Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

SKKN BIỆN PHÁP HÌNH THÀNH PHẨM CHẤT NĂNG LỰC HỌC SINH TIỂU HỌC TRONG DIỄN BIẾN PHỨC tạp của DỊCH COVID 19

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.54 KB, 30 trang )

Phạm Thị Hồng Gv THCS Trần Hưng Đạo – TX Quảng Yên – Quảng Ninh
()
ĐỀ TÀI
MỘT SỐ BIỆN PHÁP HÌNH THÀNH PHẨM CHẤT, NĂNG LỰC CHO HỌC
SINH TIỂU HỌC TRONG DIỄN BIẾN PHỨC TẠP CỦA DỊCH COVID 19
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Bối cảnh của đề tài:
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục Tiểu học có vai trị làm nền tảng,
cũng như xây một ngơi nhà, cái nền có chắc ngơi nhà mới vững. Vì vậy đây là bậc học
cần được chú trọng quan tâm, đầu tư kĩ lưỡng, khắc phục những sai sót và đổi mới kịp
thời.
Theo thơng tư 32/2018/TT- BGDĐT: Chương trình giáo dục tiểu học giúp học sinh hình
thành và phát triển những yếu tố căn bản đặt nền móng cho sự phát triển hài hồ về thể
chất và tinh thần, phẩm chất và năng lực; định hướng chính vào giáo dục về giá trị bản
thân, gia đình, cộng đồng và những thói quen, nền nếp cần thiết trong học tập và sinh
hoạt.
Trong những năm gần đây, đặc biệt là năm 2019, trên thế giới cũng như Việt Nam đã
phải trải qua một đại dịch rất phức tạp và nguy hiểm đó là đại dịch COVID-19. Đại dịch
COVID-19 là một đại dịch bệnh truyền nhiễm với tác nhân là virus SARS-CoV-2 và các
biến thể của nó đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Khởi nguồn vào cuối tháng 12 năm
2019 với tâm dịch đầu tiên tại thành phố Vũ Hán thuộc miền Trung Trung Quốc đại lục,
bắt nguồn từ một nhóm người mắc viêm phổi không rõ nguyên nhân. Ngày 11 tháng 3
năm 2020, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ra tuyên bố gọi "COVID-19" là "Đại dịch tồn
cầu". Tính đến ngày 28 tháng 3 năm 2020, các trường học cũng đã phải đóng cửa trên
toàn quốc hoặc ở một số vùng tại hơn 160 quốc gia, ảnh hưởng đến 87% học sinh, sinh
viên trên tồn thế giới. Trước bối cảnh đó, một bài toán cam go được đặt ra cho những
nhà chức trách giáo dục, cũng như toàn hệ thống giáo dục quốc dân trong việc vừa ứng
phó với đại dịch, vừa hình thành và phát huy phẩm chất, năng lực học sinh cụ thể là cấp
Tiểu học.
1.2. Lý do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết: Mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người Viêt Nam phát


triển tồn diện có đạo đức, có tri thức, có sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành
với lý tưởng độc lập của dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bỗi dưỡng nhân
cách, phẩm chất, năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Bất kì xã hội nào, nền văn hóa nào thì ngồi cung cấp kiến thức cịn cần phải giúp người
học hình thành và phát triển một số năng lực, phẩm chất để không chỉ phục vụ đời sống
1


Phạm Thị Hồng Gv THCS Trần Hưng Đạo – TX Quảng Yên – Quảng Ninh
()
bản thân mà còn đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực, tiềm năng cho cả xã hội. Trong
giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh đang trở nên
cấp bách cần thiết. Đặc biệt với học sinh Tiểu học lại càng phải quan tâm và coi trọng,
bởi nó là một nhân tố quyết định đến nhân cách, nó là cái gốc để phát triển tài và đức
của mỗi con người. Với nền giáo dục của chúng ta hiện nay, song song với đổi mới
phương pháp dạy học để nâng cao kiến thức cho học sinh thì việc quan tâm đến hình
thành và phát triển phẩm chất, năng lực cho các con, để các con trở thành con người
toàn diện phù hợp với sự phát triển của xã hội, đáp ứng nhu cầu cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa, số hóa đất nước là vô cũng cần thiết. Nhưng trước diễn biến phức tạp của đại
dịch COVID-19, làm thế nào để giúp các cịn hình thành và phát triển được phẩm chất
năng lực một cách tốt nhất là vấn đề chúng ta cịn trăn trở.
Chính vì những lý do ấy tơi đã nghiên cứu và đưa ra sáng kiến kinh nghiệm về “Một
số giải pháp hình thành phẩm chất, năng lực cho học sinh Tiểu học trong diễn biếp phức
tạp của đại dịch COVID-19”
1.3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu: Một số phẩm chất và năng lực của học sinh Tiểu học.
Đối tượng nghiên cứu: Giải pháp hình thành phẩm chất, năng lực cho học sinh
Tiểu học trong diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19.
1.4. Mục đích nghiên cứu:

Trong giai đoạn hiện nay, diễn biến dịch bệnh COVID-19 ngày một căng thẳng và
phức tạp, chưa thật sự được kiểm sốt triệt để. Ngồi vấn đề dạy học cung cấp kiến thức
cho học sinh tiểu học việc hình thành phẩm chất và năng lực cho các con để ứng phó với
ngoại cảnh bất lợi là rất quan trọng.
Năng lực, phẩm chất mỗi con người là một trong những nội dung có khả năng
giáo dục nhiều mặt: Khả năng để phát triển tư duy logic, bồi dưỡng và phát triển những
thao tác trí tuệ, nó giúp học sinh biết xử lí, giải quyết các tình huống khác nhau trong
cuộc sống...Nó có nhiều tác dụng trong việc phát triển trí thơng minh, tư duy độc lập,
linh hoạt sáng tạo góp phần vào giáo dục ý chí, đức tính cần cù, ý thức vượt khó, khắc
phục khó khăn của học sinh tiểu học.
Chính vì những lẽ trên, tơi đã đi nghiên cứu và tìm ra những giải pháp để giúp học
sinh tìm ra nguyên nhân, tầm quan trọng của việc hình thành những phẩm chất, năng lực
cần thiết trong diễn biến phức tạp của dịch COVID-19.
1.5. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu
Trong thời gian qua, đã có một số sáng kiến đặt vấn đề đến lĩnh vực này, tuy nhiên trong
quá trình nghiên cứu và thực hiện, bản thân tơi nhận thấy có nhiều điểm cịn hạn chế, đạt
hiệu quả chưa cao. Vì vậy tơi đã đi sâu vào thực trạng của đơn vị nhà trường và đề xuất
2


Phạm Thị Hồng Gv THCS Trần Hưng Đạo – TX Quảng Yên – Quảng Ninh
()
hướng giải quyết theo thực trạng của trường tôi đặc biệt là lớp tôi chủ nhiệm (lớp 4A)
trường.................
Sáng kiến đưa ra được thêm một số giải pháp mới có tính khả thi cao. Đó là các giải
pháp đơn giản, cụ thể, dễ áp dụng và áp dụng được ở đa số điểm trong năm học. Nó có
căn cứ bền vững từ thực tế học sinh. Ở giải pháp này có nhiều điểm mới về phương pháp
hình thành phẩm chất, năng lực cho học sinh trong giai đoạn phức tạp của dịch COVID19, khi mà việc giảng dạy trên lớp bị gián đoạn, thay thế vào đó là đan xen những hình
thức giảng dạy và học tập như dạy học trực tuyến, dạy học truyền hình,... Các biện pháp
được tôi áp dụng một cách bài bản, mềm mỏng nhưng triệt để hơn. Mặt khác, từ sáng

kiến này giúp đồng nghiệp có cái nhìn sâu sắc hơn trong quá trình giáo dục phẩm chất,
năng lực cho học sinh trong giai đoạn khó khăn chung của đại dịch.
II. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận
Trong chương trình giáo dục phổ thông tổng thể 2018 ban hành kèm theo TT32-TTBGDĐT đã quy định rất rõ về yêu cầu cần đạt chung về phẩm chất năng lực học sinh:
Thứ nhất, chương trình giáo dục phổ thơng hình thành và phát triển cho học sinh những
phẩm chất chủ yếu sau: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm.
Thứ hai, chương trình giáo dục phổ thơng hình thành và phát triển cho học sinh những
năng lực cốt lõi sau: a) Những năng lực chung được hình thành, phát triển thơng qua tất
cả các môn học và hoạt động giáo dục: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và
hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; b) Những năng lực đặc thù được hình
thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học và hoạt động giáo dục nhất định:
năng lực ngôn ngữ, năng lực tính tốn, năng lực khoa học, năng lực cơng nghệ, năng lực
tin học, năng lực thẩm mĩ, năng lực thể chất. Bên cạnh việc hình thành, phát triển các
năng lực cốt lõi, chương trình giáo dục phổ thơng cịn góp phần phát hiện, bồi dưỡng
năng khiếu của học sinh.
Như chúng ta đã biết phẩm chất và năng lực là 2 yếu tố chính tạo nên nhân cách của con
người. Hơn nữa sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người là khác nhau, do
chịu nhiều yếu tố ảnh hưởng khác nhau, môi trường sống cũng khác nhau. Không những
vậy, yếu tố giáo dục cũng là một điều tiên quyết tạo nên phẩm chất của chúng ta, nó giúp
chúng ta phát triển một cách tổng thể về thể chất và cả tinh thần.
Năng lực là gì?
Năng lực chính là một khái niệm được mọi người nhắc đến rất nhiều trên mọi lĩnh vực
của đời sống và trong xã hội. Hơn nữa đã xuất hiện rất nhiều định nghĩa khác nhau về
3


