nam đã đẩy lùi được chính sách bao vây cô lập của các thế lực thù địch,
không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế đối ngoại song phương và đa phương.
Ngoài ra, Đại hội Đảng lần thứ VII còn nhấn mạnh phát triển mối quan hệ hữu nghị
với các nước không chỉ ở trong khu vực Đơng Nam Á mà cịn mở rộng sự hợp tác
với các nước ở Bắc Âu, Tây Âu, Nhật Bản,... và đặc biệt là thúc đẩy quá trình bình
thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Đại hội Đảng lần thứ VIII năm 1996 xác định sự cần thiết phải xây dựng một
nền kinh tế mới hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu. Từ đó,
Đảng đưa nhiệm vụ đối ngoại lên một tầm cao mới “Nhiệm vụ đối ngoại trong giai
đoạn tới là củng cố mơi trường hịa bình và tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa để đẩy
mạnh phát triển kinh tế - xã hội, cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước” và “đẩy
nhanh q trình hội nhập kinh tế quốc tế”2. Đây là lần đầu tiên Nghị quyết của Đảng
đề cập đến việc đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm mục tiêu phát
triển đất nước, đánh dấu bước chuyển biến cơ bản trong nhận thức về nhu cầu cần
tích cực đẩy nhanh q trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Đại hội Đảng lần thứ IX năm 2001 lại một lần nữa khẳng định việc mở rộng
quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. “Chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo về lợi ích dân
tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc”3. Đảng ta cũng nhận
thức rõ hội nhập kinh tế mang lại những lợi ích, những cơ hội phát triển cho đất
nước, và việc hội nhập quốc tế là hoàn toàn cần thiết.
Đại hội Đảng lần thứ X năm 2006 và lần thứ XI năm 2011 tiếp tục củng cố,
cụ thể hóa, đưa ra các đường lối , chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực
và song phương”, “chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết các Hiệp định thương mại tự
do song phương và đa phương”4. Đặc biệt, đại hội Đảng lần thứ XI năm 2011 đã
thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020, trong đó
1
Văn kiện Đảng tồn tập, Tập 51, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.52,53
Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 55, NXB. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2015, tr.129,130
3
Văn kiện Đảng tồn tập, Tập 60, NXB. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.147
4
Văn kiện Đảng tồn tập, Tập 65, NXB. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2018, tr.147-149
2
4
nhấn mạnh việc “không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế và sức mạnh tổng hợp
của đất nước để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và có hiệu quả”.
Đại hội XII năm 2016 của Đảng vẫn khẳng định nhiệm vụ chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế. Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc
biệt là ASEAN và Liên hợp quốc, nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp
tục đưa các mối quan hệ hợp tác kinh tế vào chiều sâu. Nâng cao hiệu quả hội nhập
kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, các hiệp định thương mại tự
do thế hệ mới trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích
của đất nước.
Đại hội Đảng lần thứ XIII vừa qua lại một lần nữa đề cao tầm quan trọng của
việc hội nhập kinh tế quốc tế, tiếp tục sửa đổi các chủ trương của những văn kiện
của các Đại hội Đảng trước. Cụ thể “Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế
quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống
chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động của bên ngồi; chủ
động hồn thiện hệ thống phịng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường
trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế. Thực hiện nhiều hình thức hội nhập
kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất
nước trong từng giai đoạn”1. Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn
biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo, cả thách thức và cơ hội đều đan xen,
trong đó thách thức lớn hơn. Những chuyển biến của cục diện thế giới và khu vực
tác động nhiều mặt tới Việt Nam do chúng ta ngày càng hội nhập sâu rộng với thế
giới và khu vực. Nhiệm vụ đối ngoại do đó cũng càng trở nên quan trọng và nặng
nề, vừa nhằm thích ứng và ứng phó với bối cảnh thế giới và khu vực biến động mạnh,
vừa phục vụ những mục tiêu phát triển chiến lược của đất nước giai đoạn tới.
