Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận chung và liên hệ với thực tiễn đổi mới ở Việt Nam hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.06 KB, 26 trang )

Trường Đại Học …
Khoa Lý luận Chính Trị
----------

BÀI TẬP LỚN
TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
Đề 4:
Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận chung và liên hệ với thực tiễn
đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
Họ và tên: Trần Thị Hồng Nhung
Mã Sv:
Lớp:
Giảng viên:

Hà Nội – 2020


MỤC LỤC

Lời nói đầu…………………………………………………………..................... 2
Nội dung…………………………………………...……………...………..…….. 3
I.. LÍ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC...... 3

1.. Phạm trù vật chất và ý thức.................................................................... 3
1.1. Phạm trù vật chất.................................................................................................. 3
1.2. Phạm trù ý thức..................................................................................................... 5

2.. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.................................... 6
2.1. Vật chất quyết định sự hình thành và phát triển của vật chất............................... 6
2.2. Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất ..................................................... 8



II.. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN.......................................................... 9
III.. LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. 11

1.. Thực trạng nước ta trước giai đoạn đổi
mới......................................... 12
2.. Những chủ trương đường lối đổi mới đất nước và những
thành tựu đạt
được...................................................................................................
....................... 13

2


Kết
luận ...............................................................
....................... 17
Tư liệu tham
khảo ..............................................................
........18

LỜI MỞ ĐẦU

Lịch sử thế giới đã trải qua bao cuộc đấu tranh sinh tồn để phát
triển. Cũng từ các cuộc đấu tranh đó mà nhân loại đã có những bước
tiến quan trọng qua những bậc thang của thời đại, từ thuở loài người
bắt đầu xuất hiện để rồi trở thành con người văn minh như ngày
nay. Trong quá trình phát triển ấy, con người đã tích lũy được những
tư tưởng có giá trị đóng góp vào kho tàng tư tưởng của thế giới. Lịch
sử của triết học cũng là lịch sử của những cuộc đấu tranh xung

quanh vấn đề cơ bản của triết học với 2 phạm trù lớn: vật chất và ý
thức. Song, để đi đến được những quan niệm, định nghĩa khoa học
và tương đối hoàn chỉnh về chúng cũng phải đến một giai đoạn lịch
sử nhất định với sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Dựa trên cơ sở những giá trị, những tư tưởng đó và tổng kết
thời đại, triết học đặc biệt chủ nghĩa Mac Lênin hình thành và phát
triển. Chủ nghĩa Mac Lênin bao hàm nội dung rộng lớn mang những
giá trị khoa học và thực tiễn. Trong đó, chủ nghĩa duy vật biện
chứng là hạt nhân lí luận của triết học Mac Lênin. Xem xét sự vật
hiện tượng dưới góc độ của chủ nghĩa duy vật biện chứng, Ăng-ghen
viết: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện
3


đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”. Mặt khác, mối quan
hệ giữa tư duy và tồn tại (hay vật chất và ý thức) có vai trị quan
trọng trong cơng cuộc xây dựng đất nước, phát triển nền kinh tế...
Với mong muốn tìm hiểu thêm về vấn đề này, em đã chọn đề
tài: “Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp
luận chung và liên hệ với thực tiễn đổi mới ở Việt Nam hiện
nay.” Do thời gian có hạn và kiến thức bản thân còn hạn chế cho
nên bài viết sẽ khơng thể tránh khỏi nhiều thiếu sót. Vậy kính mong
sự góp ý của thầy giáo cùng tồn thể bạn đọc. Em xin chân thành
cảm ơn !

NỘI DUNG

I.. Lí luận chung về mối quan hệ vật chất và ý
thức.

Để hiểu rõ về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức,
trước tiên ta phải tìm hiểu phạm trù vật chất và ý thức.

1..Phạm trù vật chất và ý thức.
1.1..Phạm trù vật chất:

4


a.. Định nghĩa vật chất.
Vật chất là một phạm trù triết học phức tạp và có nhiều quan niệm khác nhau về
nó. Các nhà duy vật trước Mác đã có những quan điểm về vật chất
nhưng còn hạn chế. Họ đồng nhất vật chất với vật thể có khối lượng,
có quảng tính. Thời cổ đại, thuyết Ngũ Hành của triết học Trung
Quốc quan niệm “kim, mộc, thủy, hỏa, thổ”là những tố chất vật chất
xây dựng nên thế giới. Ở Hy Lạp, vật chất đầu tiên của thế giới theo
quan điểm của Talet là nước, theo Aniximen là khơng khí, Heraclit
cho rằng đó là lửa, cịn Đêmocrit khẳng định đó là nguyên tử. Còn
các nhà duy vật thế kỉ XVII cho rằng nguyên tử là đơn vị nhỏ nhất
không thể chia nhỏ, là những viên gạch đầu tiên xây nên vật chất.
Đây là quan niệm siêu hình vì nếu như vậy thì thế giới khơng phải là
vơ cùng mà có giới hạn, có khởi đầu từ những nguyên tử đồng nhất,
bất biến.
Cuối thế kỉ XIX, khoa học kỹ thuật phát triển, các thành tựu
khoa học ra đời đã bác bỏ những quan điểm của các nhà duy vật
trước Mac: Beccoren phát hiện ra tia phóng xạ (năm 1896), Tơmson
phát hiện ra điện tử (1897), phát hiện ra hạt Quắc (năm 1964)...
Trên cơ sở ra đời của các phát minh khoa học đó, Lênin khẳng định:
“ Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác

chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.” Đây là
định nghĩa khoa học nhất, hoàn chỉnh nhất của Lênin. Theo định
nghĩa trên, vật chất là phạm trù rộng lớn nhất mà nhận thức luận
chưa vượt qua được. Do vậy, chúng ta không thể đồng nhất vật chất
với vật thể hay một thuộc tính cụ thể, cũng không thể quy về phạm
trù rộng lớn hơn. Vật chất không phải là một lực lượng siêu nhiên
tồn tại lơ lửng ở đâu đó như chủ nghĩa duy tâm khách quan đã khái
niệm. Mà vật chất dùng để chỉ thực tại khách quan, là cái tồn tại
khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức, bất kể
sự tồn tại ấy con người nhận thức được hay chưa nhận thức được.
Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi trực tiếp hay gián