Phạm Thị Hồng Gv THCS Trần Hưng Đạo – TX Quảng Yên – Quảng Ninh
()
khái niệm năng lực. Dựa trên từ điển tiếng việt, năng lực dùng để chỉ khả năng và điều

kiện chủ quan hoặc tự nhiên có sẵn để thực hiện được một hành động nào đó, trong một
lĩnh vực nào đó. Năng lực cịn được xem như là một phẩm chất tâm lý và sinh lý, giúp
con người hình thành khả năng hồn thành tốt một cơng việc hay một hoạt động nào đó
với chất lượng tốt và hiệu quả cao.
Phẩm chất là gì?
Phẩm chất được biết đến như là một thước đo cho giá trị của con người, như chúng ta đã
biết, trên thực tế không phải ai sinh ra cũng có và mang trong mình những phẩm chất
giống nhau. Không những vậy những phẩm chất này cần có thời gian để đầu tư, xây
dựng và rèn luyện trong suốt một quá trình và thời gian dài, chúng cần sự quyết tâm và
cố gắng.
Chúng ta có thể hiểu phẩm chất được cấu tạo từ 2 từ chính đó là phẩm và chất. Trong đó
từ để chỉ tư cách là phẩm và từ để chỉ tính cách là chất. Phẩm chất cịn được dùng để chỉ
tính chất ở bên trong mỗi con người, nó có thể là xấu hoặc tốt, tùy thuộc vào mỗi con
người và sự rèn luyện, định hướng của chính bản thân.
Mỗi mơn học ở tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển cho học
sinh những phẩm chất, năng lực để hình thành nhân cách con người Việt Nam. Trong bối
cảnh trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh, chúng ta, những những nhà giáo dục cần
phải bám sát vào chương trình giáo dục phổ thơng tổng thể, song song đó phải linh hoạt
thích ứng, điều chỉnh sao cho phù hợp với bối cảnh của nhà trường sở tại, tình hình cụ
thể của học sinh, phụ huynh để kịp thời ứng phó.
2.2. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu
Ngày 12/8, Bộ GD&ĐT tổ chức Hội nghị trực tuyến tổng kết năm học 2020-2021, triển
khai nhiệm vụ năm học 2021-2022 đối với Giáo dục Tiểu học.
Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ năm học 2020 -2021 tại Hội nghị, ông Thái Văn
Tài, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Tiểu học (Bộ GD&ĐT), cho biết: Năm học 2020-2021, tồn
quốc có 14.786 cơ sở giáo dục thực hiện chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học
với 16.323 điểm trường, giữ ổn định so với năm học trước. Cả nước có tổng số
8.736.033 học sinh tiểu học, tăng 152.301 em so với năm học trước. Tổng số lớp là
280.274 (tăng 4.325 lớp so với năm học trước); tỷ lệ trung bình là 31,27 học sinh/lớp.
Ông Thái Văn Tài cho hay, tổng hợp kết quả đánh giá cuối năm học 2020-2021 của các

địa phương cho thấy, tất cả trường tiểu học đã hoàn thành chương trình theo đúng kế
hoạch, chất lượng học sinh đáp ứng chuẩn đầu ra theo quy định. Cụ thể, học sinh lớp 1
4


Phạm Thị Hồng Gv THCS Trần Hưng Đạo – TX Quảng Yên – Quảng Ninh
()
năm nay mạnh dạn, tự tin hơn, biết nêu quan điểm cá nhân và cơ bản là đọc thông, viết
thạo ngay trong học kỳ 1, sau đó được củng cố tăng cường bền vững ở học kỳ 2.
Các lớp 2 - 5 đang thực hiện Chương trình giáo dục phổ thơng 2006, các nhà trường
thực hiện đổi mới hình thức tổ chức, phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá học
sinh; chuyển từ truyền thụ kiến thức sang tổ chức hoạt động học nhằm phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của học trị. Nội dung chương trình, sách giáo khoa, đặc biệt là
đối với các mơn học bắt buộc được rà sốt theo hướng tinh giản những nội dung vượt
quá yêu cầu cần đạt về chuẩn kiến thức, kỹ năng của từng lớp; tinh giản nội dung trùng
lặp và tích hợp một số nội dung trong cùng môn học và giữa các môn học thành các chủ
đề học tập trên cơ sở đảm bảo chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình.
Năm học 2020-2021, các cơ sở giáo dục tiểu học cũng tích cực đổi mới, đa dạng hố
hình thức dạy học như dạy học trực tuyến, dạy học qua truyền hình… nhằm khắc phục
tác động của dịch COVID-19, tạo điều kiện cho học sinh học tập mọi lúc, mọi nơi, hoàn
thành chương trình đảm bảo tiến độ, chất lượng.
Bên cạnh những kết quả đạt được, theo Vụ trưởng Vụ Giáo dục Tiểu học, việc triển khai
nhiệm vụ năm học 2020-2021 vẫn còn một số tồn tại, hạn chế. Việc biên soạn sách giáo
khoa theo chương trình mới lần đầu tiên được áp dụng nên gặp nhiều khó khăn từ khâu
thiết kế đến khâu tổ chức thực hiện.
Về phần hình thành và phát triển phẩn chất học sinh Tiểu học trong mùa dịch
COVID-19:
Thực tế qua thăm dị khảo sát thực trạng việc hình thành năng lực, phẩm chất cho
học sinh trong hai năm qua tơi nhận thấy đã có nhiều chuyển biến tích cực nhưng hiệu
quả chưa cao. Học sinh đã đạt được các năng lực phẩm chất theo yêu cầu nhưng số em

đạt ở mức tốt chưa nhiều. Vẫn cịn số ít học sinh hạn chế về năng lực, phẩm chất.
Thực tế qua thăm dò khảo sát phụ huynh và giáo viên tơi thấy về phía các bậc cha me
các em ln nóng vội trong việc dạy con; họ chỉ chú trọng đến việc học của con mình
đồng thời lại quá chiều chuộng, cung phụng con cái khiến trẻ khơng có năng lực tự phục
vụ. Họ chưa chú ý nhắc nhở, rèn giũa nhiều mà luôn làm hộ con cái cho nhanh để các
cháu kịp giờ học, cha me kịp giờ làm, buổi tối về thậm chí khơng có thời gian trơng nom
việc học hành giáo dục rèn luyện con cái.
Một số giáo viên khi vận dụng những kế hoạch định hướng chung cho việc hình
thành năng lực, phẩm chất vào từng lớp, cho từng học sinh chưa được cụ thể, Trong
giảng dạy, một số giáo viên ít tạo cơ hội cho học sinh được học tập chủ động, sáng tạo
thực sự để phát huy năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.
Mặt khác, việc đánh giá năng lực, phẩm chất đồng thời cũng đặt ra yêu cầu, nhiệm
vụ cao hơn đối với mỗi giáo viên là phải tổ chức những hoạt động dạy học và giáo dục
5


Phạm Thị Hồng Gv THCS Trần Hưng Đạo – TX Quảng Yên – Quảng Ninh
()
phù hợp để hình thành năng lực phẩm chất theo mục tiêu đề ra nhưng trình độ năng lực
của một bộ phận giáo viên còn hạn chế dẫn đến hiệu quả chưa cao. Khi dự giờ thăm lớp
ở một số lớp, điều dễ nhận thấy là vẫn có một số ít giáo viên chưa chú ý rèn học sinh các
nền nếp tự quản như: sắp xếp sách vở đồ dùng, cách ăn mặc, chưa quan tâm và tạo cơ
hội cho học sinh được trình bày ý kiến; còn làm thay, làm hộ học sinh. Khi phát biểu các
em nói khơng rõ ràng, trả lời khơng trọn câu. Nhiều em khơng biết nói lời cảm ơn, xin
lỗi với các bạn bè khi mắc lỗi...
Khi dự giờ trực tuyến một số lớp, tơi nhận thấy vẫn có một số giáo viên chưa rèn cho
học sinh Năng lực của sự giao tiếp và hợp tác, các em sử dụng ngơn ngữ cịn chưa chính
xác, thái độ giao tiếp chưa thật phù hợp và có chuẩn mực nhất định.
Như vậy phần nào cũng đã hạn chế khả năng phát triển phẩm chất, năng lực cho học
sinh.