Như vậy, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong 35 năm qua
đã có những bước tiến quan trọng. Từ nhu cầu thực tế phải tăng cường mở rộng quan
hệ hợp tác với các nước để phá thế bao vây cơ lập cho đến chủ động, tích cực mở
cửa thị trường và từng bước khẳng định vai trò của mình trong nền kinh tế khu vực
và quốc tế như hiện nay. Có thể nói, hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần làm gia
tăng sức mạnh quốc gia, tiếp thu, học hỏi được tinh hoa của nhân loại, từ đó cải thiện
đời sống nhân dân, đưa đất nước phát triển ngày một vững mạnh và nâng cao vị thế
nước nhà trên trường quốc tế.
1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII – Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia sự thật,
tr.135
5
2. Thành tựu của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Đối với Việt Nam, hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn nhằm thực
hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Từ khi
tham gia hội nhập quốc tế, chúng ta đã tạo lập, củng cố môi trường hịa bình, hợp
tác, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi, “góp phần quan trọng vào sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, giữ vững
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, giữ vững an ninh
chính trị và trật tự, an toàn xã hội; cải thiện đời sống nhân dân, củng cố niềm tin
của các tầng lớp nhân dân vào công cuộc đổi mới; nâng cao vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế”1.
Thứ nhất, hội nhập kinh tế góp phần mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, tiếp
thu khoa học công nghệ, vốn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước của Việt Nam.
Hội nhập kinh tế quốc tế thực chất là mở rộng thị trường để thúc đẩy thương
mại phát triển, tạo điều kiện sản xuất trong nước. Việc kí kết các hiệp định thương
mại tự do (FTA) và tham gia vào các tổ chức quốc tế trong khu vực và trên thế giới
như ASEAN, AFTA, ASEM, APEC, WTO,... đã mang lại cho nước ta nhiều mối
quan hệ với các nước khác, từ đó mở rộng thị trường, giúp Việt Nam được hưởng
ưu đãi về thuế quan, xóa bỏ hàng rào phi thuế quan cùng các chế độ đãi ngộ khác,
điều này tạo điều kiện rất thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng hóa của nước ta. Kim
ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2020 ước tính đạt 281,5 tỷ USD, tăng 6,5% so với
năm 2019, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 78,2 tỷ USD, giảm 1,1%, chiếm
27,8% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngồi (kể cả dầu thơ)
đạt 203,3 tỷ USD, tăng 9,7%, chiếm 72,2% (tỷ trọng tăng 2,1 điểm phần trăm so với
năm trước). Từ 2016 đến nay, cán cân thương mại xuất nhập khẩu hàng hóa liên tục
thặng dư với mức xuất siêu năm sau cao hơn năm trước. Năm 2016, xuất siêu hàng
hóa của nước ta đạt 1,6 tỷ USD; năm 2017 đạt 1,9 tỷ USD; năm 2018 tăng lên 6,5
tỷ USD; năm 2019 đạt 10,9 tỷ USD và năm 2020 ước tính đạt 19,1 tỷ USD.
Khơng chỉ thuận lợi về xuất nhập khẩu, hội nhập kinh tế quốc tế còn mang lại
cho nước ta cơ hội giao lưu học hỏi, tiếp thu những tinh hoa về công nghệ, khoa học
kĩ thuật từ những nước phát triển, từ đó phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước. Việc chuyển giao các dây chuyền công nghệ, khoa học tiên tiến của
thế giới vào từng ngành nghề, lĩnh vực cụ thể ở Việt Nam như: Công nghệ sản xuất
ô tô (Nhà máy ô tô Trường Hải tiếp nhận dây chuyền chuyển giao của Hyundai về
sản xuất ô tô), công nghệ sản xuất thiết bị di động cầm tay, chip và các sản phẩm
1
Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013, của Bộ Chính trị, Về hội nhập quốc tế
6
viễn thông (Samsung Việt Nam), các công nghệ ứng dụng trong lĩnh vực nông
nghiệp công nghệ cao (Công nghệ tưới nhỏ giọt theo tiêu chuẩn Israel), công nghệ
xây dựng cầu đường và đặc biệt công nghệ thông tin trong các ngành dịch vụ tài
chính, ngân hàng đã góp phần đưa các ngành này từng bước tiếp cận và đạt đến trình
độ của thế giới. Thành tựu nổi bật về khoa học cơng nghệ của nước ta gần đây chính
là việc sáng chế xe hơi mang thương hiệu Vinfast của tập đoàn Vingroup, là chiếc
xe hơi nội địa đầu tiên do người Việt Nam sản xuất dưới sự giúp đỡ của các chuyên
gia ô tô của Mỹ và châu Âu. Dựa trên nền tảng công nghệ Đức và thiết kế đậm chất
Italia, ơ tơ của VinFast cịn là sản phẩm hồn hảo khiến những nước đi đầu về công
nghệ phải nể phục.
Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để thị trường nước ta được mở
rộng, từ đó hấp dẫn các nhà đầu tư. Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, tính đến hết
năm 2020 Việt Nam đã thu hút được tổng số vốn đăng ký trên 377 tỷ USD với tổng
số 33.148 dự án từ các quốc gia và vùng lãnh thổ. Có 10 quốc gia cam kết đầu tư với
số vốn trên 10 tỷ USD như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore,... Tính đến cuối tháng
5 năm 2021, nước ta đã thu hút được 14 tỉ USD vốn đầu tư FDI. Điều này góp phần
làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước theo hướng công nghiệp, phát triển lực
lượng sản xuất và tạo nên công ăn việc làm.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế góp phần duy trì hịa bình ổn định, tạo
dựng mơi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, nâng cao vị trí Việt Nam trên
trường quốc tế.
Trước đây, Việt Nam chỉ có mối quan hệ với Liên Xơ và các nước Đông Âu,
nay đã thiết lập được quan hệ ngoại giao với 189 nước, trong đó có tất cả các nước
lớn, có quan hệ kinh tế với hơn 220 thị trường nước ngoài và là thành viên của nhiều
tổ chức quốc tế. Với chủ trương coi trọng mối quan hệ với các nước láng giềng và
trong khu vực châu Á Thái Bình Dương, chúng ta đã bình thường hóa hồn toàn
quan hệ với Trung Quốc và các nước trong khu vực Đơng Nam Á. Điều này có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng góp phần xây dựng mục tiêu hịa bình, ổn định nhằm tạo
thuận lợi cho công cuộc phát triển và xây dựng đất nước. Ngoài ra, đối với Mỹ, sau
hơn 20 năm gián đoạn kể từ khi kết thúc chiến tranh Việt Nam, Tổng thống Hoa Kỳ
Bill Clinton tuyên bố chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam
vào ngày 11 tháng 7 năm 1995. Hai nước ký kết Hiệp định Thương mại song phương
vào tháng 7 năm 2000, bắt đầu có hiệu lực từ tháng 12 năm 2001. Tháng 11/2007,
7
Hoa Kỳ chấp thuận Quy chế Quan hệ Thương mại Bình thường Vĩnh viễn (PNTR)
cho Việt Nam.1
Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ, cải
thiện tiêu dùng trong nước; tạo cơ hội để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Việc tiếp xúc với nền kinh tế của nhiều nước phát triển trên thế giới dẫn đến
việc các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào thị trường Việt Nam nhiều hơn, do đó
chất lượng hàng hóa, dịch vụ được cải thiện, người tiêu dùng được tiếp cận với nhiều
mặt hàng với chất lượng cao hơn, mẫu mã đa dạng hơn. Bên cạnh đó khi tiếp thu
được những tinh hoa, kinh nghiệm về công nghệ của nước ngồi, từ đó nâng cao và
cải thiện công nghệ trong nước, chất lượng sản phẩm trong nước cũng sẽ ngày càng
được cải thiện. Việc có nhiều doanh nghiệp nước ngồi đầu tư, mở cơng ty ở Việt
Nam khiến cho nguồn nhân lực được làm việc trong môi trường mới, sáng tạo,
chuyên nghiệp hơn, được đào tạo bài bản và tiếp xúc với nhiều cơng nghệ mới, do
đó chất lượng nguồn nhân lực cũng ngày càng đi lên.
3. Thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế
Vấn đề nào cũng có hai mặt lợi và hại của nó. Việc hội nhập kinh tế quốc tế
bên cạnh những thành tựu và ưu điểm như trên cũng tồn tại khơng ít những hạn chế
và thách thức mà đòi hỏi các nước cần phải có chính sách cũng như những chiến
lược hợp lý để có thể vượt qua những thách thức này.
Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng cạnh tranh gay gắt khiến
nhiều doanh nghiệp, ngành kinh tế nước ta gặp khó khăn, gây hậu quả bất lợi về
kinh tế - xã hội.
Việc mở rộng thị trường đồng nghĩa với việc xuất hiện thêm nhiều doanh
nghiệp nước ngoài cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ta. Không chỉ vậy mà cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau cũng trở nên gay gắt hơn. Một ví
dụ đơn giản đó là khi mở cửa thị trường, một số doanh nghiệp nước ngoài đầu tư và
phát triển hệ thống siêu thị hiện đại, có kinh nghiệm và tiềm lực tài chính lớn, cung
cấp đầy đủ các mặt hàng cần thiết và có chất lượng cao cho người tiêu dùng. Điều
này khiến cho các siêu thị trong nước cũng như các cửa hàng tạp hóa nhỏ phải cố
gắng cạnh tranh khốc liệt để tồn tại, thậm chí có thể dẫn đến nguy cơ phá sản trước
sự xuất hiện của các siêu thị ngoại. Ngồi ra, khi xuất khẩu hàng hóa sang các nước
khác, thì sản phẩm của nước ta thường phải đạt yêu cầu rất cao do các nước đó đặt
1
Theo Wikipedia: Quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam
8
ra, do đó nhiều doanh nghiệp đã gặp khó khăn trong việc đáp ứng yêu cầu sản phẩm
khắt khe từ các nước khác.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm gia tăng sự phụ thuộc của nền
kinh tế quốc gia vào thị trường bên ngoài, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước
biến động.
Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại cho nước ta tiềm lực cao về xuất nhập khẩu,
khiến cho nền kinh tế ngày càng phát triển. Nhưng hiện nay, các doanh nghiệp nước
ra đang trong tình trạng phụ thuộc nhiều vào một số thị trường trọng điểm như Trung
Quốc và các nền kinh tế ở Đông – Bắc Á ở cả đầu ra và đầu vào của nhiều ngành
nghề. Việc này mang lại nhiều rủi ro vì trong tương lai, các nước như Mỹ, Trung
Quốc hay thậm chỉ cả Hàn Quốc, Nhật Bản,... khi gặp khó khăn sẽ quay trở lại để
bảo vệ thị trường nội địa, do đó có thể sản lượng mà nước ta xuất khẩu đi các nước
này sẽ giảm đáng kể.
Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế có thể tạo ra thách thức đối với quyền lực
Nhà nước, chủ quyền quốc gia và phát sinh nhiều vấn đề liên quan đến an ninh xã
hội.
Quá trình hội nhập sâu rộng làm cho mối quan hệ giữa các nước ngày càng
gắn kết chặt chẽ và ràng buộc lợi ích giữa các quốc gia khơng chỉ về kinh tế mà cịn
về chính trị và văn hóa – xã hội. Điều này làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế với
các thị trường và nhân tố bên ngoài, làm cho các quyết định của chính phủ về chính
sách cũng như đối ngoại bị ảnh hưởng phần nào bởi các chủ thể bên ngồi. Nền kinh
tế nước ta cịn nhiều mặt hạn chế do đó việc đảm bảo xây dựng một nền kinh tế độc
lập, tự chủ cịn gặp rất nhiều khó khăn, chủ quyền kinh tế bị đe dọa bởi rất nhiều thế
lực bên ngoài. Ngoài ra, việc hội nhập kinh tế quốc tế đồng nghĩa với việc phải tuân
thủ luật chơi chung, hệ thống pháp luật cũng phải sửa đổi để không xung đột với
quốc tế.
Thứ tư, hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm gia tăng tình trạng khủng bố, tội
phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp,...
Việc hợp tác với các nước láng giềng khiến cho đường biên giới của nước ta
với các nước bạn trở nên mờ nhạt hơn, tạo điều kiện cho việc xuất khẩu lao động
trái phép, nhập cư bất hợp pháp, nguy cơ dịch bệnh lây lan. Hiện nay thống kê cho
thấy có hàng chục nghìn người lao động Việt Nam đang sống và làm việc tại nước
ngoài trái phép qua những đợt xuất khẩu lao động “chui”. Trung bình mỗi năm cũng
có đến hơn chục nghìn người nhập cư bất hợp pháp. Điều này mang đến nhiều rủi ro
như lây lan dịch bệnh, hay vấn đề tội phạm xuyên quốc gia đang được nhắc đến rất
9
nhiều ở các báo đài, bản tin. Nhất là trong bối cảnh dịch bệnh Covid 19 đang hoành
hành như hiện nay, thì việc kiểm sốt người nhập cư là một vấn đề rất quan trọng
mà Nhà nước cần phải giải quyết.