5


tiếp tác động lên giác quan con người, được cảm giác chép lại, chụp
lại, phản ánh.

b..Hình thức và phương thức tồn tại của vật chất.
Lênin từng viết: “Trong thế giới khơng có gì ngồi vật chất đang
vận động và vật chất đang vận động khơng ở đâu ngồi khơng gian
và thời gian.”
Vận động là phương thức tồn tại, là thuộc tính cố hữu của vật
chất. Khác với quan điểm siêu hình cho rằng vận động là sự di
chuyển vị trí cả vật thể trong không gian, thời gian, nguồn gốc của
sự vận động là bên ngoài sự vật hiện tượng. Theo quan điểm duy
vật biện chứng, vận động là mọi sự biến đổi chung. Vật chất tồn tại
bằng vận động, vật chất tồn tại thông qua vận động để biểu hiện sự
tồn tại của mình. Vận động của vật chất là sự tự thân vận động. Vận
động của vật chất khơng bao giờ mất đi, chỉ chuyển hóa từ hình

thức vận động này sang hình thức vận động khác. Đứng im là một
trạng thái vận động, đó là sự vận động trong sự thăng bằng, trong
sự ổn định tương đối. Như vậy, đứng im là tương đối, vận động là
tuyệt đối.
Khơng gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất. Khơng
gian và thời gian là thuộc tính khách quan, nội tại, gắn liền với sự
vận động của vật chất. Khơng gian có tính vơ tận và ba chiều, cịn
thời gian có tính vĩnh cửu và một chiều. Hai thuộc tính này khơng
thể tách rời nhau. Trong đó, khơng gian là hình thức tồn tại của vật
chất xét về mặt quảng tính, sự cùng tồn tại, trật tự, kết cấu và sự
tác động lẫn nhau. Thời gian là hình tức tồn tại của vật chất xét về
mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp của các quá trình. Vật chất có ba
chiều khơng gian và một chiều thời gian. Tính ba chiều của khơng
gian là chiều dài, chiều rộng và chiều cao. Tính một chiều của thời
gian là chiều từ quá khứ đến tương lai.

c.. Tính thống nhất vật chất của thế giới.
6


Triết học Mác-Lênin khẳng định rằng chỉ có một thế giới duy
nhất là thế giới vật chất đồng thời còn khẳng định rằng thế giới đều
là những dạng cụ thể của vật chất, có liên hệ vật chất thống nhất
với nhau như liên hệ về cơ cấu tổ chức, lịch sử phát triển và đều
phải tuân thủ theo quy luật khách quan của thế giới vật chất. Do đó
nó tồn tại vĩnh cửu, không do ai sinh ra và cũng khơng mất đi. Trong
thế giới đó, khơng có gì khác ngồi những q trình vật chất đang
biến đổi là chuyển hóa lẫn nhau, là nguyên nhân và kết quả của
nhau.


1.2.. Phạm trù ý thức:
a..Nguồn gốc ý thức:
Theo triết học duy vật biện chứng, ý thức của con người là sản
phẩm của quá trình phát triển của cả tự nhiên và lịch sự xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên gồm: bộ óc con người và thế giới khách
quan.
Bộ óc con người là cơ quan vật chất của ý thức. Hoạt động ý
thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lí thần kinh
của bộ óc con người. Ý thức khơng thể tách rời khỏi hoạt động của
bộ óc.
Để bộ óc con người sinh ra được ý thức cần phải có sự tác động
của thế giới khách quan. Mọi vật chất có thuộc tính chung là phản
ánh, ý thức là hình thức phản ánh thế giới hiện thực cao nhất của
bộ óc thơng qua mối liên hệ giữa bộ óc với thế giới khách quan.
Điều kiện cần cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc tự nhiên
song vẫn chưa đủ mà ngôn ngữ và lao động là hai nguồn gốc xã hội
quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát triển của ý thức
Lao động đã sáng tạo ra con người, làm cho con người khác
với tất cả các động vật khác. Lao động giúp con người cải tạo thế
giới và hồn thiện chính mình. Thơng qua lao đọng, thế giới khách
quan tác động nên não người ngày càng phát triển tư duy trừu
tượng.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung của ý
thức. Ngơn ngữ cịn là phương tiện giao tiếp trong xã hội, là phương
tiện của tư duy. Nhờ có ngơn ngữ mà con người tổng kết được thực
7


tiễn, trao đổi thông tin, tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ý
thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.


b..Bản chất của ý thức:
Ý thức được chủ nghĩa duy vật biện chứng coi là sự phản ánh
hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng
động, sáng tạo. Như vậy, có thể thấy rõ ý thức có bản tính phản
ánh, sáng tạo và bản tính xã hội.
Bản tính phản ánh thể hiện về thế giới thơng tin bên ngồi, là
biểu thị nôi dung được từ vật gây tác động và được truyền đi trong
q trình phản ánh. Bản tính đó quy đinh mặt khách quan của ý
thức, tức là phải lấy khách quan làm tiền đề, bị nó quy định nội dung
phản ánh là thế giới khách quan. Ý thức là hình ảnh chủ quan của
thế giới khách quan.
Tuy thuộc phạm vi chủ quan, nhưng ý thức không phải là bản
sao thụ động, giản đơn, máy móc của sự vật. Tức là, không phải cứ
sự vật tác động như thế nào thì ý thức sẽ chép lại, chụp lại y nguyên
như thế. Trong quá trình lao động để cải tạo thế giới khách quan,
con người tác động vào sự vật một cách có định hướng, chọn lọc,
tùy theo nhu cầu của mình (xây nhà, cày ruộng, đào mương, xây
cầu…). Chính vì thế, ý thức của con người là sự phản ánh năng
động, sáng tạo, có định hướng, chọn lọc về hiện thực khách quan.
Tính sáng tạo của ý thức khơng có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất.
Sáng tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luật và
trong khuôn khổ của sự phản ánh.
Ý thức chỉ được nảy sinh trong lao động, hoạt động cải tạo thế
giới của con người. Hoạt động đó khơng thể là hoạt động đơn lẻ mà
là hoạt động xã hội. Như thế, ý thức không phải là một hiện tượng tự
nhiên thuần túy, mà bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử – xã hội, phản
ánh những quan hệ xã hội khách quan. Ý thức bị chi phối không chỉ
bởi các quy luật tự nhiên, mà chủ yếu bởi các quy luật xã hội. Ở
những thời đại khác nhau, thậm chí trong cùng một thời đại, ý thức

