Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biên chứng về phạm trù Vật Chất. Ý nghĩa phương pháp luận.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.29 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KĨ THUẬT TPHCM
KHOA: ĐÀO TẠO CHUẤT LƯỢNG CAO

Tiểu luận môn:
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC-LENIN.
Đề tài: Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biên chứng về phạm trù
Vật Chất. Ý nghĩa phương pháp luận.
Sinh viên:
1.
TP HCM, tháng 5 năm 2015
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KĨ THUẬT TPHCM
KHOA: ĐÀO TẠO CHUẤT LƯỢNG CAO

Tiểu luận môn: NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA
CHỦ NGHĨA MÁC-LENIN.
Đề tài: Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biên chứng về phạm trù
Vật Chất. Ý nghĩa phương pháp luận.
TP HCM, tháng 5 năm 2015
2
MỤC LỤC
Trang
I. Phần mở đầu 4
II. Phần nội dung 5
Chương 1: Quan điểm vật chất của các trường phái triết học 5
1.1. Phạm trù vật chất. 5
1.2. Theo quan niệm về vật chất thời cận đại Tây âu 6
Chương 2: Quan điểm vật chất trong triết học Mác-Lênin Vật chất
không bị tiêu tan 8
2.1. Định nghĩa về vật chất của Lênin ,,, 8


2.2. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất 10
Chương 3: Ý nghĩa phương pháp luận 15
III. Phần kết luận 17
3
IV.Tài liệu tham khảo 18
PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Đặt vấn đề.
Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian tại
một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp.
Triết học nghiên cứu thế giới bằng phương pháp của riêng mình khác với mọi khoa
học cụ thể, nó xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm cách đưa ra một hệ thống
các quan niệm về chỉnh thể đó. Trong cuốn tài liệu này chúng ta sẽ tìm hiểu rõ một số
khái niệm cũng như phương thức tồn tại của chủ thế đó. Vấn đề chúng ta cần tìm hiểu
là:
+ Vật chất là gì?
+ Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất là gì?
+ Tính thống nhất vật chất của thế giới.
+ Phạm trù vật chất có ý nghĩa gì đối với xã hội ngày nay ?
+
Lịch sử của triết học cho thấy, mặc dù có nhiều cách trả lời khác nhau về vấn đề
này, nhưng suy cho cùng đều quy về hai quan điểm chính đối lập nhau là biện chứng
và siêu hình.
Trong đó, qua từng thời kì phát triển của triết học ta đã thấy được rằng chủ nghĩa
duy vật biện chứng nghiên cứu những quy luật phổ biên của sự vận động và phát
triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy, nó cung cấp phương pháp
luận khoa học cho con người nhận thức và cải tạo thế giới, vì lợi ích của mình.
Những lý thuyết về phép biện chứng duy vật không chỉ giúp ta nắm vững
những nguyên tắc phương pháp luận của các khoa học triết học, mà còn cung cấp
vũ khí luận sắc bén cho giai cấp vô sản chiến thắng kẻ thù của chủ nghĩa xã hội.
Chính nhờ vậy mà Đảng và Nhà nước ta luôn trung thành với những nguyên lý, lý

luận của chủ nghĩa Mac-Lenin nói chung và triết học Mac-Lenin nói riêng. để vận
dụng nó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đang tiếp tục thực
hiện kế hoạch hiện đại hoá công nghiệp hoá đất nước theo định hướng Xã hội chủ
nghĩa, vì vậy việc nghiên cứu chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhất là nắm vững bản
chất của phép biện chứng duy vật là một đòi hỏi cần thiết và quan trọng. Để làm rõ
những vấn đề cần nghiên cứu đó thì đề tài: “Quan điềm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng về phạm trù Vật Chất. Ý nghĩa phương pháp luận . ” đã được chọn để làm
tiểu luận này.
4
5
Phần II: NỘI DUNG
Chương 1: QUAN NIỆM VỀ VẬT CHẤT CỦA CÁC TRƯỜNG PHÁI TRIẾT
HỌC.
1.1. Phạm trù vật chất.
Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử khoảng 2500 năm. Ngay từ
lúc mới ra đời xung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh không khoan
nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủa nghĩa duy tâm. Đồng thời, giống như mọi phạm
trù khác, phạm trù vật chất có quá trình phát sinh và phát trine63 gắn liền với hoạt động
thực tiễn của con người và với sự hiểu biết của con người về thế giới tự nhiên.
Theo quan điểm của chù nghĩa duy tâm thì thực thể của thế giới tự nhiên của thế
giới, cơ sơ của mọi tồn tại là một bảng nguyên tinh thần nào đó, có thể là “ý chí” của
thượng đế, “ ý niệm tuyệt đối” vv chẳng hạn, Platon nhà triết học duy tâm khách quan lớn
nhất thời cỗ đại cho rằng vật chất bắt nguồn từ “ ý niệm”, sự cảm tính là cái bóng của “ ý
niệm”. Mặt khác, ông tỏ ra căm thù chủ nghĩa duy vật, kết tội các nhà duy vật, nhất là các
môn đồ của Đemô out là vị thần – một tội kết án tử hình theo luật của Aten thời bấy giờ,
và đã đốt hết tác phẩm của Đêmôrit. Hêghen nhà duy tâm khách quan của triết học cổ điển
Đức cho rằng “ Vật chất là do ý niệm tuyệt đối sinh ra”. Mặt khác, ông có thái độ thiên
lịch đối với chủ nghĩa duy vật, đã cố tình xuyên tạc, vu khống triết học duy vật của
Heraclit và Epiquya. Beccli đã hệ thống một số quan điểm của chủ nghĩa duy tâm chủ
quan đưa ra một số công thức chung “ tổ tại tức là được tri giác”. Ý nghĩa của công thức là