III. Phương hướng nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những vấn đề tác động toàn diện đến
nền kinh tế cũng như định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế ở Việt Nam. Với
những tác động đa chiều mà hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, để nâng cao hiệu quả
hội nhập kinh tế quốc tế thì nước ta cần phải tính tốn một cách kĩ lưỡng, phù hợp
để thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế thành công.
1. Tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức
Trong sách Tơn Tử có viết: “Biết mình biết người, trăm trận trăm thắng”. Điều
này cũng hoàn toàn đúng trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay. Nước ta cần nhận
thức rõ những thế mạnh cũng như những điểm yếu của mình, đồng thời tìm hiểu cả
những điểm lợi và hại trong quá trình hội nhập. Từ đó, lấy những phân tích và tìm
hiểu đó làm cơ sở để đề ra những chiến lược, đối sách đúng đắn và phù hợp nhất với
điều kiện thực tiễn của từng thời kì.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”.
Văn kiện đại hội XIII cũng đã nêu: “Nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, phong
cách chuyên nghiệp, đổi mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và
hội nhập quốc tế; chủ động thích ứng trước chuyển biến của tình hình” 1. Qua đó
nhấn mạnh rằng ngồi chủ thể là Nhà nước, lực lượng cán bộ, doanh nhân, doanh
nghiệp cũng rất quan trọng và cần thiết. Nhà nước là một chủ thể quan trọng nhưng
không phải là duy nhất. Nhà nước là người dẫn dắt tiến trình hội nhập, cịn để hội
nhập kinh tế quốc tế một cách toàn diện là sự hội nhập của tồn xã hội, mà trong đó
lực lượng nịng cốt là các doanh nhân, doanh nghiệp. Do đó, hội nhập kinh tế quốc
tế phải lấy dân làm trung tâm, đồng thời được coi là sự nghiệp của toàn dân. Nhà
nước cũng cần truyền tải tư tưởng này đến người dân, nâng cao hiểu biết của người
dân mà đặc biệt là các doanh nghiệp về các thỏa thuận quốc tế, cơ hội và thách thức,
các nhu cầu phải đáp ứng khi tham gia và thực hiện các hiệp định thương mại tự
do,... để có thể hội nhập một cách chủ động, triệt để và toàn diện.
1
Theo Báo Nhân dân: Đường lối đối ngoại Đại hội XIII với khát vọng và phát triển của đất nước, 3/4/2021
10
2. Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế
Việc thực hiện các cam kết hội nhập sâu rộng đang tạo sức ép cạnh tranh ngày
càng gay gắt trên cả ba cấp độ là quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế mà không chủ động nâng cao tiềm lực trong nước thì hiệu quả
hội nhập kinh tế quốc tế sẽ không được nâng cao. Năng lực cạnh tranh của nền kinh
tế cũng như của các doanh nghiệp phải không ngừng được cải thiện. Việc đẩy mạnh
đổi mới mơ hình tăng trưởng, nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh là tiền đề
và là giải pháp quyết định để nâng cao nội lực nhằm tận dụng cơ hội để vượt qua
thách thức hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại nhiều tác động tích cực, nhưng những tác
động đó khơng phải tự nhiên mà có, mà các doanh nghiệp cũng như quốc gia phải
có tiềm năng, thu hút được các nhà đầu tư. Để đứng vững được trên thị trường cạnh
tranh khốc liệt, các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến kĩ thuật, cải thiện nguồn
nhân lực, không ngừng học hỏi, tiếp thu, chọn lọc từ những nền kinh tế quốc tế, từ
đó nâng cao tiềm lực cạnh tranh của mình. Việc nâng cao năng lực cạnh tranh không
chỉ ở việc học hỏi từ bên ngồi, mà cịn phải chú trọng, củng cố tiềm lực bên trong.