8


về cùng một sự vật, hiện tượng có thể khác nhau ở các chủ thể khác
nhau. Theo CácMac và Ăngghen, ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất
được đem chuyển vào trong óc con người và được cải biến đi trong
đó”.

c..Kết cấu của ý thức:
Ý thức là một hiện tượng tâm lý – xã hội có kết cấu rất phức
tạp gồm nhiều thành tố khác nhau có quan hệ với nhau. Tính sáng
tạo của ý thức thể hiện rất phong phú. Nếu xét theo bình diện cắt
ngang, ý thức bao gồm tri thức, tình cảm, niềm tin, ước muốn...
Trong đó, tri thức là hạt nhân của ý thức. Còn nếu xét theo chiều sâu
của ý thức, ý thứcbao gồm tiềm thức, vô thức và tự ý thức.
Ý thức không chỉ phản ánh bản chất của sự vật mà còn vạch ra
quy luật vận động phát triển của chúng, không chỉ phản ánh hiện
thực mà còn sáng tạo hiện thực.

2.. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Theo chủ nghĩa duy tâm thì ý thức quyết định vật chất.
Thuyết nhị tâm một mặt thừa nhận vật chất là thực tại khách quan,
mặt khác thừa nhận ý thức là một khởi nguyên độc lập không phụ
thuộc vào vật chất. Nhà duy tâm chủ quan Beccoli thì cho rằng:
“Tồn tại có nghĩa là bị tri giác”. Ơng coi tồn tại không khách quan, bị
tri giác, do cảm giác sinh ra. Những cái vốn là thực tại khách quan
nhưng không được tri giác thì cũng khơng tồn tại. Khác với quan
điểm trên, Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng vật chất là thực
tại khách quan, đối lập với ý thức. Vật chất là tính thứ nhất, cảm
giác ý thức là tính thứ hai. Vật chất là cái được phản ánh còn ý thức

là cái phản ánh. Quan điểm này đã được đề cập tới ngay trong định
nghĩa của Lênin về vật chất. Với định nghĩa này, Lênin đã phân biệt
Chủ nghĩa duy vật biện chứng với Chủ nghĩa duy tâm đồng thời
cũng nêu lên mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học. Mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất và ý thức thể hiện qua vai trò quyết định của vật chất đối với ý
9


thức và tính độc lập tương đối, sự tác động trở lại của ý thức đối với
vật chất.

2.1. Vật chất quyết định sự hình thành và phát triển của ý
thức:
Trước hết, vật chất quyết định nguồn gốc, nội dung và sự biến
đổi, phát triển của ý thức.


Về nguồn gốc:

Ý thức là sản phầm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc
con người. Con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế
giới vật chất, là sản phầm của thế giới vật chất. Như vậy xét đến
cùng, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc sinh ra
ý thức. Theo Cacmac và Angghen, “ý thức cũng là tư duy của chúng
ta dù vẻ siêu cảm giác như thế nào đi chăng nữa cũng chỉ là sản vật
của một khí quan vật chất, nhục thể, tức là bộ óc”.
Bên cạnh bộ óc, thế giới tự nhiên cũng quyết định sự ra đời của ý
thức. Nếu có bộ óc phát triển mà không sống trong thế giới tự nhiên
đa dạng phong phú tức là khơng có sự tác động của thế giới tự

nhiên vào bộ não thì ý thức của con người chẳng khác nào lồi vật,
khó nhận thức đầy đủ được.
Lao động và ngôn ngữ là nguồn gốc xã hội của ý thức. Chúng là
những dạng tồn tại của vật chất, cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết
định sự hình thành, tồn tại, phát triển của ý thức.


Về nội dung:

Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc
con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tất cả
những hiện tượng ý thức đều hình thành trên những điều kiện sống
và hoạt động thực tiễn của con người và xã hội lồi người.


Sự biến đổi, phát triển của ý thức:
10


Vật chất là tiền đề cho sự phát triển của ý thức nên khi vật chất
thay đổi thì ý thức thay đổi theo. Ví dụ, những sinh hoạt vật chất
thay đổi sẽ làm cho thói quen, tâm lí con người thay đổi. Hay một
người bình thường nếu vì lí do nào đó mà não bị tổn thương thì hoạt
động của ý thức cũng bị rối loạn. Cơ sở vật chất của trường học
được nâng cấp cải tiến thì trình độ dạy vào học cũng được nâng cao.
Bên cạnh đó, vật chất là điều kiện khách quan để thực hóa ý
thức tư tưởng. Những chủ trương, kế hoạch của con người chỉ được
thực hiện trên những cơ sở vật chất nhất định.Vật chất quyết định
tính năng động, sáng tạo của ý thức trong hoạt động thực tiễn. Do
vậy, vật chất quyết định tính phong phú, đa dạng, nhiều vẻ của ý

thức.