Bên cạnh đó, việc hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh tại các
trường học mới chỉ dừng lại ở các tiết học về kiến thức có gắn giáo dục năng lực, phẩm
chất cho các em nhưng hiệu quả chưa cao. Trước tình hình phức tạp của dịch COVID-19
các buổi sinh hoạt ngoại khố, các buổi trải nghiệm cịn ít, chưa đáp ứng được nhu cầu
hình thành năng lực, phẩm chất cho các em. Cách truyền đạt kiến thức cũng như chương
trình nội dung cịn q nặng về lý thuyết mà ít gắn với thực tế. Nhiều cha me với tâm lý
chỉ chú trọng tới việc học các mơn học chính mà lơ là với việc rèn luyện năng lực, hình
thành phẩm chất cho các em.
Mặt khác, khi thực hiện Thông tư 32, giáo viên chưa thay đổi kịp thói quen từ đánh giá
bằng điểm sang đánh giá bằng nhận xét; chưa được làm quen với kỹ thuật đánh giá mới
nên cịn nhiều lúng túng. Trong hồ sơ, có thể dễ nhận thấy cách ghi nhận xét của một số
giáo viên còn chung chung, chưa chỉ ra được những điểm mạnh, điểm yếu nổi trội về
năng lực, phẩm chất của từng em để từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp. Trong giảng
dạy, một bộ phận giáo viên vẫn chỉ quan tâm đến việc truyền đạt kiến thức lí thuyết, ít
tạo cơ hội cho học sinh được học tập chủ động, sáng tạo thực sự.
Việc chú trọng giáo dục phẩm chất, hình thành năng lực cho học sinh trong trường
đã được giáo viên chú trọng song chưa thường xuyên, còn nhiều hạn chế. Trong khi đó
nhiệm vụ hình thành phẩm chất, năng lực cho học sinh lại là một nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu trong công tác chủ nhiệm. Nhiều em có kết quả học tập các mơn học tốt nhưng
khả năng tự quản và khả năng giao tiếp kém, chưa linh hoạt trong khi xử lí các tình
huống của cuộc sống. Nguyên nhân sâu xa là do các em còn hạn chế về năng lực và
phẩm chất nên dẫn đến thiếu kĩ năng sống. .
Qua quá trình quan sát học sinh trong khoảng thời gian đầu năm học 2022-2023,
bằng các hình thức khảo sát, trắc nghiệm một số năng lực, phẩm chất của 40 học sinh
6


Phạm Thị Hồng Gv THCS Trần Hưng Đạo – TX Quảng Yên – Quảng Ninh
()
lớp 4A3 kết hợp cùng với việc trao đổi cụ thể với giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học

sinh lớp 4 vào đầu năm học 2022-2023, tơi có thể đánh giá kết quả như sau:
a. Năng lực:
STT

Số HS xếp Đạt
ở mức Tốt

Các năng lực

Số em xếp ở
mức Đạt

Số em chưa
Đạt

1

Tự chủ và tự học

15

37,5 %

25

62,5%

0

0


2

Giao tiếp, hợp tác

20

50 %

20

50 %

0

0

3

Tính tốn

16

40 %

24

60%

0


0

b. Phẩm chất
Số em xếp Đạt
ở mức Tốt

STT

Các phẩm chất

Số em xếp Đạt

Số em chưa đạt

1

Phẩm chất yêu nước

25

62,5 %

15

37,5%

0

0


2

Phẩm chất nhân ái

20

50 %

20

50%

0

0

3

Phẩm chất chăm chỉ

18

45%

22

55%

0


0

4

Phẩm chất trung thực
và trách nhiệm

22

55%

18

45%

0

0

Trên đây là khảo sát của tôi về 3 năng lực và 4 phẩm chất thiết yếu của học sinh Tiểu
học. Đây chính là 3 năng lực 4 phẩm chất của học sinh tiểu học luôn được coi trọng và
vô cùng được đề cao trong chương trình giáo dục của bậc tiểu học. Giáo dục không
những giúp học sinh phát triển về thể chất mà còn giúp phát triển một cách tổng thể về
tinh thần cũng như sự chịu khó, vươn lên, hướng đến một tương lai tốt đep, để trở thành
một các thể có ích cho xã hội.
Bảng thống kê cho thấy thực trạng việc hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh
trong những năm qua đã có nhiều chuyển biến tích cực nhưng hiệu quả chưa cao. Học
sinh đã đạt được các năng lực phẩm chất theo yêu cầu nhưng số em đạt ở mức tốt chưa
nhiều. Vẫn còn số ít học sinh còn hạn chế về năng lực, phẩm chất.

2.3. Một số giải pháp
Giải pháp 1: Tìm hiểu về tầm quan trọng của việc cần hình thành năng lực,
phẩm chất cho học sinh ngay từ lứa tuổi tiểu học.
Qua thực tế giảng dạy tôi thấy rằng học sinh của chúng ta nếu chỉ học trên lí
thuyết chưa đủ mà trong cuộc sống có rất nhiều mối quan hệ, có nhiều tình huống khác
nhau mà chỉ với các kiến thức đơn thuần học sinh khơng có khả năng giải quyết các tình
huống khác nhau trong cuộc sống. Khoảng cách giữa nhận thức và hành động cách nhau
7


Phạm Thị Hồng Gv THCS Trần Hưng Đạo – TX Quảng Yên – Quảng Ninh
()
quá xa. Nhiều tình huống cuộc sống các em phải ứng phó một mình. Do q nhiều việc
phải tự mình quyết định nên các em khơng những phải cần biết rõ làm thế nào là điều
hay lẽ phải mà cịn phải có khả năng hành động theo nhận thức. Có năng lực sẽ giúp các
em có thể chuyển tải những gì các em nhận thức được (tức là những điều các em nhận
biết), những gì các em cảm nhận được, những gì các em quan tâm thành những khả năng
thực thụ giúp các em biết phải làm gì, làm như thế nào? Có phẩm chất, năng lực các em
biết điều chỉnh hành vi của mình trong những tình huống khác nhau của cuộc sống. Giáo
dục năng lực, phẩm chất sống giúp các em xây dựng những hành vi lành mạnh, thay đổi
những hành vi tiêu cực trên cơ sở đó giúp các em khơng chỉ có kiến thức mà có được cả
thái độ và khả năng thích hợp. Chính vì điều đó nên tơi nhận thấy rằng với sự phát triển
của xã hội hiện nay thì hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh là công việc quan
trọng không thể coi nhe hơn giáo dục kiến thức được.
Giải pháp 2. Xác định nhiệm vụ cơ bản và trách nhiệm của bản thân mỗi giáo
viên trong việc hình thành phẩm chất, năng lực cho học sinh trong đại dịch COVID19
Giáo viên có thể làm được gì để hình thành và phát triển các năng lực phẩm chất
cho học sinh một cách hiệu quả nhất trong giai đoạn phức tạp của dịch COVID-19?
Đó là câu hỏi mà bản thân tơi và khơng ít giáo viên phải suy nghĩ rất nhiều trong
thời gian bùng phát dịch bệnh vừa qua và cũng từ đó tơi đã xác định được nhiệm vụ cơ

bản của mình trong nhiệm vụ chung của ngành đó là trách nhiệm hình thành và phát
triển năng lực, phẩm chất cho học sinh như sau:
- Giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự
sáng tạo, tích cực của học sinh, phải biết khai thác, phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng
tạo ở mỗi học sinh vì mỗi học sinh là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục học sinh như
thế nào để các em cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống.
- Giáo viên cần thường xuyên tổ chức các hoạt động chăm sóc giáo dục các em
một cách thích hợp tuân theo một số quan điểm như: Giúp các em phát triển đồng đều
các lĩnh vực thể chất, ngơn ngữ, nhận thức, tình cảm- xã hội và thẩm mỹ. Phát huy tính
tích cực của các em, giúp các em hứng thú, chủ động khám phá tìm tòi, biết vận dụng
vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tình huống khác nhau. Nhưng vẫn phải
đảm bảo cơng tác an tồn phịng chống dịch.
- Giáo viên cần giúp các em có được những mối liên kết mật thiết với những bạn
khác trong lớp, các em biết chia sẻ chăm sóc lẫn nhau, các em cần phải học về cách ứng
xử, biết lắng nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình khi tham gia vào trong các
nhóm học sinh khác nhau, giúp các em ln cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách
mới. Cần chuẩn bị cho học sinh sự tự tin, thoải mái trong mọi trường hợp. Thường
xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của các em, trao đổi với phụ
huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục các em tại nhà, bàn bạc cách
8