mọi sự tồn tại trong chừng mực con người cảm thấy chúng, cái gì ngoài tri giác là không
tồn tại, không có chủ thẻ thì không có khách thể công thức này đã phủ nhận khách quan sự
tồn tại của vật chất, kể cả con người, tất yếu dẫn tới chủ nghĩa duy ngã, nghĩa là ngoài cái
tôi ra thì không có cái gì hết. Vào thời kỳ cổ đại các nhà triết học duy vật đã đồng nhất vật
chất nói chung là những dạng cụ thể của nó, tức là những vật thể hữu hình cảm tính đang
tồn tại ở thế giới bên ngoài. ở Trung Hoa thời cổ đại, các nhà duy vật coi khí là thực thể
của thế giới ở Ấn Độ thời cổ đại phái Ngaya - Vaisếika coi nguyên tử là thực thể của thế
giới ở Hy Lạp cổ đại, Talet coi thực thể của thế giới là nước Anaximen coi thự thể ấy là
khí Hêraclit coi thực thể ấy là lửa. Phủ nhận quan điểm thực thể của thế giới là một chất
cụ thể, Ămpêđoclơ đã coi thực thể và không khí Anaximanctrơ cho rằng thực thể về thế
6
giới là một bản nguyên tử không xác định về chất, vô tận về mặt lượng, đó là Apeirôn.
Đỉnh cao của tư tưởng duy vật cổ đại về vật là thuyết nguyên tử của Lơxip, và
Đêmôgrip… Nguyên tử là các phần tử cực nhỏ, cứng không thể xâm nhập được không
cảm giác được. Nguyên tử có nhiều loại sự kết hợp hoặc tách rời nguyên tử theo trật tự
khác nhau của không gian tạo nên toàn bộ thế giới. Thuyết nguyên tử còn mang tính chất
phác nhưng phỏng đoán thiên tài ấy về cấu tạo vật chất đã có ý nghĩa định hướng đối với
sự phảt triển khoa học nói chung đặc biệt là vật lý học khi phát hiện ra sự tồn tại hiện thực
của nguyên tử.
1.2. Theo quan niệm về vật chất thời cận đại Tây âu.
Từ thời kỳ Phục Hưng, đặc biệt là thời kỳ cận đại thế kỷ XVII - XVIII, khoa học tự
nhiên thực nghiệm Châu Âu phát triển khá mạnh. Chủ nghĩa duy vật nói chung và phạm
trù vật chất nói riêng đã có bước phát triển mới chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng. Mở
đầu thời kỳ này lần đầu tiên Copecnich chứng minh mặt trời là trung tâm đã làm đảo lộn
truyền thuyết của kinh thánh và quan điểm thần học về thế giới. Phranxi Bêcơn coi thế
giới vật chất tồn tại khách quan, vật chất là tổng hợp các hạt, coi tự nhiên là tổng hợp của
những vật thể có chất lượng muôn màu, muôn vẻ coi vận động là một thuộc tính không
tách rời khỏi vật chất Pierơ Gat xăng đi phát triển học thuyết nguyên tử cổ đại và cho rằng
thế giới gồm những nguyên tử có đặc tính tuyệt đối như tính kiên cố và tính không thể
thông qua. Đêcáctơ trong học thuyết vật lý duy vật của mình đã xuất phát từ vật chất vận

