Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN Đề tài Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.71 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LUẬT

BÀI TẬP LỚN
MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
Đề tài: Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay

Họ và tên: Nguyễn Quỳnh Trang
Mã sinh viên: 11208083
Lớp: KTCTMLN25

Hanoi, 6 – 2021

1


MỤC LỤC
Lời mở đầu
I.
II.

Quan điểm về việc hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam qua các thời kì
Vai trò của việc hội nhập kinh tế quốc tế tại Việt Nam hiện nay

1. Khái niệm và tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế
2. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế
III.

Những thành tựu và hạn chế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở
Việt Nam hiện nay


1. Những thành tựu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mà nước ta đạt
được
2. Những hạn chế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mà nước ta đạt
được.
IV.

Những giải pháp nhất định cho thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế hiện nay của nước ta

Kết luận
Tài liệu tham khảo

2


Lời mở đầu
Trong nền kinh tế hiện nay của thế giới đã xảy ra rất nhiều thay đổi và biến
động đối với nền tảng của kinh tế thế giới. Hiện nay một số quốc gia vốn đi đầu
trong việc ủng hộ tự do hóa thương mại nay lại trở thành yếu tố ảnh hưởng đến sự
ổn định của hệ thống thương mại đa phương nói riêng và cả q trình hội nhập
kinh tế quốc tế trên tồn thế giới nói chung. Điểm đáng chú ý là xung đột thương
mại giữa Mỹ với một số đối tác, đặc biệt là với Trung Quốc vẫn tiếp tục có những
diễn biến khó lường. Những sự kiện diến biến lớn trên đang có sự ảnh hưởng đến
nền kinh tế, chính trị thế giới và động thái chính sách các nước trong đó có Việt
Nam. Nhà nước Việt Nam ta đang bước vào giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế sâu
rộng và toàn diện, đặt ra những yêu cầu hoàn toàn mới với các cơ quan, địa
phương và doanh nghiệp. Do đó vấn đề cấp thiết về nhận thức đầy đủ những điểm
mới của hội nhập kinh tế quốc tế, xác định giải pháp sáng kiến để tham gia, đóng
góp với tiến trình này nhằm nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế và hạn chế
thách thức, thiết thực phục vụ đổi mới đồng bộ và toàn diện, phát triển mạnh mẽ

bền vững. Từ những vấn đề nếu trên tiếp theo đây là bản phân tích những thành
tựu, hạn chế và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong quá trình
cục diện kinh tế thế giới đổi mới.

3


I.

Quan điểm về việc hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam qua các thời


Qua các giai đoạn lịch sử hình thành phát triển có thể thấy được tư tưởng mở
cửa giao thương của nước ta đã có từ khá lâu. Các nhà canh tân của Việt Nam như
Lê Quý Đôn, Nguyễn Trường Tộ… cách đây nhiều thế kỷ đã nhìn thấy tầm quan
trọng của việc mở cửa nền kinh tế, giao lưu bn bán với nước ngồi.
Sau Cách mạng tháng 8 (1945), tư tưởng mở cửa về kinh tế, hội nhập với kinh
tế thế giới đã được thể hiện trong lời kêu gọi Liên hợp quốc (tháng 12 năm 1946)
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó có những điểm mà trong bối cảnh hiện nay
vẫn rất đúng và thích hợp:
- Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản,
nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình.
- Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông
cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế.
- Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới
sự lãnh đạo của Liên hợp quốc.
Tuy nhiên do hồn cảnh lịch sử q trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam có những giai đọa bị gián đoạn. Nhưng trong tình hình kinh tế như hiện nay
việc thực hiện hội nhập kinh tế đối với Việt Nam rất quan trọng và hiện tại nhà
nước ta đang thực hiện chỉ đạo rất tốt về quá trình hội nhập.