2.2 Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất:
Nói ý thức là tính thứ hai, Chủ nghĩa duy vật khơng hề hạ thấp
mà hiểu đúng vai trị thực sự của ý thức. Nói đến vai trị của ý thức
là nói đến vai trị của con người vì ý thức là của con người và bản
thân ý thức khơng làm thay đổi gì hiện thực. Ý thức có tính tương đối
tác dụng trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của
con người. Ý thức trang bị cho con người tri thức về thực tại khách
quan trên cơ sở ấy con người đề ra phương hướng, xây dựng kế
hoạch, lựa chọn phương pháp để thực hiện mục tiêu làm thay đổi
hiện thực. Sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh
tinh thần, sang tạo và chủ động chứ không máy móc, nguyên xi thế
giới vật chất. Ý thức chỉ phát huy được vai trị của mình khi có sự kết
hợp chặt chẽ giữa nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan. Nhiều
cơng trình nghiên cứu đã xác nhận trạng thái tâm lí (vui, buồn, phấn
khởi, chán nản,…) ảnh hưởng trực tiếp, mạnh mẽ đến trạng thái thể
lực, tốc độ, năng suất lao động,..
Ý thức tác động đến vật chất theo hai hướng chủ yếu:
Nếu ý thức phản ánh đúng điều kiện vật chất, hồn cảnh khách
quan thì sẽ thúc đẩy, tạo sự thuận lợi cho sự phát triển của đối
11


tượng vật chất. Trong trường hợp này, ý thức có tác động trở lại tích
cực đối với thực tiến, đặc biệt là sự tác động của khoa học, lí luận.
Đây là cơ sở quan trọng cho việc xác định mục tiêu, phương hướng
và biện pháp chính xác trong hành động và thực tiễn.
Ngược lại, nếu ý thức phản ánh sai lệch hiện thực sẽ làm cho
hoạt động của con người khơng phù hợp với quy luật khách quan và

kìm hãm sự phát triển của vật chất. Tức là ý thức đã có tác động
tiêu cực đối với thực tiễn. Khi con người không nhận thức đúng,
không hiểu rõ sự việc hiện tượng thì họ sẽ hành động sai và thường
chịu những thất bại trong cược sống.
Ví dụ, thuyết nhật tâm phản ánh đúng thế giới sẽ giúp khoa học
phát triển. Còn thuyết địa tâm của Aristot coi Trái Đất là trung tâm
của vũ trụ đã kìm hãm sự phát triển của thế giới vật chất, làm cho
“loài người ngủ trong giấc ngủ triền miên của những đêm dài trung
cổ”
Vì vậy, con người phải thừa nhận tính khách quan của vật chất,
thừa nhận quy luật tự nhiên của xã hội để phát huy tính năng động
của ý thức, nhận thức đúng sự vật hiện tượng. Thế giới vật chất với
những thuộc tính, quy luật của nó tồn tại khách quan khơng phụ
thuộc vào ý thức con người nên trong hoạt động thực tiến phải xuất
phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho
hoạt động của mình.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vừa có tình tuyết đối vừa có
tính tương đối. Vật chất quyết định ý thức là tuyệt đối. Nhưng trong
một số trường hợp cụ thể hoặc trong một giai đoạn ngắn, ý thức lại
quyết định vật chất. Mác chỉ rõ lí luận sẽ trở thành lực lượng vật
chất khi nó thâm nhập vào quần chúng.
Biểu hiện của mối quan hệ giữa vật chất váy thức trong đời
sống xã hội là quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó
tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội có tính độc lập tương đối tác
động trở lại tồn tại xã hội. Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý
12


thức còn là cơ sở để xem xét các mối quan hệ như chủ thể và khách
thể, lí luận và thực tiễn, điều kiện khách quan và nhân tố chủ

quan…

II. Ý nghĩa phương pháp luận:
Lênin đã chỉ ra rằng, sự đối lập giữa vật chất và ý thức có nghĩa
tuyệt đối trong phạm vi hết sức hạn chế. Trong trường hợp này, chỉ
giới hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì có
trước và cái gì có sau. Ngồi giới hạn đó thì khơng cịn nghi ngờ gì
nữa sự đối lập đó chỉ là tương đối. Như vậy, để phân ranh giới chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, để xác định bản tính và thống
nhất của thế giới, cần có sự đối lập tuyệt đối giữa vật chất và ý thức
trong khi trả lời câu hỏi cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào
quyết định cái nào. Không như vậy sẽ lẫn lộn hai đường lối cơ bản
trong triết học, lẫn lộn vật chất với ý thức và cuối cùng sẽ xa dời
quan điểm duy vật. Song sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ là
tương đối nếu như chúng ta xét chung như là những nguyên tố,
những mặt không thể thiếu được trong hoạt động của con người,
đặc biệt là hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của con người. Bởi vì,
ý thức tự nó khơng thể cải biến được sự vật, khơng có khả năng tự
biến thành hiện thực.
Nhưng thông qua hoạt động thực tiễn của con người, ý thức có
thể cải biết được tự nhiên, thâm nhập vào sự vật, hiện thực hố
những mục đích mà nó đề ra cho hoạt động của mình. Điều này bắt
nguồn từ chính ngay bản tính phản ánh sáng tạo và xã hội của ý
thức và chính nhờ bản tính đó mà chỉ có con người có ý thức mới có
khả năng cải biến và thống trị tự nhiên, biến tự nhiên xa lạ, hoang
dã, thanh tự nhiên trù phú, sinh động, tự nhiên của con người. Như
vậy, tính tương đối trong sự đối lập giữa vật chất và ý thức thể hiện
ở tính độc lập tương đối, tính năng động của ý thức. Mặt khác, đời
sống con người là sự thống nhất không thể tách rời giữa đời sống
vật chất và đời sống tinh thần trong đó những nhu cầu tinh thần