Phạm Thị Hồng Gv THCS Trần Hưng Đạo – TX Quảng Yên – Quảng Ninh
()
giải quyết những khó khăn gặp phải. Có như vậy việc hình thành năng lực phẩm chất, kỹ
năng sống cho các em mới có hiệu quả cao.
Giải pháp 3: Xác định được những phẩm chất, năng lực cơ bản cần thiết cần
hình thành cho đối tượng học sinh ở lứa tuổi tiểu học.
Đối với tâm sinh lý trẻ em bậc tiểu học thì có nhiều phẩm chất, năng lực quan
trọng mà trẻ cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá đặc biệt là trẻ em độ tuổi

lớp Một. Thực tế kết quả của nhiều nghiên cứu đều cho thấy các năng lực quan trọng
nhất trẻ cần được hình thành vào thời gian đầu của năm học chính là những năng lực
như : tự chủ và tự học, giao tiếp và hợp tác, tính tốn. Các phẩm chất mà trẻ cần được
hình thành như: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực và trách nhiệm. Với mỗi lứa
tuổi giáo viên cần lựa chọn đúng những năng lực, phẩm chất phù hợp cần rèn luyện cho
các em.
Cụ thể tôi đã nghiên cứu, tham khảo tài liệu và thống kê được các năng lực và
phẩm chất mà học sinh tiểu học cần hình thành và phát triển theo các nhóm sau:
Trong những chương trình đào tạo và giáo dục trên trường, lớp luôn hướng học sinh đến
những sự hình thành năng lực và phẩm chất tốt nhất. Dưới đây là 3 năng lực 4 phẩm chất
của học sinh tiểu học cần hướng đến và rèn luyện như sau:
Năng lực chính là sự huy động và tập toàn bộ kiến thức và kỹ năng của con người
để có thể hồn thành tốt được một cơng việc cụ thể nào đó trong một lĩnh vực nhất định,
3 năng lực mà các học sinh cần hướng đến là:
Năng lực của sự tự chủ và sự tự học: học sinh cần phải biết xác định những mục
tiêu học tập cho riêng mình cũng như cần lên kế hoạch và thực hiện cách học, đồng thời
phải tự biết đánh giá và điều chỉnh việc học tập sao cho phù hợp. Ngoài ra học sinh phải
học cách tự giải quyết mọi vấn đề và phải có tính sáng tạo
Năng lực của sự giao tiếp và hợp tác: Cần phải biết sử dụng các loại ngôn ngữ thông
dụng cũng như xác định được các mục tiêu và lựa chọn nội dung, thái độ giao tiếp phải
thật phù hợp và có chuẩn mực nhất định.
Năng lực tính tốn chính xác: Học sinh áp dụng những phép tính đo lường cơ bản,
và các cơng cụ tính tốn một cách linh hoạt và nhanh nhen
Phẩm chất chính là yếu tố kiên quyết tạo nên một con người hồn chỉnh và sống
có ích cho xã hội, mỗi chúng ta cần rèn luyện cho bản thân 4 phẩm chất cơ bản, cụ thể
như sau:
Phẩm chất yêu nước: Là có tình u thiên nhiên và u những thứ đơn giản,
nguồn gốc sâu xa của đất nước như truyền thống, văn hóa, phong tục của dân tộc cũng
như tình u đối với con người và cộng đồng trong xã hội, biết làm những việc thiết
thực và có ích cho đất nước, cho xã hội để thể hiện tình u đó.

Phẩm chất nhân ái: Biết cách yêu thương và tôn trọng những người xung quanh và
không được phân biệt đối xử. Đồng thời phải biết sẵn sàng và tha thứ cho những điều sai
trái, cũng như tơn trọng văn hóa của dân tộc khác, của cộng đồng khác.
9


Phạm Thị Hồng Gv THCS Trần Hưng Đạo – TX Quảng Yên – Quảng Ninh
()
Phẩm chất chăm chỉ: Phẩm chất được biểu hiện rõ ở kỹ năng học tập chăm chỉ của
học sinh. Sẵn sàng học hỏi và có tính cầu tiến cũng như tinh thần dám nghĩ, dám làm và
sẵn sàng dấn thân.
Phẩm chất trung thực và trách nhiệm: Đây chính là biểu hiện của sự thật thà, đứng
đắn, ngay thẳng và mạnh dạn nói lên ý kiến của bản thân, biết nhận lỗi lầm, sẵn sàng sửa
lỗi cũng như dám đứng lên bảo vệ cái đúng, bênh vực sự thật. Không những vậy, học
sinh cần phải biết chấp hành kỷ luật, quy định chung của tập thể và tuân thủ pháp luật.
Đây chính là 3 năng lực 4 phẩm chất của học sinh tiểu học luôn được coi trọng và vơ
cùng đề cao trong chương trình giáo dục của bậc tiểu học. Giáo dục không những giúp
học sinh phát triển về thể chất mà còn giúp phát triển một cách tổng thể về tinh thần
cũng như sự chịu khó, vươn lên, hướng đến một tương lai tốt đep, để trở thành một các
thể có ích cho xã hội.
Tuỳ theo từng lứa tuổi, từng khả năng của mỗi khối lớp mà giáo viên chủ nhiệm
lựa chọn các năng lực, phẩm chất cơ bản nào để giúp các em hình thành và phát triển
cho phù hợp.
Giải pháp 4: Tìm hiểu đặc điểm sức khỏe, tâm sinh lý và hoàn cảnh của từng
học sinh lớp mình phụ trách
Theo tơi muốn giáo dục được các em thì phải thực sự hiểu các em. Sức khỏe của
trẻ ở giai đoạn này là vấn đề cả nước quan tâm vì dịch bệnh đang bùng phát mạnh mẽ.
Tâm sinh lý ở lứa tuổi này có nhiều thay đổi. Do vậy muốn các em đạt được các năng
lực, phẩm chất tốt thì giáo viên và gia đình cần thấu hiểu, quan tâm, theo dõi đến sức
khỏe, tâm sinh lý của các em. Ví dụ như phải hiểu được tâm tư tình cảm của các em,

hiểu sở thích và những thói quen tốt, hoặc xấu, năng lực nào các em đã có, đã đạt được,
năng lực nào các em cịn chưa đạt, phẩm chất nào cần hình thành ở em đó... Để thày cơ,
cha me có sự quan tâm hỗ trợ giáo dục đúng định hướng.
Giải pháp 3: Rèn luyện phẩm chất tự học, tự chủ cho học sinh Tiểu học trong
đại dịch Covid -19
Thời điểm này, thầy và trò các trường học trên địa bàn thành phố đang nỗ lực
hồn thành chương trình dạy và học những tuần đầu tiên của năm học mới 2021-2022.
Cùng với những chia sẻ, cảm thông, biểu dương, khen ngợi nỗ lực khắc phục khó khăn
để dạy và học của ngành Giáo dục trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức
tạp, khơng ít phụ huynh, học sinh và cả giáo viên vẫn còn xen lẫn những băn khoăn, lo
lắng.
Nào là chất lượng việc dạy và học online chưa cao, nào là đường truyền không ổn định,
học sinh thiếu phương tiện, học sinh khơng được học thêm ngồi các buổi học chính
khóa, giáo viên khó kiểm sốt học sinh, học sinh cũng thiếu đi sự tương tác, môi trường
giao tiếp với thầy cô, bạn bè…
10


Phạm Thị Hồng Gv THCS Trần Hưng Đạo – TX Quảng Yên – Quảng Ninh
()
Phải khẳng định rằng trong điều kiện dịch bệnh diễn biến phức tạp như hiện nay thì
những hình thức dạy và học các trường trên địa bàn tỉnh đang triển khai là cả một sự nỗ
lực lớn, khơng chỉ của riêng ngành Giáo dục mà cịn là của cả hệ thống chính trị và sự
đồng thuận, chung sức, đồng lòng của người dân, đặc biệt của các bậc phụ huynh