Trong bối cảnh hiện nay, khả năng chiến tranh và xâm lược về quân sự, lãnh
thổ là ít xảy ra, cả thế giới đang trong xu thế toàn cầu hố và khơng một quốc gia
nào có thể đứng ngồi. Do đó, độc lập tự chủ trong bối cảnh hiện nay tập trung cao
vào độc lập tự chủ về kinh tế. Độc lập tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập
kinh tế quốc tế có hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả tạo điều kiện cần
4


thiết để xây dựng kinh tế độc lập tự chủ.
Từ việc xác định khái niệm nền kinh tế độc lập tự chủ như trên, từ góc độ kinh
tế có một số vấn đề liên hệ chặt chẽ như sau:
Thứ nhất, nền kinh tế độc lập tự chủ hiện nay không tách rời khỏi tổng thể
nền kinh tế khu vực và thế giới. Trong bối cảnh q trình tồn cầu hố và hội nhập
kinh tế quốc tế ngày nay, các nền kinh tế trên thế giới ngày càng tăng cường sự
tương hỗ và phụ thuộc lẫn nhau, không một quốc gia nào có thể tách rời khỏi q
trình này và nền kinh tế độc lập tự chủ được hiểu theo nghĩa là độc lập tự chủ trong
mối quan hệ gắn bó tổng thể với nền kinh tế khu vực và thế giới. Quá trình tăng
cường mối liên hệ và tác động qua lại trong quan hệ kinh tế giữa các nước thể hiện
cụ thể nhất thơng qua việc hình thành ngày càng gia tăng các khu vực và hiệp định
thương mại tự do.
Xu thế hợp tác, liên kết kinh tế ở khu vực Châu Á và Châu Á - Thái Bình
Dương được đẩy mạnh bằng các hiệp định tự do hoá thương mại song phương, hợp
tác kinh tế tiểu khu vực và nhóm nước.
Thứ hai, xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh tồn cầu hố
và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đòi hỏi phải tập trung để nhanh chóng điều
chỉnh cơ cấu kinh tế, sản xuất và đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế nói chung cũng như của doanh nghiệp và hàng hố, dịch vụ nói riêng.
Nước ta xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, gần 3/4 dân số và lao
động sống bằng nông nghiệp, cơng nghiệp hóa và hiện đại hố nơng nghiệp nông
thôn chưa được chú trọng đúng mức. Trong lĩnh vực sản xuất cơng nghiệp, trình độ

trang thiết bị lạc hậu từ 3 đến 4 thế hệ so với các nước khác trong khu vực. Trình
độ kỹ thuật cơng nghệ thấp. Cơ sở hạ tầng và các ngành dịch vụ cơ bản phục vụ
sản xuất kinh doanh như kho bãi, thông tin liên lạc, điện, nước, vận tải... đều kém
phát triển và có chi phí cao hơn các nước khác trong khu vực. Những yếu tố này

5


làm giảm nghiêm trọng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong bối cảnh hội
nhập khu vực và thế giới.
II.

Khái niệm và vai trò của việc hội nhập kinh tế quốc tế tại Việt Nam hiện
nay

1. Khái niệm và tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế
• Khái niệm của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập quốc tế là giai đoạn phát triển cao của hợp tác quốc tế, là quá trình áp
dụng và tham gia xây dựng các quy tắc và luật lệ chung của cộng đồng quốc tế,
phù hợp với lợi ích quốc gia, dân tộc của Việt Nam
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn kết nền kinh tế của các quốc gia vào
các tổ chức kinh tế khu vực và tồn cầu, trong đó các nước thành viên chịu sự ràng
buộc theo những quy định chung của cả khối.
• Tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế
Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, sự phát triển vượt bậc của các lực lượng
sản xuất cùng với sự ra đời của các nền kinh tế thị trường đã thúc đẩy mạnh mẽ
tiến trình liên kết, hợp tác giữa các quốc gia. Các quốc gia có nền kinh tế phát triển
mạnh cần mở rộng thị trường giao thương hàng hóa, đầu tư và chuyển giao cơng
nghệ ra nước ngồi, đồng thời tận dụng và khai thác được các nguồn lực từ bên
ngoài (tài nguyên, lao động và thị trường); từ đó gia tăng các ảnh hưởng kinh tế và

chính trị của mình trên trường quốc tế. Song song đó, các quốc gia có nền kinh tế
kém phát triển hơn cũng cần thúc đẩy tiến trình quan hệ hợp tác kinh tế với các nền
kinh tế lớn nhằm tranh thủ nguồn vốn, công nghệ và cơ hội xuất khẩu hàng hóa,
từng bước thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước.
Từ lợi ích mang tính hai chiều này, q trình hội nhập kinh tế quốc tế đã diễn ra ở
nhiều cấp độ và ngày càng sâu sắc, toàn diện hơn với sự tham gia của hầu hết các
6