ngày càng phong phú và đa dạng và những nhu cầu vật chất cũng
13


bị tinh thần hố. Khẳng định tính tương đối của sự đối lập giữa vật
chất và ý thức khơng có ý nghĩa là khẳng định rằng cả hai nhân tố
có vai trò như nhau trong đời sống và hoạt động của con người. Trái
lại, triết học Mac-Lênin khẳng định rằng, trong hoạt động của con
người, những nhân tố vật chất và ý thức có tác động qua lại, song sự
tác động đó diễn ra trên cơ sở tính thứ nhất của nhân tố vật chất so
với tính thứ hai của nhân tố ý thức.
Trong hoạt động của con người, những nhu cầu vật chất xét đến
cùng bao giờ cũng giữ vai trò quyết định, chi phối và qui định hoạt
động của con người vì nhân tố vật chất qui định khả năng các nhân
tố tinh thần có thể tham gia vào hoạt động của con người, tạo điều
kiện cho nhân tố tinh thần hoặc nhân tố tinh thần khác biến thành
hiện thực và qua đó qui định mục đích chủ trương biện pháp mà con
người đề ra cho hoạt động của mình bằng cách chọn lọc, sửa chữa
bổ sung, cụ thể hố mục đích, chủ trương, biện pháp đó. Hoạt động
nhận thức của con người bao giờ cũng hướng đến mục tiêu để biến
tự nhiên nhằm thoả mãn nhu cầu cuộc sống, hơn nữa, cuộc sống
tinh thần của con người xét đến cùng bị chi phối và phụ thuộc vào
việc thoả mãn nhu cầu vật chất và vào những điều kiện vật chất
hiện có. Khẳng định vai trị cơ sở, quyết định trực tiếp của nhân tố
vật chất, triết học Mỏc- Lênin đồng thời cũng khơng coi nhẹ vai trị
của nhân tố tinh thần, của tính năng động chủ quan. Nhân tố ý thức
có tác dụng trở lại quan trọng đối với nhân tố vật chất. Hơn nữa,
trong hoạt động của mình con người khơng thể để cho thế giới
khách quan, quy luật khách quan chi phối mà chủ động hướng nó đi
theo con đường có lợi của mỡnh.í thức con người không thể tạo ra

các đối tượng vật chất, cũng khơng thể thay đổi qui luật vận động
của nó. D đó, trong q trình hoạt động của mình, con người phải
tuân theo qui luật khách quan và chỉ có thể đề ra những mục đích,
chủ trương trong phạm vi hồn cảnh vật chất cho phép.
Vì vật chất quyết định ý thức nên trong hoạt động thực tiễn chúng
ta phải tôn trọng khách quan, nhận thức và hoạt động theo đúng
quy luật khách quan.
14


Vì ý thức tác động trở lại vật chất nên cần phát huy tính năng
động chủ quan, đặc biệt phát huy vai trò của tri thức, khoa học, chú
ý giáo dục và nâng cao nhận thức cho con người. Mác nói: “Cố nhiên
vũ khí phê phán khơng thể thay thế sự phê phán bằng vũ khí, lực
lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi lực lượng vật chất nhưng lí
luận một khi thâm nhập được vào quần chúng thì sẽ trở thành lực
lượng vật chất”.
Chống quan điểm duy ý chí, tuyệt đối hóa vai trị của ý thức mà
hạ thấp, đánh giá khơng đúng vai trị của các điều kiện vật chất. Đó
là hành động lấy ý chí áp đặt thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện
thực. Bệnh chủ quan duy ý chí là do sự yếu kém về trình độ nhận
thức nói chung và sự hạn chế trong q trình áp dungjlis luận vào
thực tiễn nói riêng. Đó là “sự mù quáng chủ quan”, là sai lầm tự
phát dẫn đến rơi vào chủ nghĩa duy tâm một cách không tự giác.
Chúng ta cũng không nên tuyệt đối hóa vai trị của vật chất trong
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Nghĩa là chống lại “chủ nghĩa
khách quan” thái độ thụ động trông chờ ỷ lại vào điều kiện vật chất.
Đảm bảo tính thống nhất biện chứng giữa tính khách quan và
chủ quan trong hoạt động của con người cũng là một yếu tố quan
trọng trong quá trình nhận thức.


III.. Liên hệ với thực tiễn đổi mới ở Việt Nam
hiện nay.
Những thành tựu trong công cuộc đổi mới trong thời gian vừa
qua đã và đang tạo một lợi thế lớn để nước ta bước ước vào thời kì
phát triển mới. Nhiều tiền đề cần thiết về cơng nghiệp hóa và hiện
đại hóa được tạo ra, quan hệ giữa nước ta và các nước trên thế giới
ngày càng được mở rộng. Khả năng giữ vững được độc lập trong hội
nhập với cộng đồng thế giới được tăng thêm. Cách mạng khoa học
và công nghệ tiếp tục với những bước hát triển với trình độ ngày
càng cao, thúc đẩy chuyển dịch kinh tế và đời sống xã hội. Các nước
đều có cơ hội để phát triển. Tuy nhiên do ưu thế công nghệ và thị
15


trường thuộc về các nước phát triển khiến cho các nước đang và
chưa phát triển đứng trước một thách thức to lớn. Nguy cơ tụt hậu
ngày càng cao, mà điểm xuất phát của nước ta quá thấp, lại phải đi
lên từ mơi trường cạnh tranh khốc liệt. Trước tình hình đó với xu thế
phát triển của thời đại, Đảng và Nhà nước ta cần tiếp tục tiến hành
đẩy mạnh công cuộc đổi mới tồn diện đất nước. Trong đó đổi mới
kinh tế đóng vai trị then chốt, giữ vai trị chủ đạo. Đồng thời đổi
mới kinh tế là một vấn đề cấp bách vì đổi mới kinh tế và chính trị có
mối quan hệ vật chất và ý thức sẽ cho phép chúng ta vận dụng vào
mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giúp cơng cuộc đổi mới ngày
càng giàu mạnh.

1.. Thực trạng nước ta trước giai đoạn đổi mới.