động để giải thích thế giới. Xpinôza cho rằng chỉ có tự nhiên là tồn tại, tự nhiên là nguyên
nhân tự nó, để tồ tại thì tự nhiên chẳng cần cái gì khác. Ông cho rằng thực thể là thống
nhất còn vật hữu hạn thì nhiều vô kể .
Vào thế kỷ XVIII các nhà duy vật Pháp đã phát triển phạm trù vật chất lên một
bước mới. Điđrô cho rằng, trong vũ trụ, trong con người, trong mọi sự vật chỉ chỉ có thực
thể duy nhất là vật chất vật chất là nguyên nhân duy nhất của máy móc về vân động, ông
nêu lên tư tưởng biện chứng rằng bản tính cố hữu của vật chất là vận động, vận động là
năng lực sống động của vật chất vận động có cả ở vật chất đang vận động lẫn đứng yên.
Ông coi quá trình vận động và phát triển của vật chất, giới tự nhiên sẽ chọn lọc những gì
giúp cho ngày càng hoàn thiện, đồng thời đào thải những vật không thích nghi Honbach
khẳng định rằng tự nhiên là nguyên nhân đầu tiên của vạn vật.
Vật chất theo honbach đó là tất cả những gì tác động bằng cách nào đó vào cảm
giác của chúng ta tuy vậy khoa học thời kỳ này chỉ có cơ học cổ điển phát triển nhất, còn
7
các ngành khoa học khác như vật lý học, hoá học, sinh học, địa chất học còn ở trình độ
thấp khoa học lúc này chủ yếu dừng lại ở trình độ sưu tập mô tả. Tương ứng với trình độ
trên của khoa học thì quan điểm thống nhất trong triết học và khoa học tự nhiên thời bấy
giờ đó đã chi phối triết học về vật chất. Người ta giải thích mọi hiện tượng tự nhiên bằng
sự tác động qua lại của lực hấp dẫn và lực đẩy củacác phân tử vật tư, theo đó các phần tử
của các phân tử vật thể, theo đó các phần tử của vật trong quá trình vận động là bất biến
còn cái thay đổi chỉ là trạng thái không gianvà tập hợp của chúng.
Mọi phân biệt về chất giữa vật thể đều bị quy giảm về sự phân biệt về lượng, mọi sự
vận động đều bị quy giảm về sự phân biệt về lượng, sự dịch chuyển vị trí trong không
gian, mọi hiện tượng phức tạp đều bị quy về cái giản đơn mà từ đó chúng được thành
thành. Niềm tin vào các chân lý trong cơ học Niutơn đã khiến các nhà khoa học đồng nhất
vật chất với khối lượng, coi vận động của vật chất chỉ là biểu hiện của vật động cơ học,
nguồn gốc vận động nằm ngoài vật chất. Kế thừa quan điểm nguyên tử luận cổ đại, các
nhà triết học duy vật cận đại vẫn coi nguyên tử là phần tử nhỏ nhất, không thể phân chia
được, tách rời nguyên tử với vận động, không gian với thời gian.v.v
Đến cuối thế XIX đầu thế kỷ XX khi xuất hiện những phát minh mới trong khoa

học tự nhiên con người mới có những hiểu biết căn bản hơn sâu sắc hơn về nguyên tử.
Năm 1895 Ronghen phát hiện ra tia X, một loại máy điện từ có bước sóng từ 0,01 đến
100.10-8 cm. Năm 1896 Beccơren đã phát hiện ra hiện tượng phóng xạ, đã bác bỏ quan
niệm về sự bất biến của nguyên tử. Năm 1897 Jonson phát hiện ra điện tử và chứng minh
được điện tử là một trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử. Nhờ phát minh này,
lần đầu tiên trong khoa học sự tồn tại hiện thực của nguyên tử đã được chứng minh bằng
thực nghiệm. Năm 1901, Kauyman đã chứng minh được khối lượng của điện tử không
phải là khối lượng tĩnh, mà là khối lượng thay đổi theo tốc độ vận động của điện tử.
Những phát hiện đó là bước tiến mới của loài người trong việc nhận thức và làm chủ giới
tự nhiên nó bác bó quan niệm siêu hình về vật chất.
Những quan niệm đương thời về thế giới hạn tột cùng của vật chất là nguyên tử
hoặc khối lượng đã sụp đổ trước khoa học. Vấn đề là ở chỗ trong nhận thức lúc đó các hạt
điện tích và trường điện từ là cái gì đó phi vật chất. Đây chính là mảnh đất để chủ nghĩa
duy tâm lợi dụng những người theo chủ nghĩa duy vật đã biến mất, nền tảng của chủ nghĩa
duy vật đã sụp đổ chính trong hoàn cảnh như vậy Lênin đã khái quát những thành tựu của
khoa học tự nhiên và chỉ rõ rằng vật chất không bị tiêu tan.
8