quốc gia trên thế giới. Rõ ràng, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một xu thế
lớn và một đặc trưng quan trọng của thế giới hiện nay. Xu thế này chi phối toàn bộ
các mối quan hệ quốc tế và làm thay đổi to lớn cấu trúc của hệ thống thế giới cũng
như bản thân các chủ thể và mối quan hệ giữa chúng.
2. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế
Việc hội nhập kinh tế quốc tế đối với nước Việt Nam đóng vai trị quan trọng
trong việc phát triển kinh tế và xây dựng đất nước, vậy những vài trò của hội nhập
kinh tế đối với Việt Nam hiện nay được thể hiện ở chỗ:
-Hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận
lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc
phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc,
thúc đẩy phát triển văn hóa, xã hội; hội nhập trong các lĩnh vực phải được thực
hiện đồng bộ trong một chiến lược hội nhập quốc tế tổng thể với lộ trình, bước đi
phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực của đất nước.
-Hội nhập kinh tế quốc tế cần được đặt trong mối quan hệ hài hòa với hội nhập
trong các lĩnh vực khác nhưng hội nhập kinh tế quốc tế phải là trọng tâm, là nội
dung chính, quan trọng nhất của tiến trình hội nhập. Hội nhập kinh tế quốc tế cần
đi trước một bước để tạo cơ sở, thúc đẩy hội nhập và hợp tác trong các lĩnh vực
khác.
-Xét theo thực tế khách quan, các hoạt động hội nhập chỉ có thể tiến hành dựa
trên một nền tảng kinh tế tương đối vững chắc, khi đó mới có thể đảm bảo cho

chúng ta tiến hành hội nhập mà vẫn có thể giữ vững độc lập tự chủ, khơng bị phụ
thuộc vào bên ngồi. Nói cách khác, chỉ khi chúng ta đã hội nhập kinh tế quốc tế
đến một mức độ nhất định mới có điều kiện để hội nhập trên các lĩnh vực khác, và
7


hội nhập trên các lĩnh vực khác cũng không nằm ngoài mục tiêu phục vụ cho phát
triển kinh tế.
-Tham gia nền kinh tế quốc tế, chúng ta có điều kiện thúc đẩy mạnh mẽ sự phát
triển kinh tế, song sự phát triển của chúng ta tiến bộ hơn là đi liền với tiến bộ và
công bằng xã hội bảo vệ mội trường, mơi sinh.
-Tham gia tồn cầu hố, giao lưu về văn hố, chuyển mình vào dịng chảy của
tư duy và thực tiễn của nhân loại, những người làm công tác lý luận, giáo dục lý
luận ở Việt Nam có dịp thâu nhận những tinh hoa của thế giới, có dịp mở rộng đối
sánh , điều này rất quan trọng và cần thiết.
III.

Những thành tựu và hạn chế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở
Việt Nam hiện nay

1. Những thành tựu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mà nước ta đạt
được
Trên cơ sở đường lối hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước, thời
gian qua, Việt Nam đã tiến hành hội nhập dưới nhiều góc độ:
Về hội nhập đa phương, Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các tổ
chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng phát triển Á Châu, Quỹ tiền tệ thế
giới, Ngân hàng thế giới. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
được đẩy mạnh và đưa lên một tầm cao hơn bằng việc tham gia các tổ chức
kinh tế, thương mại khu vực và thế giới, ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế đa
phương. Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có một

bước đi quan trọng khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO) vào ngày 11 tháng 01 năm 2007 sau 11 năm đàm
phán gia nhập Tổ chức này. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu một mốc mới
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế (HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ) của
8


nước ta, mở ra một giai đoạn mới: nền kinh tế nước ta hội nhập sâu và toàn diện
hơn vào nền kinh tế thế giới.
Về hội nhập khu vực, tháng 7/1995 Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các quốc
gia Đơng Nam Á (ASEAN) và chính thức tham gia Khu vực thương mại tự do
ASEAN (AFTA) từ 1/1/1996. Đây được coi là một bước đột phá về hành động
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Tiếp đó, năm 1996 Việt
Nam tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) và đến năm 1998,
Việt Nam được kết nạp vào Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương (APEC).
Về hội nhập song phương, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn
160 nước và 70 vùng lãnh thổ, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng
hoá tới trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ , ký kết trên 90 Hiệp
định thương mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu
tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hoá
song phương với các nước và các tổ chức quốc tế.
Việt Nam đã thiết lập quan hệ tốt với tất cả các nước lớn, trong đó có các
nước trong nhóm G8; nâng quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc trở
thành đối tác chiến lược toàn diện, gia tăng nội hàm của quan hệ đối tác chiến
lược với Nga, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn
Quốc, Anh, Tây Ban Nha. Số lượng các cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài
cũng tăng lên (91 cơ quan) với 65 đại sứ quán, 20 tổng lãnh sự quán, 4 phái
đoàn thường trực bên cạnh các tổ chức quốc tế, 1 văn phịng kinh tế văn hóa.
Đặc biệt, trong những năm gần đây, Việt Nam đã tích cực tham gia đàm