Như vậy, căn cứ vào tình hình thực tế của diễn biến dịch bệnh mà ngành Giáo dục và các
địa phương trong thành phố sẽ thống nhất triển khai học tập ở hình thức nào, trực tiếp,
trực tuyến hay dạy học theo nhóm… Điều này đồng nghĩa đòi hỏi các em học sinh và cả
các bậc phụ huynh (đặc biệt với học sinh các lớp nhỏ) quan tâm hỗ trợ, nhắc nhở, xây
dựng cho các em thói quen, kỹ năng tự học, độc lập suy nghĩ. Đây là giải pháp rất quan

trọng để nâng cao chất lượng dạy và học không chỉ trong giai đoạn dịch bệnh Covid -19
diễn biến phức tạp như hiện nay, mà còn cho chính tương lai của các em, dù trong bất cứ
mơi trường nào cũng có thể chủ động tự học để đạt kết quả cao.
Có một thực tế khơng thể phủ nhận rằng, thời gian qua, nhiều học sinh ít dành thời gian
cho tự học. Với các em có hồn cảnh khó khăn, thì ngồi buổi học chính khóa cịn phải
tham gia lao động phụ giúp gia đình nên ít quan tâm, ít có thời gian cho việc học. Cịn
với những học sinh ở vùng thuận lợi thì ngồi thời gian học chính khóa, học thêm ở
trường vào ban ngày, chiều tối lại tiếp tục học thêm ở các cơ sở dạy thêm. Ít có thời gian
tự học, tự suy nghĩ, tìm tịi, khơng ít em trở nên lười tư duy, thụ động, ít dành thời gian
tra cứu các thơng tin từ internet, đọc thêm sách báo để mở rộng vốn kiến thức, quay trở
lại bổ trợ, phục vụ cho việc nâng cao chất lượng học tập..
Giải pháp 6: Vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp dạy học lấy học
sinh làm trung tâm, các kĩ thuật dạy học tích cực như : Khăn trải bàn, Sơ đồ tư duy,
Nhóm cộng tác... trong các giờ học trực tiếp
Đây là các phương pháp, kĩ thuật dạy học tương đối dễ áp dụng ở tiểu học, khơng
địi hỏi phải đầu tư nhiều phương tiện, đồ dùng học tập, song lại là cơ hội tốt để các em
hình thành năng lực tự học và giải quyết vấn đề, giao tiếp, hợp tác, phẩm chất chăm chỉ,
đồn kết. Ví dụ: Học sinh biết tự tìm tịi, khám phá kiến thức, biết chia sẻ, lắng nghe bạn
bè, phát triển óc tư duy, có kĩ năng ra quyết định...Đó cũng là các năng lực, phẩm chất
mà chúng ta cần có ở mỗi học sinh.

Giải pháp 7: Thường xuyên tổ chức các hoạt động trải nghiệm cho học sinh để
tạo cơ hội cho các em được hình thành phẩm chất và năng lực nhưng vẫn phải đảm
bảo an tồn phịng chống dịch
11


Phạm Thị Hồng Gv THCS Trần Hưng Đạo – TX Quảng Yên – Quảng Ninh
()
Các năng lực và phẩm chất học sinh khơng chỉ được hình thành trong q trình

học tập và rèn luyện mà nó cịn được được hình thành nhiều qua các hoạt động trải
nghiệm trong và ngoài nhà trường. Hoạt động trải nghiệm có thể tổ chức theo quy mô
lớn nhỏ tuỳ vào thời gian, điều kiện của trường, của từng lớp, từng đối tượng học sinh.
Ngoài các hoạt động trải nghiệm theo quy mô lớn như tổ chức theo trường, theo khối tôi
thấy các trải nghiệm qui mô nhỏ (theo từng lớp riêng) cũng rất cần thiết và mang lại hiệu
quả cao. Bởi vì học sinh chủ yếu hoạt động trên lớp mà tổ chức trải nghiệm cho các em
cần phải có các hoạt động, thực tế, đa dạng, cần được GV quan tâm tổ chức thường
xuyên, liên tục thì mới hình thành được năng lực, phẩm chất, kĩ năng sống cho học sinh.
Nên vai trò của giáo viên chủ nhiệm là rất quan trọng. Ngoài việc giúp các em hình
thành phát triển năng lực, phẩm chất qua quá trình học tập ra thì việc giúp các em hình
thành, phát triển năng lực phẩm chất qua quá trình rèn luyện và tổ chức các hoạt động
trải nghiệm là rất cần thiết. Vậy làm thế nào để các em thường xuyên được tham gia các
hoạt động trải nghiệm để phát triển năng lực, phẩm chất? Tôi nghiên cứu, tìm hiểu thực
tế và đưa ra được biện pháp cụ thể như sau: Để các hoạt động trải nghiệm diễn ra thường
xuyên ngay từ đầu năm tôi lên kế hoạch, kịch bản cụ thể cho hàng tuần, hàng tháng,
trong năm rõ ràng.Tơi ví dụ ngay từ khi bắt đầu vào năm học có thể cho các em thực
hiện một số trải nghiệm như: Lần lượt lên giới thiệu về bản thân, gia đình,về sở thích để
hình thành năng lực giao tiếp, phẩm chất mạnh dạn, tự tin. Hoặc các em trải nghiệm
bằng hoạt động thi xếp sách vở trong ngăn cặp, ngăn bàn cho gọn, cho nhanh, gấp quần
áo đúng, hoạt động thực hành trải nghiệm chăm sóc cây cối quanh lớp, dưới sân trường;
trải nghiệm cách xử lí khi đứt tay, chân, cách xử lí khi gặp bạn bị nạn…Từ đó tơi đã
hình thành được năng lực tự quản, tự phục vụ cho các em, giúp các em biết xử lí các vấn
đề liên quan gặp trong cuộc sống….
Với các hoạt động trải nghiệm qui mô nhỏ tôi gắn ngay vào các giờ học trên lớp
hàng ngày:
- Ví dụ trong hoạt động nhóm tơi cho các em ln phiên nhau tổ chức chỉ đạo cho
các bạn trong nhóm thảo luận, hoặc trong buổi sinh hoạt mỗi tuần các em lần được thay
nhau lên nhận xét, đánh giá hoạt động của ban mình phụ trách, hoặc lần lượt duy trì cho
các bạn sinh hoạt văn nghệ…như vậy là em nào cũng được trải nghiệm qua việc làm cụ
thể, từ đó hình thành nên năng lực giao tiếp, năng lực chỉ đạo…cho tất cả học sinh.

Hàng tuần dựa theo quan sát của tôi và dựa vào nhận xét quan sát đánh giá của
ban HĐ tự quản, nếu thấy năng lực, kĩ năng nào các em cịn chưa tốt thì tơi gợi ý các em
xây dựng kế hoạch tổ chức thực hành trải nghiệm lại các hoạt động đó cho tốt hơn,
thành thạo hơn.
Hàng tháng dựa theo chủ điểm cụ thể của từng tháng tôi gợi ý học sinh xây dựng
ý tưởng để lập chương trình hoạt động cho phù hợp với lớp. Để các em tự làm được
điều đó thì ngay từ đầu năm học, ngoài việc hướng dẫn học sinh xây dựng nội quy của
lớp, của trường tôi đà chú ý giúp các em có các kỹ năng cơ bản: tổ chức, làm việc nhóm,
ghi chép... tơi cịn giới thiệu, hướng dẫn cho học sinh hiểu về mục đích, các hình thức,
12


Phạm Thị Hồng Gv THCS Trần Hưng Đạo – TX Quảng Yên – Quảng Ninh
()
cách tổ chức HĐTNST. Thông qua đó, học sinh cả lớp biết lựa chọn hình thức tổ chức
phù hợp với nội dung; nắm được các bước cơ bản cần thực hiện, nắm được trách nhiệm
của từng cá nhân khi tham gia HĐTNST. Tôi hướng cho học sinh lựa chọn nội dung
thực hiện trong cả năm học dựa trên chủ điểm từng tháng, dựa vào điều kiện, khả năng
của bản thân, của lớp, của nhà trường, của địa phương có thể tổ chức được. Việc này sẽ
tạo tâm thế sẵn sàng thực hiện cho học sinh. Ở bước này, đối với học sinh lớp Một, lớp
Hai, giáo viên có thể ghi chép giúp học sinh kế hoạch, còn đối với học sinh lớp Ba, Bốn
và Năm, giáo viên nên để học sinh tự ghi chép. Tùy theo, các em có thể viết trong vở
theo trình tự về nội dung, hình thức, cơng tác chuẩn bị, thời gian, địa điểm, đối tượng
tham gia... hoặc các em xây dựng bằng sơ đồ, bảng biểu... Rồi chúng ta tư vấn hướng
dẫn, định hướng thêm cho các em. Tôi thường cho HS thực hiện qua các bước sau:
Bước 1. Xây dựng ý tưởng;
Bước 2. Xây dựng kế hoạch;
Bước 3. Công tác chuẩn bị thực hiện;
Bước 4. Tổ chức thực hiện;
Bước 5. Đánh giá kết quả thực hiện.