Các doanh nghiệp ln phải có các chính sách để khơng q phụ thuộc vào các đối
tác nước ngồi, tránh dẫn đến việc thiếu chủ động trước các tác động từ nền kinh tế.
Nhà nước cũng cần tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua thách thức
của quá trình hội nhập. Nhà nước cần tăng cường đầu tư, chủ động và tích cực trợ
giúp doanh nghiệp, triển khai các dự án, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển.
Ngồi ra Nhà nước cũng có thể tổ chức các khóa đào tạo để nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị máy móc để giảm chi phí sản
xuất và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút vốn, công nghệ tiên tiến, góp phần
tăng năng suất lao động của các doanh nghiệp.
3. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập quốc tế là quá trình phức tạp, một “sân chơi” với những tác động
thuận - nghịch trong cục diện thế giới mới đang định hình. Tham gia hội nhập quốc
tế, Việt Nam chấp nhận tham gia môi trường cạnh tranh gay gắt về lợi ích, ảnh
hưởng, có sự chi phối của các nước lớn trong tình hình thế giới, khu vực diễn biến
hết sức phức tạp, khó lường; tham gia cuộc đấu trí, đấu mưu, đấu pháp, đấu lực để
phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Q trình này ln tồn tại hai
mặt đan xen nhau giữa thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức, đồng thời
chứa đựng nhiều mâu thuẫn. “Chìa khóa” để Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng
11
sâu rộng, giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc là phải bảo đảm lợi ích của
quốc gia, dân tộc gắn với lợi ích của các nước đối tác.
Độc lập tự chủ là khẳng định chủ quyền quốc gia, dân tộc. Giữ vững độc lập
tự chủ, củng cố và phát huy sức mạnh bên trong là nền tảng của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Giữ vững độc lập tự chủ phải đi đôi với chủ động, tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế. Nếu chỉ chú trọng đến hội nhập mà không quan tâm đến độc
lập tự chủ, thì việc hội nhập cũng chỉ như “hịa tan”, khơng giữ được những cái riêng
của nước mình. Giữ vững độc lập tự chủ giúp cho hội nhập kinh tế quốc tế một cách
chủ động hơn, bên cạnh đó hội nhập kinh tế quốc tế cũng mở ra những điều kiện
thích hợp để duy trì nền độc lập, tự chủ thông qua việc tranh thủ các nguồn lực từ
nước ngồi, tạo lập mối quan hệ lợi ích với các nước khác, nâng cao vị thế của Việt
Nam trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phịng an ninh,...
Để xây dựng thành cơng nền kinh tế độc lập tự chủ, Việt Nam cần đề ra các
biện pháp và các chiến lược vừa giữ vững độc lập tự chủ, vừa củng cố sức mạnh bên
trong, vừa phát triển ngoại giao. Một mặt, thúc đẩy hợp tác, mở rộng và lấy hợp tác
là chủ đạo để phát huy mặt tác động tích cực, sự thống nhất giữa hội nhập quốc tế
với giữ vững độc lập, tự chủ, bản sắc dân tộc. Mặt khác, kiên quyết, kiên trì đấu
tranh nhằm hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực, giải quyết mâu thuẫn và
thu hẹp bất đồng. Trong tiến trình hội nhập quốc tế, Việt Nam vừa tìm kiếm cơ hội,
tham khảo kinh nghiệm các nước để xây dựng những nhân tố mới phù hợp với đất
nước, vừa bảo vệ, phát huy các thành quả, giá trị đã đạt được và đấu tranh loại bỏ
các vật cản trên bước đường phát triển. Chúng ta chủ động, tích cực hội nhập quốc
tế nhưng khơng để lợi ích quốc gia, dân tộc, độc lập, chủ quyền bị xâm hại; đổi mới
chứ khơng đổi hướng, đổi đường.