phán, ký kết các Hiệp định thương mại tự do (FTA). Trong bối cảnh hệ thống
thương mại đa biên đang gặp phải những khó khăn nhất định, sự phát triển hợp
tác kinh tế song phương và khu vực, thể hiện qua việc hình thành các FTA là
một sự bổ trợ quan trọng cho mục tiêu tự do hoá thương mại và đầu tư đa
9


phương trên phạm vi tồn cầu hiện nay. Việc hình thành các FTA với mức độ
tự do hoá sâu rộng đã và đang đem lại những cơ hội và cả thách thức không nhỏ
đối với những nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Chính vì vậy, Việt
Nam khơng thể đứng ngoài cuộc mà cần phải chủ động nắm bắt xu thế FTA,
tham gia có lựa chọn để nắm bắt cơ hội tiếp cận thị trường, mở rộng quan hệ
kinh tế thương mại với các đối tác quan trọng.
Mặc dù, tình hình kinh tế thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp, khó
lường, nhưng Việt Nam vẫn kiên trì chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế toàn
diện với trọng tâm là hội nhập kinh tế quốc tế, coi hội nhập kinh tế quốc tế và tự
do hóa thương mại là xu thế tất yếu khách quan. Một số thành tựu của tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế toàn diện của Việt Nam gồm:
Một là, hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần gia tăng sức mạnh tổng hợp
quốc gia. Nền kinh tế Việt Nam từng bước được cơ cấu lại gắn với đổi mới mơ
hình tăng trưởng, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế được tăng cường, nguồn nhân
lực để cung ứng cho phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) ngày càng phát triển.
Môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện, minh bạch, bình đẳng hơn, năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên.
Việt Nam được nhiều tổ chức quốc tế đánh giá là một trong những nền kinh
tế tăng trưởng nhanh nhất trong khu vực cũng như trên thế giới và có triển vọng
tốt nhờ kinh tế vĩ mơ tiếp tục được duy trì ổn định, các cân đối lớn được bảo
đảm, lạm phát được kiểm soát, tạo môi trường, động lực thúc đẩy kinh tế phát
triển. Quy mô kinh tế Việt Nam năm 2019 dự báo đạt 5,5 triệu tỷ đồng, tương
đương 240,5 tỷ USD, gấp trên 1,3 lần so với năm 2015, hiện đứng thứ 44 trên

thế giới theo GDP danh nghĩa và thứ 34 theo sức mua tương đương.

