Lễ hội cúng đình ở Nam bộ
Trong quá trình Nam tiến, cư dân từ miền ngoài vào khai khẩn vùng đất hoang
Nam bộ đã gặp không ít khó khăn do thiên tai địch họa gây ra, thú dữ hoành hành.
Cuộc sống ngày càng ổn định, thiết chế văn hóa làng xã cũng bắt đầu hình thành.
Việc lập đình, xây miếu là một dạng thức tín ngưỡng bản địa được các lưu dân xác
lập trên vùng đất mới.
Dù có một số khác biệt so với tín ngưỡng truyền thống, nhưng cơ bản nó đã đáp
ứng được nhu cầu về tâm linh của con người, đó là cầu mong được bình an vô sự
giữa chốn nước đỏ, rừng xanh này.
Đình làng lúc đầu chỉ có chức năng là ngôi nhà lớn, dùng làm nơi nghỉ ngơi, tá túc
cho khách lỡ đường. Dần dà về sau, nhà nước phong kiến mới sắc phong cho các
vị có công với nước là thần Thành Hoàng, những mong các vị thần Thành Hoàng
này chăm lo, bảo trợ cho dân làng, tá quốc an khang. Ngoài ra, đình làng cũng là
một cơ sở văn hóa tín ngưỡng thể hiện sự tri ân của hậu bối đối với tiền nhân -
những vị có công dựng làng, lập ấp, tạo chợ, xây cầu, khai khẩn đất hoang…
Từ ý thức hồn thiêng sông núi, từ lâu người Việt đã biết thờ các vị thần núi, thần
sông, thần đất, để giúp con người bảo vệ mùa màng, giữ vững giang sơn.
Thờ thần là việc vô cùng thiêng liêng, thể hiện ở đời sống tinh thần, đời sống tâm
linh của người Nam bộ. Trong tín ngưỡng thờ thần của người Nam bộ còn có một
khía cạnh thiêng liêng khác nhằm tôn vinh các vị thần, làm cho các vị thần trở nên
thiêng liêng hơn - đó là việc phong sắc cho thần. Công việc này là do triều đình
phong kiến thực thi, mà cụ thể là người đứng đầu nhà nước phong kiến là nhà vua
- là thiên tử thay trời giáo hóa chúng sinh, dỗ an thiên hạ.
Do đó, sắc phong của triều đình cho vị thần nào cũng đồng nghĩa với việc xem vị
thần đó là cơ sở pháp lý phụng mệnh nhà vua xuống làm thần quyền của làng xã.
Khi vị thần nào có sắc phong của nhà vua cho một làng nào đó thì các vị thần đó
mặc nhiên được gọi là Thành Hoàng của làng. Sắc phong được để ở nơi trang
trọng nhất, đặt trên ngai thờ. Ở mỗi đình làng, gian chính điện là nơi thiêng
liêng nhất, thường ghi những chữ Thánh thọ vô cương, Thánh cung vạn tuế, với ý
nghĩa là quyền uy nhà vua ngự trị ở nơi thiêng liêng nhất của làng và đó cũng là
nơi để sắc thần.
Đôi khi, thần Thành Hoàng không phải là các vị có công với nước, mà là những vị
thần hữu danh vô thực, chỉ trong ý niệm của nhân dân. Trong thiết chế văn hóa của
làng, đình là cơ sở tín ngưỡng có tính chất chính thống. Việc ông thần Thành
Hoàng của làng được vua phong sắc là việc quan trọng vì sắc thần được coi là sự
công nhận chính thức của nhà nước về sự hợp pháp của làng.
Về kiến trúc, đình thường được cất cao ráo, thoáng mát, nóc có tượng đôi rồng
lượn tranh lấy quả châu, trên các thanh xà ngang trong đình là các hoành phi, câu
đối với nội dung thể hiện sự ước vọng về cuộc sống bình an của con người, ca
ngợi công đức của các bậc tiền nhân.
Đặc biệt, thiêng liêng hơn cả là lễ hội ở đình, thể hiện nét sinh hoạt văn hóa thiêng
liêng, tín ngưỡng thờ thần, biết ơn thần, tạ ơn đất trời đã cho con người cuộc sống
ấm no, mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, tạo được sự cộng tác của cộng đồng
làng xã. Cũng chính ở sự liên kết cộng đồng làng xã mà con người có ý thức đoàn
kết, nhớ về cội nguồn, trao đổi kinh nghiệm trong sản xuất, ứng phó trước mọi
chuyển biến của lịch sử.