Việc các em được tham gia đầy đủ vào từng bước sẽ giúp hình thành và rèn luyện
các phẩm chất năng lực cần thiết: năng lực giao tiếp và hợp tác, giải quyết vấn đề và
sáng tạo,... Do đó, giáo viên khơng nên coi nhe một bước nào. Đặc biệt, khi tổ chức hoạt
động trải nghiệm, giáo viên cần lựa chọn những nội dung để học sinh cả lớp được tham
gia; khuyến khích, động viên và tạo cơ hội để các em được tham gia bàn bạc từ khâu
chuẩn bị đến khâu thực hiện và có viết thu hoạch cho bản thân sau mỗi hoạt động. Có
làm như vậy, mới hình thành được ở các em năng lực phán đốn, óc tổ chức, năng lực
tổng kết đánh giá cũng như các phẩm chất tự tin, tự chịu trách nhiệm, tinh thần hợp tác
chia sẻ.
Ví dụ : Ở bước 1 khi giúp học sinh xây dựng ý tưởng chuẩn bị cho hoạt động của
tháng 11, tôi có thể gợi ý bằng nhiều cách để học sinh xây dựng ý tưởng như sau: “Theo
các em, tháng 11 có ngày lễ nào lớn nhất? (20/11). Vậy các em có suy nghĩ gì về ngày
đó? Học sinh sẽ trả lời nhiều ý khác nhau. Trên cơ sở đó, tơi sẽ hướng cho học sinh thực
hiện một hoạt động có ý nghĩa để chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11.
Bước 2 : Tôi hướng dẫn học sinh phải định hình những cơng việc cần làm làm là gì? Tổ
chức ở đâu? Những ai thực hiện? Cần có sự giúp đỡ của ai ở trong hoặc ngoài nhà
trường? Cần những gì về cơ sở vật chất, thiết bị, đồ dùng... để thực hiện? Lúc này, vai
trò của Hội đồng tự quản lớp được phát huy. Các em vừa là người thu thập và xử lý
thơng tin, phân tích tình hình và tổ chức lớp để bàn bạc đi đến thống nhất nội dung công
việc cần làm. Như vậy, ngay từ hoạt động này, các em được bộc lộ nhiều khả năng:
Ngơn ngữ, giao tiếp, phân tích, phán đốn, lắng nghe, cách trình bày, tổng hợp, tính
tốn... Đó là cái đích mà chúng ta đang rất cần ở các em. Vì thế, phát huy vai trò của học
sinh từ bước 2 là quan trọng để các em làm tốt các bước tiếp theo.
13


Phạm Thị Hồng Gv THCS Trần Hưng Đạo – TX Quảng Yên – Quảng Ninh
()
Giải pháp 8: Tổ chức và duy trì tốt hoạt động của hội đồng tự quản; hoạt động
các câu lạc bộ sở thích; phát huy tác dụng của các góc trang trí lớp học, hoạt động

thư viện thân thiện…
Giáo viên cần mạnh dạn giao cho hội đồng tự quản thực hiện các nhiệm vụ quản lí
lớp, duy trì tổ chức sinh hoạt lớp, giờ chào cờ đầu tuần; khuyến khích các em tích cực
tham gia trang trí lớp, tự tổ chức các hoạt động vui chơi, đăng kí tham gia các câu lạc
bộ, tránh làm thay, làm hộ học sinh. Giáo viên chỉ đóng vai trị là người tư vấn giúp đỡ.
Làm như vậy các em mới có cơ hội bộc lộ khả năng của bản thân, rèn luyện các phẩm
chất, năng lực cần thiết. Mặt khác, hội đồng tự quản nên được thay đổi nhiều lần trong
năm học, học sinh trong các ban cũng nên có sự thay đổi vị trí trong một năm học và vai
trị trưởng ban, phó ban cũng nên thay đổi. Cuối tuần, trong tiết sinh hoạt lớp, khi nhận
xét đánh giá hoạt động của lớp thuộc ban mình phụ trách mỗi tuần nên cho một em trong
ban đó lên đánh giá nhận xét, không nên chỉ để tuần nào cũng chỉ có em trưởng ban lên
đánh giá nhận xét .Việc làm đó nhằm đảm bảo cho tất cả học sinh đều có cơ hội tham gia
nhiều hoạt động. Do vậy, năng lực chỉ đạo tổ chức lãnh đạo của các em được hình thành,
phẩm chất tự tin, tự trọng, chịu trách nhiệm về việc làm bản thân cao hơn, phẩm chất tôn
trọng ý thức kỉ luật tốt hơn. Để phát huy vai trị của thư viện thân thiện, ngồi việc thành
lập các ban, tơi cịn thành lập đội hỗ trợ thư viện để các em tham gia. Từ đó, ý thức tự
quản của các em được nâng lên.
Giải pháp 9: Giúp trẻ phát triển các phẩm chất, năng lực, kỹ năng sống qua
việc tổ chức các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh trong nhà trường, đảm bảo an
toàn phòng chống dịch
Nội dung phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, trong
đó có nội dung: Nhà trường cần tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao một cách thiết
thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh. Tổ chức các trò chơi dân
gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của học sinh.
Căn cứ vào nội dung trên, tôi đã xây dựng kế hoạch và thực hiện nhiều hoạt động
một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của các em. Cụ thể như
sau:
Ví dụ: Phát động học sưu tầm các bài hát, điệu múa thể loại dân ca cho học sinh
phù hợp theo từng lứa tuổi để trình diễn trong các buổi sinh hoạt lớp, buổi chào cờ đầu
tuần chẳng hạn. Khuyến khích các em chơi các trị chơi dân gian, các trị chơi bổ ích như

đá cầu, cầu lơng, bóng bàn, cờ vua. Để khuyến khích các em, tơi đã trích một phần quỹ
lớp mua một số bộ đồ chơi phù hợp với các em như bàn cờ, bóng bàn, cờ vua...để các
em hoạt động trong các giờ ra chơi, tạo sân chơi lành mahj cho các em. Qua đó phát
triển cho các em một số năng lực phẩm chất như: năng lực sáng tạo, hợp tác, giao tiếp...
và một số phẩm chất như: đoàn kết, yêu quí bạn bè, trường lớp, yêu quê hương đất nước;
mạnh dạn tự tin thể hiện mình...Chính vì thế mà các cuộc thi văn nghệ, thể thao các cấp
trường, cấp huyện đều có học sinh lớp tơi tham gia và đạt giải.
14


Phạm Thị Hồng Gv THCS Trần Hưng Đạo – TX Quảng Yên – Quảng Ninh
()
Giải pháp 10: Làm tốt công tác chủ nhiệm lớp, gần gũi và tạo mối quan hệ
thân thiện với học sinh.
Giáo viên chủ nhiệm lớp phải biết dùng tình thương và trách nhiệm để cảm hố
học sinh hay chính là để làm gương cho các em. Một thầy cơ muốn hồn thành nhiệm vụ
của giáo viên chủ nhiệm trước hết phải có tâm, có tấm lịng và ln vì tình u thương
con người, có sự độ lượng, bao dung, đồng thời phải giỏi về tâm lý lứa tuổi, có nhiều
biện pháp giáo dục tinh tế. Cùng đó, giáo viên chủ nhiệm cịn cần am hiểu và biết cách
tổ chức giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Đối với những học sinh có biểu hiện lệch
lạc về nhân cách, giáo viên chủ nhiệm chính là người thay mặt nhà trường cùng với gia
đình có những biện pháp “kéo” các em trở về với “cái thiện”, hay giúp các em học tập
những gương sáng xung quanh mình.
Thầy cơ giáo chủ nhiệm cịn cần biết xây dựng đội ngũ cán bộ lớp, cán bộ Đội
biết cách xây dựng điều hành một tập thể tự quản. Giáo viên chủ nhiệm còn phải biết
ứng xử giải quyết đúng các mối quan hệ giữa các em học sinh với nhau, giữa học sinh
với giáo viên, giữa giáo viên bộ môn với giáo viên chủ nhiệm; giữa giáo viên chủ nhiệm
với cha me học sinh. Và giáo viên chủ nhiệm còn cần biết động viên, biết vận động
thuyết phục. Thầy cô giáo chủ nhiệm là cầu nối quan trọng để kết nối ba mơi trường
giáo dục: nhà trường, gia đình và xã hội. Nếu như trước đây, nhiệm vụ của giáo viên chủ