10


Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế tác động mạnh đến tăng trưởng, góp phần
thúc đẩy phát triển KT-XH. GDP bình quân đầu người tăng từ 2.109 USD (năm
2015) lên 2.587 USD (năm 2018), khoảng 7.650 USD theo sức mua tương
đương. Đặc biệt, sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt
Nam đã duy trì tốc độ tăng trưởng cao, trong năm 2007, tăng trưởng GDP đạt
8,46% (mức cao nhất trong vịng 11 năm trước đó). Tuy nhiên, 4 năm sau đó,
do ảnh hưởng từ những biến động của kinh tế thế giới, nên tăng trưởng GDP
trong giai đoạn 2011 - 2013 giảm xuống còn 5,6%. Đáng chú ý những năm tiếp
theo, kinh tế khởi sắc hơn. Cụ thể, năm 2014 đạt 5,98%, năm 2015 đạt 6,68%;
2016 đạt 6,1%, năm 2017 GDP đạt 6,81%, năm 2018 đạt 7%, quy mô nền kinh
tế đạt khoảng 240 tỷ USD, bình quân đầu người đạt 2.540 USD, mức tăng
trưởng cao nhất trong vòng 10 năm qua (2008-2018).
Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế của
Việt Nam phát triển mạnh giúp gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu (XNK), mở
rộng thị trường đa dạng các loại hàng hóa tham gia XNK. Việt Nam đã trở
thành một bộ phận của nền kinh tế toàn cầu với tổng kim ngạch xuất khẩu, nhập
khẩu đạt gần 480 tỷ USD, gấp gần 2 lần GDP. Từ chỗ thường xuyên nhập siêu,
Việt Nam đã chuyển sang cân bằng XNK, thậm chí là xuất siêu. Việt Nam hiện
đã có quan hệ thương mại với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Là thành viên
của WTO, Việt Nam đã được 71 đối tác công nhận là nền kinh tế thị trường,
nhiều sản phẩm dần có chỗ đứng và khả năng cạnh tranh trên nhiều thị trường
có yêu cầu cao về chất lượng như Liên minh châu Âu, Nhật Bản, Mỹ...
Bốn là, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hơn góp phần đưa Việt Nam trở
thành một “mắt xích” quan trọng trong mạng lưới các liên kết kinh tế với các
nền kinh tế hàng đầu thế giới (gồm 12 FTA đã ký và đang thực thi; 2 Hiệp định

đã ký kết, 4 FTA đang đàm phán bảo đảm cho kết nối thương mại tư do, ưu đãi
11


cao với 60 nền kinh tế, chiếm 90% kim ngạch thương mại của Việt Nam); đồng
thời, tạo động lực mới và cả “sức ép” mới để thúc đẩy mạnh mẽ hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với đổi mới mơ hình
tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Môi trường pháp lý, chính sách kinh tế, cơ
chế quản lý trong nước được cải cách theo hướng ngày càng phù hợp với các
cam kết tiêu chuẩn cao trong các FTA và ngày càng minh bạch hơn, tạo lập môi
trường đầu tư, kinh doanh trong nước ngày càng thơng thống hơn, tiệm cận với
các chuẩn mực quốc tế cao của khu vực và thế giới.
Năm là, thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam đạt được nhiều kết quả ấn
tượng. Hội nghị Liên Hợp quốc về thương mại và phát triển đánh giá, Việt Nam
nằm trong 12 quốc gia thành công nhất về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI). Hiện nay, có gần 26.000 doanh nghiệp (DN) FDI đang hoạt động ở
Việt Nam, với số vốn cam kết đầu tư trên 330 tỷ USD đến từ gần 130 quốc gia
và đối tác. Vốn FDI vào Việt Nam chiếm 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Các
đối tác đã cam kết viện trợ hơn 3 tỷ USD cho Việt Nam trong giai đoạn 20182020. Việt Nam từng bước trở thành một trong những công xưởng của thế giới
về cung ứng hàng điện tử, dệt may, da giầy, điện thoại di động...
2. Những hạn chế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mà nước ta đạt
được.
Cũng cần phải thấy rằng, khơng phải khi hội nhập Việt Nam mới nói đến
những thách thức và lo đến những tác động ảnh hưởng. Và cũng không phải
riêng Việt Nam mới lo chuyện tác động hay ảnh hưởng. Bên cạnh những kết
quả đạt được, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam cịn tồn tại một
số hạn chế, khó khăn. Cụ thể như:

12



(1) Hội nhập kinh tế quốc tế nhìn chung thể hiện chủ yếu trong chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước mà chưa biến thành
yếu tố nội sinh trong hành động của các cấp, các ngành và doanh nghiệp.
Các chủ trương, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế chậm được lồng ghép,
nhìn nhận đầy đủ trong chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chưa
gắn kết chặt chẽ với công tác quản lý điều hành phát triển kinh tế - xã hội, và
thiếu nguồn lực để thực hiện.Tính gắn kết giữa các ngành, lĩnh vực chưa cao,
nhiều vấn đề mang tính liên ngành chậm được xử lý hoặc xử lý cục bộ, ngắn
hạn. Ở cấp độ vi mô, chủ trương, chính sách hội nhập chưa được cụ thể hóa dẫn
đến tình trạng thụ động,các doanh nghiệp chưa nhận thức hết tính cấp thiết và
lợi ích của hội nhập đối với hoạt động kinh doanh của mình.
Cơ chế giám sát, theo dõi việc thực hiện các kế hoạch, đề án, chương trình
về hội nhập kinh tế quốc tế chưa thực sự được chú trọng, gây khó khăn trong
việc tổng hợp đầy đủ, kịp thời cũng như đánh giá kết quả của việc triển khai
một cách xác đáng và toàn diện.
(2) Quá trình đổi mới ở trong nước, nhất là đổi mới, hoàn thiện thể chế,
trước hết là hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa được thực hiện một
cách đồng bộ, chưa gắn kết chặt chẽ với yêu cầu hội nhập và quá trình nâng
cao năng lực cạnh tranh. Mặt khác tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế bộc lộ
nhiều bất cập so với yêu cầu bảo đảm quốc phịng - an ninh, bảo vệ an ninh
chính trị, trật tự, an tồn xã hội, mơi trường sinh thái, giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc.
Việc cải cách thể chế kinh tế trong nước vẫn chưa đáp ứng và theo kịp các
yêu cầu của việc thực thi cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Việc đẩy mạnh quá
trình đàm phán, ký kết và thực hiện các cam kết quốc tế chưa tạo sức ép đổi
13


mới trong nước, nhất là về thể chế kinh tế, cải cách hành chính. Tuy đã có nhiều

chính sách, pháp luật để hội nhập và thực hiện các cam kết trong khuôn khổ
WTO và tham gia các FTA, song vẫn thiếu các chính sách cụ thể và hiệu quả để
thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ lớn về phát huy nội lực, phát triển doanh
nghiệp trong nước, nông nghiệp nông thôn, công nghiệp hỗ trợ, phát triển
nguồn nhân lực, khoa học công nghệ... nhằm phát huy hiệu quả của hội
nhập,thúc đẩy q trình tái cơ cấu và đổi mới mơ hình tăng trưởng và thực hiện
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Việc điều chỉnh chính sách thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế
trong nhiều trường hợp còn thiếu chủ động, chưa đồng bộ. Việc hoàn thiện
khung pháp lý chưa chủ động đi trước một bước để người dân và doanh nghiệp
tận dụng các cơ hội mới cũng như có các giải pháp hỗ trợ cụ thể toàn diện, tận
dụng các điều khoản WTO và cam kết hội nhập kinh tế quốc tế khác để tăng
khả năng cạnh tranh, giảm thiểu rủi ro và tác động tiêu cực.
(3) Việc phối hợp hội nhập kinh tế quốc tế với hội nhập trong các lĩnh vực
khác chưa chặt chẽ để phát huy tổng lực và hạn chế rủi ro. Chưa tạo được sự
đan xen chặt chẽ lợi ích chiến lược, lâu dài với các đối tác, nhất là các đối tác
quan trọng. Việc ứng phó với những biến động và xử lý những tác động từ mơi
trường khu vực và quốc tế cịn bị động, lúng túng và chưa đồng bộ.
Khả năng nhận định, đánh giá và dự báo xu thế hội nhập kinh tế quốc tế
chưa cao. Các vấn đề về xây dựng cơ chế nhận biết, cảnh báo sớm tác động
trong các lĩnh vực hội nhập kinh tế trong bối cảnh Việt Nam đã hội nhập sâu
với nền kinh tế thế giới nhìn chung cịn yếu. Cơng tác tham mưu, tư vấn chính
sách vẫn cịn hạn chế trong việc phân tích, định hướng và dự báo những vấn đề
hội nhập kinh tế quốc tế phát sinh.
14


(4) Nền kinh tế vẫn mang tính gia cơng,chưa tạo ra các thương hiệu Việt
Nam có uy tín trên thị trường thế giới. Xuất khẩu tăng nhanh nhưng chưa thực
sự vững chắc, chất lượng tăng trưởng và hiệu quả xuất khẩu cịn thấp, cơ cấu