Chương 2: QUAN NIỆM VỀ VẬT CHẤT TRONG TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN –
VẬT CHẤT KHÔNG BỊ TIÊU TAN :
Cái bị tiêu tan bị bác bỏ chính là giới hạn hiểu biết trước đấy về vật chất, là quan
điểm siêu hành máy móc trong nhận thức khoa học cho rằng giới tự nhiên là có tận cùng
về cấu trúc, rằng giới hạn cuối cùng bất biến của giới tự nhiên là nguyên tử hoặc khối
lượng. Từ đó Lênin kết luận "điện tử cũng vô cùng vô tận như nguyên tử, tự nhiên là vô
tận".
Đồng thời Lênin chỉ rõ ràng sự thay thế một số khái niệm này bằng một số khái
niệm khác trong nhận thức về thế giới chỉ chứng tỏ khoa học, sự phản ánh hiện thực khách
quan cứ hoàn thiện mãi lên, chính tỏ sự hiểu biết của con người ngày càng sâu sắc, theo
nghĩa ấy mà nói thì vật lý họcn lúc đó đang trải qua bước khủng hoảng trưởng thành và
nguyên nhân của sự khủng hoảng đó nằm ngay trong bước nhảy vọt của nhận thức con

người khi chuyển từ thế giới vĩ mô sang thế giới vi mô. Trên cơ sở phân tích ấy Lênin đưa
ra định nghĩa về phạm trù vật chất, một định nghĩa mà cho tới nay các khoa học hiện đại
vẫn thừa nhận.
2.1. Định nghĩa về vật chất của Lênin.
Theo Lênin vật chất là một phạm trù rộng đến cùng cực, rộng nhất mà cho đến nay
thực ra nhận thức luận vẫn chưa vượt quá quá được. Khi định nghĩa phạm trù này không
thể quy nó về vật thể hoặc một thuộc tính cụ thể nào đó, cũng không thể quy về phạm trù
cụ thể rộng hơn vì đến nay chưa có phạm trù nào rộng hơn phạm trù vật chất. Do vậy chỉ
có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong quan hệ với ý thức, phạm trù đối lập với nó và
trong quan hệ ấy, vật chất là tính thứ nhất ý thức là tính thứ hai.
Bằng phương pháp như vậy định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin được diễn đạt
như sau: "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại chụp lại, phản ánh và
tồn tại khong lệ thuộc vào cảm giác".
Ở định nghĩa trên Lênin phân biệt hai vấn đề quan trọng: Trước hết cần phân biệt
vật chất với tư cách là phạm trù triết học với các quan niệm của khoa học tự nhiên về cấu
9
tạo và những thuộc tính cụ thể của đối tượng các dạng vật chất khác nhau. Vật chất với tư
cách là phạm trù triết học nó chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô tận không sinh ra, không
mất đi, còn các đối tượng các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn nó
sinh ra và mất đi để chuyển hoá thành cái khác. Vì vậy, không thể đồng nhất vật chất nói
chung với những dạng cụ thể của vật chát như các nhà duy vật trọng lịch sử cổ đại, cận đại
đã làm.
Thứ hai là trong nhận thức luận, khi vật chất đối lập với ý thức, cái quan trọng để
nhận biết vật chất chính là những thuộc tính khách quan khách quan theo Lênin là "cái
đang tồn tại độc lập với loài người với cảm giá của con người". Trong đời sống xã hội "vật
chất là cái tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức xã hội của con người". Về mặt nhận
thức luận thì khái niệm vật chất không có gì khác hơn". Thực tại khách quan tồn tại độc
lập với ý thức con người và được ý thức con người phản ánh".
Như vậy định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin bao gồm những nội dung cơ bản