Như chúng ta đã biết sau khi giải phóng miền nam thống nhất

đất nước, nền kinh tế miền bắc bị suy giảm nghiêm trọng. Cơ sở vật
chất kỹ thuật yếu kém, cơ cấu kinh tế mất cân đối, năng suất lao
động thấp… sản xuất nông nghiệp chưa cung cấp đủ lương thực cho
dân, nguyên liệu cho công nghiệp, hàng hố cho xuất khẩu, ngồi ra
cịn bị tàn phá nặng nề bởi đế quốc Mỹ ở miền Nam sau 20 năm
chiến tranh nền kinh tế bị đảo lộn, nông nghiệp bị hoang hóa ở
nhiều vùng, lạm phát trầm trọng …
Trước tình hình đó đại hội Đảng ta lần thứ IV đã đề ra chỉ tiêu
và kế hoạch 5 năm 1976-1980 về xây dựng và phát triển vượt quá
khả năng kinh tế 1975 phấn đấu đạt 21 triệu tấn lương thực 1 triệu
tấn cá biển, 1 triệu ha khoai lang, 1 triệu 200 ha rừng mới, 10 triệu
tấn than sạch… ngoài ra còn đề xuất xây dựng thêm các cơ sở mới
về cơng nghiệp như cơ khí và đặc biệt là phải cải tạo XHCN ở miền
Nam. Những chủ trương chính sách sai lầm đó đã gây tổn hại đến
nền kinh tế cuộc sống nhân dân… đến hết 1980, nhiều chỉ tiêu đề ra
chỉ đạt được 50-60%, nền kinh tế tăng trưởng chậm, tổng sản phẩm
xã hội bình quân là 1,5% công nghiệp tăng 2,6% nông nghiệp giảm
0,15%.
16


Đại hội Đảng lần V vẫn chưa tìm ra nguyên nhân dẫn tới sự trì
trệ, đồng thời cũng chưa đề ra các chính sách mới cho nền kinh tế
1981-1985. Chúng ta chưa khắc phục chủ quan trì trệ trong bố trí cơ
cấu kinh tế, cải tạo XHCN và quản lý kinh tế lại phạm những sai lầm
mới trong lĩnh vực phân phối lưu thơng. Nhìn chung vẫn chưa đạt
được mục tiêu đại hội V đề ra.
Tất nhiên ngoài những yếu tố chủ quan cịn có yếu tố khách
quan dẫn đến sự trì trệ của nền kinh tế do chiến tranh, bối cảnh
quốc tế ... song chúng ta vẫn mắc sai lầm chủ quan trong việc

quản lý cán bộ đã kìm hãm lực lượng sản xuất và triệt tiêu nhiều
động lực phát triền. Nhắc lại thấy rõ tác động tiêu cực của ý thức đối
với vật chất ,thấy rõ tác động qua lại giữa kinh tế và chính trị trước
khi có công cuộc đổi mới. Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng
nếu ý thức là tiêu cực thì sớm muộn sẽ bị đào thải .

2. Những chủ trương, đường lối đổi mới đất nước và
những thành tựu đạt được.

Trước tình ngày càng nghiêm trọng trong khùng hoảng kinh tế
và xã hội, Đảng và nhà nước đã đi sâu nghiên cứu, phân tích tình
hình, lấy ý kiến của nhân dân và đặc biệt là đổi mới tư duy về kinh
tế. Đại hội Đảng VI đã rút ra kinh nghiệm lớn trong đó có: phải ln
ln xuất phát từ thực tế, tơn trọng và hoạt động theo quy luật
khách quan. Đảng đã đề ra đường lối đổi mới, mở ra bước ngoặt
trong sự việc xây dựng CNXH ở nước ta .
Tại đại hội VI Đảng đã nghiêm khắc tự phê bình, tìm ra đúng
nguyên nhân khủng hoảng kinh tế xã hội và đã đề ra nhiều phương
hướng nhiệm vụ trong việc đổi mới, nhất là về kinh tế, thực hiện
chương trình kinh tế với 3 mục tiêu: lương thực - thực phẩm, hàng
tiêu dùng, xuất khẩu, hình thành nền kinh tế nhiều thành phần,
17


thừa nhận kinh tế tư sản sản xuất hàng hóa và kinh tế tư bản tư
nhân, đổi mới cơ chế quản lý. Trong quá trình thực hiện nghị quyết
của Đảng, những diễn biến quốc tế đã ảnh hưởng xấu đến nền kinh
tế nước ta nhưng Đảng, Nhà Nước và nhân dân đã nỗ lực khắc phục
những khó khăn và tìm tòi khai phá ra đường lối đổi mới. Tại đại hội
VII ta đã đánh giá tình hình kinh tế chính trị của nước ta sau hơn

nhiều năm thực hiện đổi mới đã đạt được các bước tiến quan trọng.
Tình hình chính trị ổn định nên nền kinh tế có điều kiện phát triển
bước đầu nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hoạt động theo sự
quản lý của nhà nước, LLSX huy động tốt hơn, tránh được lạm phát,
đời sống của người dân được cải thiện, cuộc khủng hoảng đã giảm
bớt, sinh hoạt dân chủ ngày càng phát huy.
Qua các dẫn chứng trên ta thấy sự tác động qua lại giữa vật
chất và ý thức, giữa kinh tế và chính trị, nhờ có đường lối đổi mới,
nền kinh tế ngày càng phát triển, cuộc sống của người dân ngày
càng ổn định đã góp phần to lớn trong việc phát huy dân chủ trong
xã hội. Ngồi mặt tích cực cịn có tiêu cực như: lạm phát vẫn còn
cao, nhiều cơ sở đình đốn kéo dài, lao động thiếu việc làm tăng lên,
và trong quản lý còn nhiều lúng túng sơ hở... đặc biệt đại hội đồng
xác định về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và chính trị phải tập trung
sức đổi mới kinh tế đáp ứng được nhu cầu cấp bách của nhân dân về
việc làm, và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật của CNXH, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành đổi mới
trong lĩnh vực chính trị."
Đảng ta đã vận dụng đúng đắn mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức vào công cuộc đổi mới đất nước về kinh tế lẫn chính trị. Đại hội
VIII đã chỉ ra các mục tiêu cần đạt được, cụ thể là phương châm chỉ
đạo trong 5 năm 1991-1995, trong đó nổi cộm nhất là phương châm
kết hợp động lực kinh tế và động lực chính trị, phương châm tiếp tục
đổi mới đã đi vào chiều sâu với bước đi vững chắc, lấy đổi mới làm
nền để thúc đẩy các lĩnh vực khác phát triển.
Trong báo cáo của Đảng về công cuộc đổi mới đã nhận xét: "nét
nổi bật là trong Đảng đã có sự đổi mới tư duy về kinh tế với tinh
18