hàng hóa xuất khẩu vẫn cịn phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài
Xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua phát triển chưa bền vững.
Giá trị gia tăng của hàng hóa xuất khẩu cịn thấp do chủ yếu dựa vào khai thác
các yếu tố về điều kiện tự nhiên và nguồn lao động rẻ; hàng hóa thơ và sơ chế,
bao gồm cả dầu thô, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Xuất
khẩu của các mặt hàng dựa vào tài nguyên chiếm dưới 10% tổng kim ngạch
xuất khẩu, và tỷ lệ này gần như không thay đổi. Giá trị gia tăng của hàng hóa
xuất khẩu thấp. Hàng hóa xuất khẩu ngồi khống sản, nhiên liệu thơ thì hàng
hóa nông nghiệp 90% là sản phẩm thô và sơ chế. Hàng công nghiệp chế biến
chủ yếu là gia công, lắp ráp dựa trên việc nhập khẩu nguyên liệu, phụ tùng, linh
kiện, chi tiết máy, bán thành phẩm, điều đó phản ánh một nền kinh tế trình độ
thấp, chủ yếu khai thác tài nguyên và lao động rẻ.
Thị trường xuất khẩu hàng hóa Việt Nam được mở rộng, tuy nhiên kim
ngạch xuất khẩu lớn,những mặt hàng xuất khẩu chủ lực vẫn còn phụ thuộc vào
một vài thị trường trọng điểm nên tiềm ẩn rủi ro lớn khi các thị trường này có
biến động. (Cao su và rau quả phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, thủy sản
phụ thuộc vào thị trường Hoa Kỳ và Nhật Bản, gạo phụ thuộc thị trường Đông
Nam Á, dệt may chủ yếu xuất sang thị trường Hoa Kỳ, da giày phụ thuộc chủ
yếu vào thị trường EU. Xuất khẩu cà phê nhân phụ thuộc vào vài tập đồn đa
quốc gia có văn phịng đại diện hoặc chi nhánh tại Việt Nam). Chính sách đẩy
mạnh xuất khẩu mới chỉ chú trọng đến bề rộng, chưa chú trọng đến nâng cao
khả năng cạnh tranh và thương hiệu sản phẩm, những ngành mang lại giá trị gia
15


tăng lớn. Vẫn còn hạn chế trong việc đa dạng hóa các sản phẩm xuất khẩu và
chuyển dịch lên trên chuỗi giá trị toàn cầu, chưa thực sự quan tâm đến bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng và quyền sở hữu trí tuệ;cịn nhiều lúng túng và bị
động trong ứng phó với các rào cản thương mại mới của nước ngồi (tiêu chuẩn

vệ sinh an tồn thực phẩm, mơi trường, dư lượng kháng sinh, nhất là các vụ
kiện chống bán phá giá).
(5) Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và các sản phẩm chủ
lực còn thấp và chịu sức ép cạnh tranh với các doanh nghiệp và sản phẩm nước
ngoài ngay trên thị trường nội địa
Tác động lan tỏa về công nghệ, kỹ năng của khu vực FDI ở Việt Nam còn
yếu. Một số lĩnh vực sản xuất được bảo hộ quá lâu, hạn chế cạnh tranh và cả sự
tham gia trong mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Các doanh nghiệp tư
nhân vừa và nhỏ phát triển chưa mạnh, công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, vì
vậy, khả năng tiếp nhận hiệu ứng lan tỏa tích cực từ FDI cịn rất hạn chế.
IV.

Những giải pháp nhất định cho thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay của nước ta

Tiếp nhận thuận lợi, hạn chế thách thức là một nguyên lý chung trong ứng xử
những vấn đề của ta trong quan hệ quốc tế. Để có thể đạt được những mong muốn
thành quả nhất định nhà nước ta phải đưa ra một số những giải pháp cụ thể. Trên
đây là một số giải pháp cụ thể để thục đẩy phát triển quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế:
Thứ nhất, hội nhập quốc tế là sự nghiệp của tồn dân và chỉ có thể thành cơng
khi có sự tham gia hưởng ứng của các DN và người dân. Do vậy, cả hệ thống chính
trị, các cấp, các ngành cần quyết liệt vào cuộc, để tiếp tục đẩy mạnh HNKTQT trên
tinh thần Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế; Chỉ thị
16


số 25-CT/TW về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030 và các
nghị quyết, chương trình hành động, kế hoạch cơng tác hội nhập của Chính phủ.
Thứ hai, cùng với đẩy mạnh các hoạt động thương mại, đầu tư, Việt Nam cần