sau đây:
- Vất chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức,
bất kể sự tồn tại ấy con người nhận đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.
- Vật chất là cái gây nên cảm giác con của con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp tác
động lên giác quan của con người.
- Cảm giác, tư duy ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất.
Với những nội dung cơ bản trên phạm trù vật chất trong định nghĩa của Lênin có
nhiều ý nghĩa to lớn.
Khi khẳng định vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người trong
cảm giác "tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác". Lênin đã thừa nhận rằng trong nhận thức
luận, vật chất là tính thứ nhất, là nguồn gốc khách quan của cảm giác ý thức. Và khi khẳng
định vật chất là cái mà chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh. Lênin muốn nhấn mạnh rằng
bằng những hương thức nhận thức khác nhau con người có thể nhận thức được thế giới vật
chất.
Như vậy, định nghĩa vật chất của Lênin đã bác bỏ thuyết không thể biết, đã khắc
phục đã khắc phục được những khiếm khuyết trong các quan điểm siêu hình máy móc về
10
vật chất. Đồng thời định nghĩa vật chất của Lênin còn có ý nghĩa định hướng đối với khoa
học cụ thể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức mới của vật thể trong thế giới.
Khi nhận thức được hiện tượng đời sống xã hội, định nghĩa vật chất của Lênin cho
phép xác định cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã hội từ đó giúp các nhà khoa học có cơ sở
lý luận để giải thích những nguyên nhân cuối cùng của biến cố xã hội, những nguyên nhân
thuộc về sự vận động của phương thức sản xuất trên cơ sở ấy người ta có thể tìm ra các
phương án tối ưu để thúc đẩy xã hội phát triển.
2.2. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất.
Trong triết học bàn về phạm trù vật chất luôn gắn liền với việc phải bàn về tới các
phạm trù liên quan tới sự tồn tại của nó. Đó là phạm trù vận động không gian và thời gian.
Đó là phạm trù vận động không gian và thời gian. Những phạm trù trên xuất hiện sớm
trong lịch sử triết học.
Cùng với thời gian, nội dung của các phạm trù trên đã được làm phong phú hơn, sâu

sắc hơn nhờ sự phát triển của các khoa học cụ thể. Khác với khoa học chuyên biệt, triết
học không nghiên cứu những biểu hiện cụ thể của các phương thức tồn tại của vật chất mà
chỉ làm sáng tỏ một số đặc trưng phổ quát nhất của cuộc vận động của vật chất trong
không gian và thời gian.
Trước hết ta cần xem khái niệm vận động là gì ? . Theo quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, vận động không chỉ là sự thay đổi vị trí trong không gian (hình thức
vận động thấp, giản đơn của vật chất) mà theo định nghĩa chung "vận động là mọi sự biến
đổi nói chung. Ph.Anghen viết: "vận động hiểu theo nghĩa chung nhất bao gồm tấ cả mọi
sự thay đổi (theo) và quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho
đến tư duy".
Khi định nghĩa vận động là sự biến đổi nói chung thì vận động là "thuộc tính cố
hữu của vật chất" là phương thức tồn tại của vật chất"
Điều này có nghĩa là vật chất tồn tại bằng cách vận động. Trong vận động và thông
qua vận động mà các dạng vật chất biểu hiện bộc lộ sự tồn tại của mình chỉ rõ mình là cái
gì. Không thể có vật chất mà không có vận động. Một khi chúng ta nhận thức được những
hình thức vận động của vật chất thì chúng ta nhận thức được bản thân vật chất. Với tính
11
cách là thuộc tính cố hữu của vật chất, theo quan điểm của triết học Mác Lênin vận động
là sự tự thân vận động của vật chất được tạo nên từ sự tác động lẫn nhau của các thành tố
nội tại trong cấu trúc vật chất.
Quan điểm này đối lập với quan điểm duy tâm hoạc siêu hình về vận động. Những
người theo quan điểm duy tâm hoặc siêu hình không đi tìm nguồn gốc của vận động ở bên
trong bản thân của sự vật, mà đi tìm nguồn gốc ở ngoài sự vật. Quan điểm sự tự thân vận
động của vật chất đã được chứng minh bởi những thành tựu của khoa học tự nhiên và
ngày càng những phát kiến mới của khoa học tự nhiên hiện đại càng khẳng định quan
điểm đó.
Vật chất là vô hạn, vô tận không sinh ra không mất đi mà vận động là thuộc tính
không thể tách rời vật chất nên bản thân sự vận động cũng không thể tách rời vật chất nên
bản thân sự vận động cũng không thể bị mất đi hoặc sáng tạo ra. Kết luận này của triết học
Mác Lênin đã được khẳng định bởi định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng theo