nhiệm chủ yếu là định hướng, hướng dẫn hành vi đạo đức cho học sinh, thì ngày nay,
ngồi cơng tác chun mơn, giáo viên chủ nhiệm cịn phải kiêm thêm nhiều công việc
khác từ việc học tập của học sinh đến nề nếp, giải quyết những vấn đề tâm tư tình cảm,
những tình huống phát sinh của học sinh trong lớp. Vì thế, ngồi việc đầu tư vào mơn
dạy của mình sao cho vừa đảm bảo nội dung lên lớp vừa tạo sự hấp dẫn, sáng tạo, mới
mẻ thì cần có phương pháp giáo dục hợp lý, linh hoạt, hiểu biết tâm lý học sinh. Và điều
không thể thiếu là phải có tâm huyết và tình u thương đối với học sinh. Cuộc vận
động "Kỷ cương - Tình thương - Trách nhiệm" được khởi xướng từ nhiều năm học trước
để xây dựng phong cách giáo viên, nhất là giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo dục đạo
đức, kỹ năng sống cho học sinh. Làm chủ nhiệm là một nghệ thuật, đòi hỏi người giáo
viên phải là tấm gương sáng về đạo đức, mẫu mực từ lời ăn tiếng nói, tác phong làm
việc cho đến trình độ chun mơn; quan hệ với học trò như là một người bạn lớn, vừa
gần gũi, vừa đáng tin cậy; kiên trì trong giáo dục học sinh theo kiểu mưa dầm thấm lâu;
giáo dục phẩm chất và kỹ năng sống cho học sinh phải trở thành thói quen của giáo viên
chủ nhiệm. Có như vậy thì mới hình thành được tốt năng lực, phẩm chất cho học sinh.
Ví dụ: Trong giờ ra chơi, tơi thường cùng học sinh trao đổi ý kiến, trò chuyện cùng
nhau, tơi ln tạo điều kiện cho cơ trị gần gũi tình cảm, chia sẻ cảm thơng nhau hơn. Có
như vậy thì các em mới dám nói, dám tâm sự thì giáo viên mới hiểu được tâm tư tình
cảm của các em. Việc này theo tôi là điều kiện rất thuận lợi trong nhiệm vụ giáo dục
phẩm chất cho học sinh. Hoặc khi mới bước vào năm học, sau khi tôi nhận lớp, để tạo sự
gần gũi và gắn kết giữa học sinh và giáo viên chủ nhiệm, tôi sắp xếp nhiều thời gian cho
học sinh được giới thiệu về bản thân, động viên khuyến khích các em chia sẻ với nhau
15


Phạm Thị Hồng Gv THCS Trần Hưng Đạo – TX Quảng Yên – Quảng Ninh
()
về những sở thích, ước mơ tương lai cũng như mong muốn của các em. Hoạt động này
giúp cơ trị hiểu nhau hơn, đồng thời muốn tạo một môi trường học tập thân thiện - Nơi
"Trường học thật sự trở thành ngôi nhà thứ hai của các em, các thầy cô giáo là

những người thân trong gia đình". Đây cũng là một điều kiện theo tơi là rất quan
trọng để phát triển khả năng giao tiếp của học sinh. Bởi học sinh không thể mạnh dạn, tự
tin trong một mơi trường mà giáo viên ln gị bó và áp đặt. Tiếp theo trong tuần đầu tơi
cho học sinh tự do lựa chọn vị trí ngồi của mình để qua đó phần nào nắm được đặc
điểm tính các của các em : mạnh dạn hay nhút nhát, thụ động ...Và tiếp tục qua những
tuần học sau, tôi chú ý quan sát những biểu hiện về thái độ học tập, những cử chỉ, hành
vi tại vị trí ngồi mà các em chọn để bắt đầu có điều chỉnh phù hợp.
Giáo viên chủ nhiệm còn là cầu nối trung gian giữa nhà trường và gia đình học
sinh. Giáo viên phải hiểu được học sinh để có thể nắm bắt kịp thời vấn đề tâm sinh lý
cũng như những biểu hiện bất thường của các em học sinh kịp thời
Ví dụ: Trên lớp tôi không chỉ quan sát học sinh học tập, mà khi thấy học sinh có
biểu hiện khác thường như buồn, lo lắng điều gì đó chẳng hạn. Tơi phải nhe nhàng đến
gần hỏi xem em đó làm sao, có ốm đau gì hay có gì muốn nói với cô không. Ánh mắt
thân thiện của tôi đã giúp học sinh nói ra được những điều em nghĩ Vậy là tôi đã thành
công trong ứng xử này. Hoặc trong tiết sinh hoạt lớp tôi thường cho các em tự đánh giá
bản thân mình, đánh giá ưu điểm của nhau, từ đó các em tự rút ra bài học cho bản thân.
Khi học sinh nhận ra các điểm yếu của mình tơi thường giúp các em tự tin hơn bằng
những lời khuyên, lời tâm sự chân thành nhất. Thế là với sự tin tưởng của cô giáo các
em phấn chấn hẳn lên, tự tin hơn, mạnh dạn hơn. Các em tự bày tỏ suy nghĩ của bản
thân, các em kiểm sốt được bản thân mình, nhận biết được, điều chỉnh được các hoạt
động của mình cho phù hợp. Đây là điều tôi thấy rất cần thiết trong cuộc sống của các
em sau này.
Giải pháp 11: Tạo môi trường học tập thân thiện cho các em.
Để tạo không gian lớp học thân thiện, trong lớp, tôi cho các em trồng cây xanh
bên cửa sổ, trên bục giảng. Tôi giao cho mỗi tổ chịu trách nhiệm chăm sóc một vài cây,
mỗi nhóm có trách nhiệm lau cửa sổ của nhóm mình sạch sẽ. Nhà trường phân cơng mỗi
lớp chăm sóc một bồn hoa, cây cảnh như vậy chính là giáo dục các em phẩm chất yêu
trường lớp, ý thức bảo vệ môi trường. Mặt khác tơi cho các em trang trí các góc học tập,
trưng bày các bài viết, bài làm hay, làm tốt của chính các học sinh trong lớp. Đó là bài
học thiết thực cho các em khác nhận thức giá trị bản thân của mình mà noi theo những

gương tốt trong lớp. Ngoài ra các tranh ảnh phục vụ cho dạy kỹ năng sống cũng được
chính các em sưu tầm và vẽ bằng chính đơi tay của mình. Ví dụ :Tơi gợi ý các em vẽ
một số hình ảnh chăm sóc cây xanh, an tồn giao thơng, bảo vệ mơi trường, phịng
chống ma t, rượu, thuốc lá, khơng chơi đùa nơi đường dây điện chạy qua, sử dụng tiết
kiệm điện... Chính các bài vẽ, các bức tranh do các em tự vẽ hoặc sưu tầm dán trên lớp
đã góp phần hình thành nhân cách đạo đức cho các em. Ngồi ra trong lớp các em cịn
16