nâng cao năng lực phòng chống, giải quyết, xử lý các tranh chấp, khiếu nại, khiếu
kiện về thương mại, đầu tư quốc tế, trong đó chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, phát
triển đội ngũ luật sư, cán bộ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của người dân và DN.
Thứ ba, nhận diện các động thái, xu hướng phát triển lớn của thế giới, từ đó có
điều chỉnh đúng đắn, kịp thời trong chiến lược phát triển, tận dụng triệt để những
cơ hội mới mở ra. Tại phiên họp thứ nhất năm 2019 (tháng 6/2019), Ban Chỉ đạo
liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế đã đề nghị: Các bộ, ngành, địa phương cần
coi trọng, tăng cường nghiên cứu, đánh giá, dự báo các vấn đề mới của HNKTQT
tác động tới Việt Nam…
Thứ tư, cần nắm bắt cơ hội và nhận diện rõ những thách thức của các FTA để
có hội nhập phù hợp song khơng để bị lệ thuộc và bị cuốn theo các trào lưu ngắn
hạn, các xu hướng loại trừ và hình thành những liên kết khép kín trong làn sóng
FTA.
Thứ năm, thiết lập một nền kinh tế thị trường đầy đủ, minh bạch và hiện đại vừa
là mục tiêu vừa là yêu cầu của hội nhập. Để có được điều này cần có những chính
sách củng cố quyền sở hữu nhằm thúc đẩy đầu tư dài hạn; thực hiện hiệu quả cải
cách hành chính cơng nhằm tăng tính minh bạch, giảm quan liêu và hạ chi phí giao
dịch vốn có ảnh hưởng khơng nhỏ đến các DN nhỏ và vừa.
Thứ sáu, tạo điều kiện thuận lợi, phát huy hơn nữa vai trò của địa phương, của
DN trong công tác HNKTQT. Dư địa phát triển lớn nhất nằm ngay trong sự nỗ lực
không ngừng, sức sáng tạo của mỗi DN, mỗi người dân. Địa phương, DN là chủ
17


thể trung tâm của hội nhập, phải được thụ hưởng thành quả của hội nhập. DN,
người dân phải chủ động hơn, thực thi đầy đủ, nghiêm túc các cơ chế, chính sách,
quy định pháp luật về hội nhập, khơng để tình trạng vi phạm quy định pháp luật
tiếp diễn, ảnh hưởng đến uy tín và hình ảnh đất nước, con người Việt Nam.


Kết luận
Trải qua q trình đấu tranh khó khăn và gian khổ. Khi đất nước thống nhất,
Đảng nhà nước quyết định đưa nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn
tư bản chủ nghĩa. Trong thời kỳ quá độ này Đảng ta chủ trương xây dựng nền kinh
tế nhiều thành phần trong đó có thành phần kinh tế tư nhân mà nhiều vấn đề của nó
cịn có nhiều ý kiến. Vì vậy việc làm rõ bản chất đặc trưng của khu vực kinh tế tư
nhân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong lý luận và thực tiễn. Sự phát triển kinh tế
tư nhân trong giai đoạn hiện nay tuy cịn gặp nhiều khó khăn nhưng đã đạt được
những thành tựu đáng kể. Bên cạnh đó nó cũng cịn tồn tại nhiều hạn chế cần được
khắc phục. Trong thời gian tới chúng ta cần tiếp tục đổi mới hồn thiện các chính
sách kinh tế xã hội hành lang pháp lý khắc phục những hạn chế đó, đặt kinh tế tư
nhân vào đúng vị trí của nó.
Việt Nam đang hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, do đó những biến động trong
cục diện kinh tế và chính trị thế giới hiện nay sẽ có tác dộng lớn và ngay lập tức
đối với tiến trình hội nhập của đất nước. Để nâng cao hơn nữa hiệu quạ hội nhập
kinh tế quốc tế, vấn dề đặt ra là Việt Nam cần thực hiện đồng bộ các giải pháp trên,
đặc biệt đẩy mạnh đổi mới mơ hình tăng trưởng, nâng cao năng suốt năng lực cạnh
tranh của nên kinh tế. Đây chính là tiền đề và là giải pháp quyết định để nâng cao
nội lực nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế.

18


Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác – Lênin
2. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh cục diện kinh tế mới
– Viện Hàn lâm Khoa học - Xã hội Việt Nam
3. Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế;
4. Chỉ thị số 25-CT/TW về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến
năm 2030;

5. Hoàng Xuân Hòa (2019), Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế sau 5 năm nhìn
lại, Văn phịng Chính phủ.
6. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay- Tạp chí tài
chính online
7. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong những năm đổi mới – Trang
thông tin điện tử Hội đồng lý luận Trung ương

19



×