định luật này, vận động, của vật chất được bảo toàn cả về mặt lượng và chất. Nếu một
hình thức vận động nào đó của sự vật bị mất đi thì tất yếu sẽ nảy sinh một hình thức vận
động khác thay thế nó.
Các hình thức vận động chuyển hoá lẫn nhau, còn vận động của vật chất thì vĩnh
viễn, tồn tại cùng với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất. Thuyết tương đối và một số lý
thuyết vật lý khác của Anhxtanh có bàn đến sự phụ thuộc lẫn nhau giữa khối lượng và
năng lượng (E - mc2), hay quy luật tương đương giữa khối lượng biến thành năng lượng
quy luật này là bằng chứng mới của khoa học tự nhiên về sự thống nhất của vật chất và
vận động cũng như tính không thể sáng tạo ra và tiêu diệt được của vật chất và vận động.
Bằng chứng ấy đã phủ định quan điểm của thuyết duy năng ra đời vào cuối thế kỷ XIX
trong một bộ phận các nhà khoa học tự nhiên đã quy tất cả những hiện tượng thiên nhiên
thành những biến thể khác nhau của năng lượng không có cơ sở vật chất. Đồng thời, bằng
chứng ấy cũng phủ định quan điểm của một số nhà triết học duy tâm muốn tách rời vận
động ra khỏi vật chất, thay thế khái niệm vật chất bằng khái niệm năng lượng.
Dựa trên những thành tựu của khoa học thời đại mình. PhAnghen đã phân chia vận
động thành 5 hình thức cơ bản. Từ đó cho đến nay khoa học hiện đại đã phát hiện ra
những hình thức tổ chức vật chất mới, do đó đã phát hiện ra những hình thức mới của vận
động.
12
Chẳng hạn, khoa học đã chia hình thức vận động của vật chất thành ba nhóm tương
ứng với ba lĩnh vực của thế giới vật chất là nhóm thế giới vô sinh, nhóm hữu sinh và xã
hội. Đồng thời khoa học còn phát triển và bổ sung về các hình thức vận động cơ bản như
vấn đề quan hệ giữa vận động cơ học và vật lý, giữa vật lý và hoá học, bản chất của vận
động sinh học, mối quan hệ giữa quá trình vật chất và tinh thần trong đời sống xã hội v.v
Tuy nhiên cách phân loại phổ biến, chung nhất cho đến nay vẫn là chia (hình thức) vận
động thành năm hình thức cơ bản sau:
1. Vận động cơ học: sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.
2. Vận đông vật lý: Vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử, các
quá trình nhiệt điện…
3. Vận động hoá học: vận động của các nguyên tử, các quá trình hoá hợp và phân

giải các chất.
4. Vận động sinh học: Trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường.
5. Vận động xã hội: Sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội của các hình thái kinh
tế xã hội.
Đối với sự phân loại vận động của vật chất thành 5 hình thức xác định như trên, cần
chú ý nguyên tắc quan hệ giữa chúng là:
Các hình thức vận động nói trên khác nhau về chất. Từ vận động cơ học đến vận
động xã hội khác nhau về trình độ của sự vận động, những trình độ này tương ứng với
trình độ của các kết cấu vật chất.
Các hình thức vận đọng cao dựa trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hàm
trong nó tất cả các hình thức vận động thấp hơn. Trong khi đó, các hình thức vận động
thấp không có khả năng bao hàm các hình thức vận động ở trình độ cao hơn. Bởi vậy, mọi
sự quy giảm các hình thức vận động thấp đều là sai lầm.
Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động
khác nhau. Tuy nhiên bản thân tồn tại của sự vật đó bao giờ cũng đặc trưng bằng những
hình thức vận động cơ bản. Ví dụ trong cơ thể sinh vật có các hình thức vận động khác
nhau như vận động cơ học, vận động vật lý, vận động hoá học, vận động sinh học, nhưng
hình thức vận động sinh học mới là đặc trưng cơ bản của (loài người) sinh vật. Vận động
xã hội là hình thức đặc trưng cho hoạt động của con người.
13
Chính bằng sự phân loại các hình thức vận động cơ bản, Ph.Anghen đã đặt cơ sở
cho sự phân loại các khoa học tương ứng đối với nghiên cứu của chúng và chỉ ra cơ sở của
khuynh hướng phân ngành và hợp ngành của các khoa học. Ngoài ra tư tưởng về sự khác
nhau về chất và thống nhất của các hình thức vận động cơ bản còn là cơ sở để chống lại
khuynh hướng sai lầm trong nhận thức là quy hình thức vận động cao vào các hình thức
vận động thấp và ngược lại.
Ví dụ từ giữa thế kỷ XIX, những người theo chủ nghĩa Đacuyn xã hội" muốn quy
vận động vật chất thành vận động sinh học, xem con người như một sinh vật thông thường
giải thích hoạt động của xã hội loài người trong phạm vi tác động của quy luật sinh học là
đấu tranh để sinh tồn. Họ cho rằng đấu tranh để sinh tồn dẫn đến tiêu diệt lẫn nhau trong