Bên cạnh đó, Việt Nam cần nỗ lực đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Đây là nhiệm vụ được nhắc đến thường xuyên trong các Văn kiện Đại hội
Đảng qua từng nhiệm kì. Để thực hiện việc này cần chú trọng một số khía cạnh như:
mở rộng và đa dạng hóa thị trường, tránh phụ thuộc vào một hay một vài thị trường,
nguồn vốn chủ yếu, nhằm hướng đến phát triển nền kinh tế độc lập, bền vững. Bên
cạnh việc đa dạng hóa thị trường, các doanh nghiệp cịn có thể đầu tư, chú trọng vào
thị trường nội địa. Đi liền với đa dạng hóa thị trường cũng cần chú trọng đổi mới,
nâng cao công nghệ. Bên cạnh việc tiếp thu các tri thức cơng nghệ từ nước ngồi,
Nhà nước cũng nên quan tâm đến các dự án nghiên cứu khoa học kĩ thuật trong nước,
tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án này phát triển; đầu tư nâng cao trình độ nguồn
nhân lực bằng những cuộc đào tạo,... Đổi mới, nâng cao công nghệ để dần dần nước
ta sẽ tự chủ về cơng nghệ, khơng cịn phụ thuộc quá nhiều vào công nghệ của các
nước khác như hiện nay nữa.
12
Nhà nước cần đề ra các chiến lược đẩy mạnh hơn nữa quan hệ ngoại giao, cải
thiện mối quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chủ động
trong việc lực chọn đối tác, hợp tác trên cơ sở đơi bên cùng có lợi. Mở rộng quan hệ
hợp tác phải quán triệt và thực hiện ngun tắc bình đẳng, tơn trọng độc lập, chủ
quyền và không can thiệp vào các vấn đề nội bộ của nhau, giải quyết các tranh chấp
bằng thương lượng hịa bình. Đây cũng là một cách để mở rộng thị trường, bên cạnh
đó cịn nâng cao sự hợp tác về các mặt khác như an ninh, quốc phịng, chính trị để
tạo sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên
thế giới. Điều này còn giúp cho nước ta dần dần theo kịp được các nước phát triển,
tránh làm cho nước ta trở nên tụt hậu và bị bỏ lại phía sau.
LỜI KẾT
Là một xu thế tất yếu, hội nhập quốc tế có sức cuốn hút mạnh mẽ, hàm chứa
cả cơ hội lẫn thách thức đối với các quốc gia trên con đường phát triển, trong đó có
Việt Nam. Với quan điểm phát huy nội lực, tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi
để phát triển đất nước nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt
Nam nhất quán đường lối chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đi đôi với giữ vững
độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc. Muốn làm được điều đó, nước ta cần nhận thức
rõ vai trò cũng như những ưu, nhược điểm mà quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
mang lại, từ đó liên tục thay đổi, đổi mới các chiến lược hội nhập sao cho phù hợp
với từng thời kì, để có thể nâng cao, cải thiện nền kinh tế trong nước, nâng cao đời
sống của nhân dân, trở thành nước có nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta vươn
tầm quốc tế, sánh vai với các nước có nền kinh tế phát triển.
13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011 – 2020, 09/12/2019
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lê nin (Dành
cho bậc đại học – Chuyên ngành lý luận chính trị)
3. Bùi Thanh Sơn - Báo Nhân dân: Đường lối đối ngoại Đại hội XIII với khát
vọng và phát triển của đất nước, 03/04/2021
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
– Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia sự thật
5. Lưu Ngọc Khải, Đặng Công Thành - Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam:
Đường lối đối ngoại của Đảng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII – Một
tầm cao mới, 16/12/2019
6. Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013, của Bộ Chính trị, Về hội nhập
quốc tế
7. Nguyễn Thị Thúy Ngọc - Tạp chí tài chính: Hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, 29/09/2019
8. Tổng cục thống kê: Xuất nhập khẩu năm 2020 – Nỗ lực và thành cơng,
05/01/2021
9. Trần Đức Tiến - Tạp chí cộng sản: Hội nhập quốc tế có làm mất độc lập, tự
chủ và bản sắc dân tộc?, 18/11/2019
10.Văn kiện Đảng tồn tập, Tập 51, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007
11.Văn kiện Đảng tồn tập, Tập 55, NXB. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội,
2015
12.Văn kiện Đảng tồn tập, Tập 60, NXB. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội,
2016
13.Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 65, NXB. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội,
2018
14.Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam: Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam trong bối cảnh cục diện kinh tế thế giới mới, 10/07/2020
15.Wikipedia: Quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam
14
15