Hàng năm, đình có hai kỳ lễ chính: lễ Kỳ Yên thượng điền và lễ Kỳ Yên hạ điền.
Vào các ngày này, dân làng mở lễ hội đình để tưởng niệm công tích của các vị
thần. Và dịp cúng đình cũng là ngày lễ hội của dân làng, người ta tổ chức các trò
chơi ở làng, diễn hội làng, hát bội, hát cải lương với những tuồng tích xưa…
Quy mô tổ chức lễ hội của đình tùy thuộc vào làng giàu hay nghèo, năm trúng mùa
hay thất mùa.
Ngày đầu tiên gọi là lễ Túc Yết - ngày cúng các vị tiền hiền khai khẩn, hậu hiền
khai cơ, các vị có công với nước, có công xây dựng và bảo quản ngôi đình. Kế đến
là lễ Chánh Tế, được tiến hành vào giữa đêm thứ hai, có đọc văn tế với nội dung
ca ngợi trời đất và các thần linh, ca ngợi công lao của những bậc tiền hiền, hậu
hiền, những người có công quy dân, lập ấp, phát triển sản xuất…
Thường thì, sau phần nghi thức lễ được tổ chức trang trọng là phần hội. Đây là
phần sôi động và vui tươi nhất trong dịp cúng đình nên dân làng tham gia rất đông.
Mọi người ăn mặc nghiêm trang, chỉnh tề đến tham gia, thưởng thức, diễn trò, từ
diễn tuồng đến các trò chơi dân gian như chọi gà, thi bắt vịt, kéo co, thi đấu
vật… thể hiện được một nét sinh hoạt văn hóa thiêng liêng và cao đẹp.
Những người đến dự lễ hội đình làng được tự do xem hát, tham gia các trò chơi,
trao đổi tâm tình và cùng nhau ăn uống vui vẻ, nhưng ăn uống có văn hóa, vui chơi
có mức độ. Ai cũng cố gắng giữ tư cách, không say sưa, càn quấy hay nói tục, bởi
trong những ngày này, mọi khía cạnh đời thường đã được nâng lên đời thiêng.
Không gian thiêng liêng của đình cả năm im lìm nay được tái hiện trở lại bởi con
người. Đèn, nến sáng trưng, cờ ngũ sắc tung bay, chiêng trống nổi lên, lòng người
khắp nơi náo nức, rộn rã hướng về không gian thiêng liêng đó.
Người đến lễ hội trước hết là để biểu thị lòng tôn kính và biết ơn các vị phúc thần
và các bậc tiền nhân đã khuất, có nhiều công lao tạo dựng quê hương, xây nên cơ
nghiệp để lại cho những thế hệ cháu con, sau, là dịp để biểu thị ý thức tôn trọng
văn hóa truyền thống của dân tộc, hưởng thụ hình thái sinh hoạt tinh thần cộng
đồng vốn có nhiều gắn bó với phong tục tập quán, tín ngưỡng dân gian mà mỗi
năm chỉ diễn ra có một lần.
Lễ hội đình được diễn ra còn do tín ngưỡng thờ thần và vui được mùa, thắng trận
của con người. Tất cả cũng nhằm nhớ về cội nguồn, chuyển giao văn hóa, liên kết
cộng đồng. Bởi thế, lễ hội ở đình trở thành rất thiêng liêng, có sức cộng cảm và trở
thành nét văn hóa đặc sắc trong cộng đồng dân tộc.
Lễ hội đình làng là cầu nối tâm linh giữa con người, giữa quá khứ, hiện tại và
tương lai, góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hóa ở làng xã, bảo tồn
những vốn quý của di sản văn hóa tinh thần của dân tộc. Khôi phục các lễ hội ở
đình làng cũng là góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng
được đời sống văn hóa cơ sở, tạo được sân chơi cho đông đảo dân làng mỗi kỳ lễ
hội, đồng thời tạo được một điểm tham quan, vui chơi giải trí cho khách du lịch,
nhất là du khách nước ngoài.
Nguyễn Thái Kiên