xã hội loài người là một hiện tượng tự nhiên. Về cơ bản, chủ nghĩa "Đacuyn xã hội" là
một học thuyết phản động nó đã cực đoan hoá và làm méo mó học thuyết tiến hoá của
Đacuyn. Nguyên nhân chính tạo ra sai lầm này là những người theo học thuyết đó không
thấy được sự khác nhau về trình độ giữa vận động sinh học và vận động xã hội, họ quy
giản một cách gượng ép vận động xã hội về vận động sinh học.
Khi triết học Mác Lênin khẳng định thế giới vật chất tồn tại trong sự vận động vĩnh
cửu của nó thì điều đó không có nghĩa là phủ nhận hiện tượng đứng im của thế giới vật
chất. Trái lại triết học Mác - Lênin thừa nhận rằng, quá trình vận động không ngừng của
thế giới vật chất chẳng những không loại trừ mà còn bao hàm trong nó hiện tượng đứng
im tương đối, không có hiện tượng đứng im tương đối thì không có sự vật nào tồn tại
được. "Trong vận động của các thiên thể, có vận động trong cân bằng và có vận động
trong vận động. Nhưng bất kỳ vận động tương đối riêng biệt nào cũng đều có xu hướng
khôi phục lại sự đứng yên tương đối của các vật thể khả năng cân bằng tạm thời là những
điều kiện chủ yếu của sự phân hoá của vật chất.
Đặc điểm cơ bản của hiện tượng đứng im tương đối (hay trạng thái cân bằng tạm
thời của sự vật trong quá trình vận động của nó) là trước hết hiện tượng đứng im tương
đối chỉ xảy ra trong một mối quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi mối quan hệ
cùng một lúc. Ta nói con tàu đứng im là trong mối quan hệ bến cảng, còn so với mặt trời
và các thiên thể khác thì nó vận động theo sự vận động của quả đất.
Thứ hai, đứng im chỉ xảy ra với một hình thái vận động trong một lúc nào đó, chứ
không phải với mọi hình thức vận động trong cùng một lúc. Ta nói con tàu đứng im là nói
14
vận động cơ học, nhưng ngay lúc đó thì vận động vật lý, vận động hoá học cứ diễn ra
trong bản thân nó.
Thứ ba, đứng im chỉ biểu hiện trạng thái vận động của nó, đó là vận động trong
thăng bằng trong sự ổn định tương đối biểu hiện thành một sự vật, một cây, một con…
trong khi nó còn là nó chưa bị phân hoá thành cái khác. Chính nhờ trạng thái ổn định đó
mà sự vật thực hiện được di chuyển hoá tiếp theo, không có đứng im tương đối thì không
có sự vật nào cả.
Do đó đứng im còn được biểu hiện như một quá trình vận động trong phạm vi chất

của sự vật còn ổn định, chưa thay đổi. Thứ tư, là vận dộng ổn định nào đó, còn vận động
nói chung tức là sự tác động qua lại lẫn nhau giữa sự vật và hiện tượng làm cho tất cả
không ngừng biến đổi. Vì thế đứng im chỉ là một hiện tượng tạm thời. Ph.Anghen chỉ rõ:
"vận động riêng biệt có xu hướng chuyển thành cân bằng, vận động toàn bộ phá hoại sự
cân bằng riêng biệt" và "mọi sự cân bằng chỉ là tương đối và tạm thời".
15
Chương 3: Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN.
 Ý nghĩa phương pháp luận.
Thứ nhất, định nghĩa vật chất của Lênin đã tiếp thu có tính phê phán những quan điểm
của chủ nghĩa duy vật trước đây và chống lại quan niệm sai lầm của triết học duy tâm, về
vật chất. Định nghĩa vật chất của Lênin cho phép xác định cái gì là vật chất trong lĩnh vực
xã hội để có thể giải thích nguồn gốc, bản chất và các quy luật khách quan của xã hội.
Thứ hai, định nghĩa vật chất của Lênin đã giải đáp một cách khoa học về vấn đề cơ
bản của triết học từ quan điểm đến thực tiễn.
Đối với chủ nghĩa duy vật trước Mác về cơ bản có những quan điểm đúng về mặt tự
nhiên nhưng lại duy tâm về mặt xã hội, nên nó rất hạn chế và không có ý nghĩa cách mạng
triệt để đối với quá trình cải tạo hiện thực khách quan của con người. Mác khẳng định
nhiệm vụ của triết học phải có ý nghĩa cải tạo thế giới. Tính chất siêu hình máy móc và
trực quan của chủ nghĩa duy vật trước Mác không thấy được tính năng động và sáng tạo
của ý thức.
Trong triết học trước Mác vế cơ bản đều không thấy được vai trò của thực tiễn đối với
nhận thức và đối với sự phát triển của xã hội. Cơ sở lý luận của các hệ thống triết học
trước kia, nhất là triết học duy tâm không phải quan điểm từ vật chất, từ hoạt động thực
tiễn, mà chủ yếu là sự nhấn mạnh đến vai trò quyết định của cái tinh thần, của lực lượng
siêu nhiên,…
Việc đưa quan điểm thực tiễn vào lý luận, triết học Mác không những thực hiện một
cuộc cách mạng trong lĩnh vực triết học mà còn tạo cơ sở để khắc phục những hạn chế của
chủ nghĩa duy vật trước Mác, phê phán những quan điểm sai lầm của triết học duy tâm.
Giải quyết khoa học vấn đề cơ bản triết học, triết học Mác được coi là cơ sở lý luận về
thế giới quan và lý luận để nghiên cứu những vấn đề chung của triết học và khoa học.