thần độc lập sáng tạo. Đảng ta cụ thể hoá và phát triển nghị quyết
đại hội VII, bước đầu hình thành hệ thống các quan điểm, nguyên
tắc chỉ đạo sự nghiệp đổi mới ở nước ta "
Sau đại hội ban chấp hành TW Đảng đã đề ra các nghị quyết
giải quyết các vấn đề đối nội đối ngoại. Hội nghị đại biểu toàn quốc
giữa nhiệm kỳ đã đánh giá cao trong trong quá trình khắc phục
khủng hoảng kinh tế ... khắc phục được nhiều tồn tại trong 3 năm
qua. Lạm phát được đẩy lùi. Tổng sản phẩm GDP tăng bình quân
8.2% so với mức đề ra năm 91-95 là 5,5-5,6%. Sản xuất nơng
nghiệp tương đối tồn diện sản lượng lương thực 26% so với 5 năm
trước đó, tạo điều kiện thuận lợi để cuộc sống đầy đủ, phát triển
được nhiều ngành nghề. Vấn đề lương thực đã được giải quyết tốt.
Quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng theo hướng đa dạng hóa,
thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng, nguồn vốn đầu tư nước
ngoài tăng mạnh, tăng kim ngạch xuất khẩu 91-95 là 17 tỷ USD so
với kế hoạch là 12-15 tỷ USD. Khoa học cơng nghệ có bước phát
triển lớn phục vụ cho việc thực hiện đường lối chính sách của Đảng,
lĩnh vực văn hố tinh thần được nâng cao, đời sống nhân dân được
cải thiện, quốc phịng an ninh được giữ vững.
Hội nghị đại biểu tồn quốc chỉ nêu lên thành tựu tiếp tục giữ
vững và củng cố ổn định chính trị, mở rộng quan hệ đối ngoại, tạo
đIều kiện cho công cuộc xây dựng bảo vệ tổ quốc.
Như vậy, cũng thấy rõ tác động của kinh tế với chính trị và xã
hội, đối với cơng tác đối ngoại, quốc phòng, an ninh...đổi mới kinh
tế nhưng các nhân tố chính trị xã hội, đối ngoại...cũng tác động tích
cực trở lại đối với kinh tế. Vận dụng đúng đắn các mối quan hệ biện
chứng duy vật. Tại hội nghị đại biểu toàn quốc đã vạch ra những
điểm yếu kém, vấn đề kinh tế như "nền kinh tế vẫn cịn mang tính
chất nơng nghiệp lạc hậu, cơng nghiệp nhỏ bé, kết cấu hạ tầng kém
phát triển, kinh tế tuy tăng trưởng khá nhưng năng suất chất lượng

hiệu quả còn kém ..." và vẫn còn những tồn tại về mặt văn hố, xã
hội… để có những thay đổi tốt hơn, Đảng đã đề ra những nhiệm vụ
chủ yếu thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
19


nghiệp hoá, hiện đại hoá, chăm lo đến các vấn đề văn hoá xã hội,
đảm bảo an ninh - quốc phịng, xây dựng nhà nước văn hố của dân,
do dân và vì dân đổi mới chỉnh đốn đảng và củng cố mối quan hệ
giữa Đảng và nhân dân như "nền kinh tế vẫn cịn mang tính chất
nơng nghiệp lạc hậu, công nghiệp nhỏ bé, kết cấu hạ tầng kém phát
triển, kinh tế tuy tăng trưởng khá nhưng năng suất chất lượng hiệu
quả còn kém ..." và vẫn còn những tồn tại về mặt văn hố, xã
hội...để có những thay đổi tốt hơn, Đảng đã đề ra những nhiệm vụ
chủ yếu thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng
nghiệp hố, hiện đại hố, chăm lo đến các vấn đề văn hoá xã hội,
đảm bảo an ninh - quốc phịng, xây dựng nhà nước văn hố của dân,
do dân và vì dân đổi mới chỉnh đốn đảng và củng cố mối quan hệ
giữa Đảng và nhân dân .
Sau đại hội TW Đảng (khóa VII) ra nghị quyết phát triển cơng
nghiệp mới đến 2000 theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước. Cải cách nền hành chính nhà nước với nội dung của hội nghị
TW lần thứ VII, có thể coi đã cụ thể hố một bước cương lĩnh và
chiến lược phát triển khoa học xã hội mà đại hội VIII đã thông qua.
Với thành công trong những năm qua ta thấy đường lối và chính
sách của Đảng và nhà nước là hoàn toàn đúng đắn phù hợp với nền
kinh tế thị trường mà trước đây ta đã phủ nhận để hướng tới CNXH
bỏ qua CNTB. Đảng đã mắc sai lầm khi vội cải tạo CNXH xoá bỏ nền
kinh tế nhiều thành phần duy trì lâu cơ chế quản lý quan liêu bao
cấp. Có nhiều sai sót việc quản lý tiền tệ cũng như quản lý về giai

cấp lãnh đạo. Nước ta đã nghiên cứu các mặt mạnh và hạn chế của
CNTB để tận dụng một cách tổng hợp vào tình hình kinh tế xã hội
nước ta hiện nay để đưa Việt Nam theo hướng phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần. Các bước phát triển kinh tế phải gắn
liền với tiến bộ và công bằng xã hội
Trên tinh thần đó cùng với các kinh nghiệm đại hội VIII lần này
đã đánh giá được khó khăn chung để chủ động nắm lấy thời cơ để
vươn lên đẩy lùi và khắc phục các nguy cơ xuất phát từ tình hình
trên. Đảng đã đề ra cương lĩnh cần tiếp tục nắm vững 2 nhiệm vụ
20


chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc. Từ nay đến 2000 ra
sức để trở thành nước công nghiệp.
Với những chính sách phát triển thích hợp chúng ta đã được
một số bước tiến quan trọng, bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ, là
thành viên của khối Asean, đặc biệt 1998 nước ta đã trở thành
thành viên của khối APEC (diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương)... Từ chỗ bị bao vây cấm vận đến nay nước ta đã quan
hệ ngoại giao với 167 nước, quan hệ thương mại với 120 nước, phát
triển quan hệ tốt đẹp với các nước láng giềng. Đó là ý nghĩa to lớn
trong việc giữ vững mơi trường hịa bình ổn định, là nền tảng xây
dựng và bảo vệ tổ quốc.
Tăng trưởng GDP tiếp tục tăng cao,1996 là 9,3%, 1997 là 8,2%
1998 là 5,8%, lạm phát chiếm dưới 10%. Tốc độ tăng trưởng công
nghiệp vẫn là hai con số...đời sống nhân dân càng ổn định tăng
cao .
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam ngày càng đúng đắn, chính vì
Đảng ngày càng nắm vững và vận dụng đúng đắn phương pháp
luận triết học toàn diện Mác-Lênin. Mối quan hệ kinh tế biện chứng

giữa kinh tế và chính trị ngày càng rõ nét, đơn cử từ việc thiếu ăn
bây giờ Việt Nam trở thành nước thứ 3 xuất khẩu gạo trên thế giới.
Lòng tin của nhân dân ngày càng tăng cao. Ngồi ra cịn tăng
trưởng tổng sản phẩm quốc dân, về tốc độ thu hút vốn đầu tư nước
ngoài, về xuất khẩu …
Đứng trước ngưỡng cửa thế kỷ 21, khi mà xu thế hội nhập đang tăng cao, nền
kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ thì các hành động đều xuất phát từ quá trình
nhận thức và cải tạo thực tiễn là phương châm chỉ đạo và hoạt động của Đảng, Nhà
nước ta:”Mọi đường lối chủ trương của Đảng xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật
khách quan và hành động theo quy luật khách quan. Đất nước ta đang bước vào thời
kì cơng nghiệp hố hiện đại hố, Đảng ta chủ trương “lấy việc phát huy nguồn lực con
người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”, nâng cao trình độ dân
trí, trình độ tri thức và tay nghề cho người lao động. Muốn vậy “phải khơi dậy trong
dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm
21


đưa nước nhà khỏi nghèo nàn, lạc hậu” - tức phát huy tính năng động của ý thức. Đẩy
mạnh đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tiếp
tục làm sang tỏ con đường đi lên CNXH ở nước ta. Nâng cao công tác tuyên truyền
giáo dục lí luận chính trị để tạo nên sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong
Nhân dân.
Trong xu thế tồn cầu hố và hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội cho Việt Nam
tăng cường giao lưu học hỏi tiếp thu nền văn hoá tinh hoa của nước ngồi. Bên cạnh
đó cho phép chúng ta khai thác lợi thế về kỹ thuật công nghệ khoa học của các nước
phát triển. Với xu thế phát triển nhanh của nền kinh tế thế giới, những chính sách đổi
mới của Đảng và Nhà Nước xuất phát từ thực tiễn tình hình đất nước đáng phát huy
mạnh mẽ tính ưu việt của nó. Đảng đã đề ra nhiều đường lối chủ trương, các chính
sách vĩ mơ nhằm duy trì ổn định nền kinh tế. vd: việc sử dụng chính sách tài khố để
kích cầu đầu tư, kích cầu tiêu dùng …đưa nền kinh tế ra khởi giảm sút tốc độ tăng

trưởng, kiềm chế lạm phát. Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, nắm bắt quy luật kinh
tế, quy luật sản xuất lại càng cần thiết để cải tạo thực tiễn, tạo ra phương hướng và
mục tiêu đúng đắn phát triển đi lên. Chỉ có thế nước ta mới theo kịp được trình độ
phát triển kinh tế chung của khu vực và trên thế giới. Vì vậy, cần đẩy mạnh hơn nữa
cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố, đổi mới một cách toàn diện mọi lĩnh vực.
Sự đổi mới này phải đồng bộ, tuân theo quá trình nhận thức và tình hình thực tiễn đất
nứoc. Phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường
nhưng phải dưới sự quản lý của Nhà nước là theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

PHẦN KẾT LUẬN
Nói tóm lại, vật chất bao giờ cũng đóng vai trị quyết định đối
với ý thức, nó là cái có trước ý thức, nhưng ý thức lại tác động trở lại
vật chất. Mối quan hệ tác động qua lại này chỉ được thực hiện thông
qua hoạt động thực tiễn của con người. Chúng ta nâng cao vai trò
của ý thức với vật chất chính là ở chỗ nâng cao năng lực nhận thức
các quy luật khách quan và vận dụng các quy luật khách quan trong
hoạt động thực tiễn và trong cuộc sống của con người. Đổi mới toàn
bộ nền kinh tế ở Việt Nam là một sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp,
nó như cuộc chiến đấu kháng chiến trường kì của Đảng và nhà nước .
22


Quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, vận dụng thành thạo phép biện chứng duy vật vào việc
nghiên cứu và quản lý kinh tế, phát huy mạnh mẽ quan hệ giữa kinh
tế và chính trị trong cơng cuộc đổi mới nhằm tăng trưởng nền kinh
tế quốc dân, nhất định chúng ta sẽ trở thành những nhà quản lý giỏi
góp phần xứng đáng vào công cuộc đổi mới của đất nước, tạo điều
kiện để nền kinh tế Việt Nam phát triển cao, từ đó nâng cao vị trí
Việt Nam trên chính trường quốc tế, góp phần củng cố sự ổn định về

chính trị của đất nước.
Trong q trình làm bài, em cịn gặp phải nhiều sai sót, mong
nhận được sự bổ khuyết từ phía thầy giáo phụ trách bộ môn Triết
Học Mác- Lênin (120)-28 để em có điều kiện hồn thiện hiểu biết về
cả lí luận và thực tiễn, rút kinh nghiệm cho những bài làm tiếp theo.
Em xin chân thành cảm ơn !

TƯ LIỆU THAM KHẢO
1, Tr.17, 18 - Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa MácLê nin (Nhà xuất bản chính trị quốc gia)
2, C.Mác và Ph.Ăngghen. Tồn tập, t.21. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1995, tr. 528.
3, Slideshare
4, LuanVan.net.vn

23


24


25


×