Chống lại những quan điểm duy ý chí chủ quan, quan điểm duy vật tầm thường,…
Trên cơ sở quan điểm về bản chất vật chất của thế giới, bản chất năng động, sáng tạo
của ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, chủ nghĩa duy vật biện
chứng xậy dựng nên một nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, chung nhất đối với mọi
16
hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người.Nguyên tắc đó là: Trong mọi hoạt động
nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan,
đồng thời phát huy tính năng động chủ quan. Theo nguyên tắc phương pháp này, mọi hoạt
động nhận thức và thực tiễn của con người chỉ có thể đúng đắn, thành công và có hiệu quả
khi và chỉ khi thực hiện đồng thời giữa việc xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng
thực tế khách quan với phát huy tính năng động chủ quan phát huy tính năng động chủ
quan phải là trên cơ sở và trong phạm vi điều kiện khách quan, chống chủ quan duy ý chí
trong nhận thức và thực tiễn.
Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan là xuất phát từ khách quan của
vật chất, có thái độ tôn trọng đối với thực tế khách quan, mà căn bản là tôn trọng quy luật,
nhận thức và hành động theo quy luât, tôn trọng vai trò quyết định của đời sống vật chất
đối với đời sống tinh thần của con người, của xã hội. Điều đó đòi hỏi trong nhận thức và
hành động cua con người phải xuất phát từ thực tế khách quan để xác định mục đích, đề ra
đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch, biện pháp, phải lấy thực tế khách quan làm
cơ sở, phương tiện, tìm ra những nhân tố vật chất, tổ chức những nhân tố ấy thành lực
lượng vật chất để hành động.
Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo
của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực,
năng động, sáng tạo ấy. Điều này, đòi hỏi con người phải tôn trọng tri thức khoa học, tích
cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học và truyền bá nó vào quần chúng để
nó trở thành tri thức, niềm tin của quần chúng, hướng dẫn quần chúng hành động.Mặt
khác, phải tự giác tu dưỡng, rèn luyện để hình thành, củng cố nhân sinh quan cách mạng,
tình cảm nghị lực cách mạng để có sự thống nhất giữa hữu cơ giữa tình khoa học và tính
nhân văn trong định hướng hành động.
Thực hiện nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tình năng động chủ quan trong

nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải phòng, chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí,
đó là những hành động lấp ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực, lấy ý
muốn chủ quan làm chính sách, lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược, sách
lược,… Đây cũng phải là quá trình chống chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri thức
khoa học, xem thường lý luận, bảo thủ, trí tuệ, thụ động, … trong mọi hoạt động nhận
thức và thực tiễn.

17
III. PHẦN KẾT LUẬN.
Qua các định nghĩa này đã giải quyết được một cách duy vật và khoa học cả hai mặt
của vấn đề cơ bản trong Triết học. Quan niệm về vật chất trong định nghĩa này của Lênin
là cơ sở khoa học và vũ khí tư tưởng của chủ nghĩa duy vật bác bỏ chủ nghĩa duy tâm và
thuyết không thể biết dưới mọi hình thức, khẳng định sự đúng đắn của chủ nghĩa duy vật
trước sự phát triển của các khoa học khác.
Định nghĩa này đã khắc phục được những hạn chế trong quan điểm về vật chất trước
Mác làm cho chủ nghĩa duy vật phát triển lên một trình độ cao hơn, tạo cơ sở cho các
quan niệm của chủ nghĩa duy vật về lịch sử và xã hội, thể hiện sự thống nhất giữa chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, nó cũng xây dựng được
thế giới quan đúng đắn, cổ vũ các nhà khoa học tiếp tục đi sâu vào thế giới vật chất.
18
Tài liệu tham khảo.
1. Giáo trình: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lenin. Nxb . Chính
trị Quốc Gia (3/2011).
2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1994.
3. V.I.Lenin: toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcova,1980.
4. Và những tài liệu khác
19

×