Phạm Thị Hồng Gv THCS Trần Hưng Đạo – TX Quảng Yên – Quảng Ninh
()
xây dựng các góc: góc thư viện, góc thế giới cổ tích nơi dành cho các em sưu tầm các
câu chuyện đem đến lớp cùng đọc, cùng trao đổi. Mặt khác nhà trường có phịng đọc
sách, phịng thư viện có sách tham khảo cho học sinh tìm tịi các sách truyện mình u
thích.Việc làm này chính là tạo cho các em năng lực tìm tịi, tìm kiếm thông tin.
Mặt khác, trong các giờ học, tôi luôn chú ý tạo môi trường học tập thân thiện
trong mối quan hệ giữa thày – trị; trị- trị. Tơi ln tạo điều kiện cho học sinh được trao
đổi, được học hỏi, tìm tịi khám phá, tiếp nhận kiến thức một cách nhe nhàng và hiệu
quả nhất.
Giải pháp 12: Tuyên truyền cho các bậc cha mẹ kết hợp giúp học sinh hình
thành năng lực, phẩm chất ngay từ gia đình.
Tơi tận dụng buổi họp phụ huynh để trao đổi, phỏng vấn phụ huynh về việc dạy
dỗ, quản lý các em ở nhà như thế nào, qua trị chuyện tơi đã hiểu được hồn cảnh gia
đình của các em, cách cha me dạy con. Tơi tìm hiểu và thống kê được điểm yếu của
từng em, tìm được các năng lực nào các em cịn yếu, chưa có được để từ đó tơi chủ động
tuyên truyền tới phụ huynh cách dạy trẻ kỹ năng sống trong gia đình để cùng phối hợp
với nhà trường giáo dục các em. Sau đó, tơi có đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống của
học sinh cho các bậc phụ huynh vào những lần họp phụ huynh lớp; cung cấp cho các bậc
phụ huynh những kiến thức và phương pháp chăm sóc, giáo dục con em phù hợp với đặc
điểm từng độ tuổi. Khi bàn biện pháp giáo dục các em trong cuộc họp tôi cũng mạnh

dạn đưa ra ý kiến ví dụ như: Cần cho phụ huynh hiểu rằng trong gia đình, việc cha me
dạy các em những nghi thức văn hóa là rất cần thiết. Để các em có được những kỹ xảo,
thói quen sử dụng đồ dùng một cách chính xác thuần thục và khéo léo, khơng chỉ địi hỏi
các em phải thường xun luyện tập, mà còn phải đáp ứng được những nhu cầu của các
em, đó là cung cấp cho các em những mẫu hành vi văn hóa, những hành vi đúng, đep,
văn minh của chính cha me và những người xung quanh các em. Để có được điều đó thì
cha me cũng cần phải kiểm sốt mình trước con cái. Trước hết, người lớn phải gương
mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với các em và đảm bảo an toàn cho các
em. Tạo điều kiện tốt nhất cho các em vui chơi ở nhà, ở lớp, ở trường. Trong gia đình,
cần thống nhất giờ học cho các em. Vào giờ đó các thành viên trong gia đình đều phải
tạo điều kiện cho con học bài. Cha me cần tập cho con làm các việc nhỏ trong gia đình
phù hợp khả năng của các em theo lứa tuổi. Không được nng chiều thái q, cha me
ln khuyến khích các em nói lên quan điểm của mình, trong gia đình về cảm giác và về
những lựa chọn của mình, cần giúp các em hiểu rằng nên có thơng số để theo đó mà lựa
chọn, cố gắng khơng chì trích các quyết định của các em. Việc này sẽ hình thành năng
lực tự quản, phẩm chất tự tin, yêu thương gia đình, tin tưởng người thân cho các em.
Ví dụ: Trẻ lớp 1 có thể được làm quen với những đồ dùng, vật dụng khác nhau,
(bộ đồ bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống), bằng cách trong khi nấu ăn cha me sai trẻ lấy giúp
các đồ dùng cho mình nấu nướng việc đơn giản đó cũng là đã rèn cho trẻ nhận biết,
cách sử dụng các vật dụng thông thường rèn tính cẩn thận khi cầm, nắm các vật dụng đó.
17


Phạm Thị Hồng Gv THCS Trần Hưng Đạo – TX Quảng Yên – Quảng Ninh
()
Với học sinh lớp 4,5 có thể hướng dẫn các em nấu cơm, luộc rau và cọ rửa chén bát, sắp
xếp đồ dùng trong nhà... Chính các việc đó tạo cho các em năng lực tự phục vụ rất tốt.
Sự sạch sẽ, gọn gàng, một thói quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn nắp, ngay ngắn những bộ
đồ dùng, vật dụng, thái độ, ăn uống từ tốn, khơng vội vã, khơng khí cởi mở, thoải mái và
đầm ấm, những cuộc trao đổi nhe nhàng, dễ chịu tất cả những yếu tố trên sẽ giúp các em

có thói quen tốt để hình thành kỹ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn là trẻ có được kỹ năng
sống tự lập sau này.
Giải pháp 13: Trao đổi cùng các giáo viên khác để tìm ra biện pháp hình thành
năng lực, phẩm chất cho các em một cách hiệu quả nhất.
Tôi thường xuyên trao đổi cùng đồng nghiệp thống nhất một số biện pháp giúp
học sinh hình thành năng lực, phẩm chất tốt nhất qua các buổi sinh hoạt chun mơn,
hoặc đơi lúc qua trị chuyện, tâm sự trao đổi riêng tơi cũng rút ra cho mình được một bài
học nho nhỏ trong công tác rèn luyện học sinh. Tôi nghĩ việc làm này chúng ta không
nên bỏ qua nó rất hiệu quả trong việc bồi dưỡng phương pháp giáo dục cho mỗi chúng
ta.
Giải pháp 14: Động viên khen thưởng kịp thời, tranh thủ khem thưởng động
viên nhiều nhất có thể
Hàng ngày, hàng tuần, qua quan sát các biểu hiện trong các hoạt động của học
sinh, sau khi đánh giá nhận xét chỉ rõ cho các em nắm được điểm mạnh và điểm cần cố
gắng của từng em, tôi thường động viên, khích lệ, giúp học sinh khắc phục khó khăn,
phát huy các ưu điểm và các phẩm chất riêng điều chỉnh hoạt động, ứng xử kịp thời để
tiến bộ.
Một điều không thể thiếu nữa là để tạo sự hưng phấn, vui vẻ, phấn khởi, giúp các
em có ý thức cao trong việc rèn luyện tu dưỡng bản thân, tơi ln chú ý động viên,
khuyến khích học sinh thực hiện tốt các hoạt động học tập, rèn luyện. Ngay từ buổi họp
phụ huynh đầu năm học tôi trao đổi với hội phụ huynh lớp cùng phối hợp và dành một
khoản chi phí riêng để khen thưởng kịp thời động viên các em để tạo cho các em có một
động cơ tốt trong việc duy trì thực hiện nội quy, nền nếp. Sau mỗi cuộc thi đua tôi nêu
gương, tuyên dương kịp thời những em có kết quả tốt. Tơi phân công học sinh trong đội
tự quản của lớp theo dõi hằng ngày những em có biểu hiện tốt, có việc làm tốt ghi vào
sổ, trong tiết sinh hoạt cuối tuần cho các em bình chọn những bạn thực hiện tốt sẽ được
một bông hoa.
Mỗi học kỳ tôi tổng kết 1 lần cùng phụ huynh tổ chức khen thưởng những em đã
đạt nhiều thành tích. Các em rất vui và hãnh diện. Vì thế các em khơng ngừng thi đua cố
gắng thực hiện tốt mọi yêu cầu học tập, tích cực trong các hoạt động. Đây là một hình

thức động viên về tinh thần rất giá trị và hiệu quả. Các em sẽ nhanh nhen hơn, có ý thức
rèn luyện đạo đức tốt hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin, trách nhiệm hơn trong
cuộc sống, đó cũng là một biện pháp hình thành phẩm chất cho học sinh một cách hiệu
quả.
18


Phạm Thị Hồng Gv THCS Trần Hưng Đạo – TX Quảng Yên – Quảng Ninh
()
Giải pháp 15: Khắc phục một số khó khăn trong dạy học trực tuyến để ứng phó
với dịch COVID-19
Do ảnh hưởng của dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, hơn 20 triệu học sinh, sinh viên
và gần 2 triệu nhà giáo các cấp học chưa thể tiếp tục theo phương thức dạy học trực tiếp.
Chuyển sang dạy học trực tuyến là lựa chọn thích ứng phù hợp trong bối cảnh hiện nay.
Dạy học trực tuyến có nhiều ưu điểm nhưng cũng đặt ra khơng ít thách thức mà ngành
Giáo dục và Đào tạo đã và đang nỗ lực khắc phục, vượt qua.
Do ảnh hưởng của dịch COVID-19, khai giảng năm học 2022-2023, Hải Phòng và một
số tỉnh, thành phố khai giảng đan xen giữa các hình thức trực tuyến hoặc trên truyền
hình vào đúng ngày 5/9, đảm bảo các quy định về giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 của
Chính phủ.
Trong năm học này, hơn 20 triệu học sinh, sinh viên và gần 2 triệu nhà giáo các cấp học
chưa thể tiếp tục dạy học và học theo phương thức dạy học trực tiếp. Nhiều cơ sở giáo
dục và đào tạo phải đóng cửa kéo dài hoặc chuyển sang dạy học trực tuyến trong điều
kiện thiếu sự chuẩn bị và bị động về năng lực đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý và cơ sở
vật chất, hạ tầng kỹ thuật. Tình trạng này bị gián đoạn và kéo dài qua bốn đợt bùng phát
dịch COVID-19 đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo đảm chương trình, phương pháp,
kế hoạch tổ chức dạy và học, hoạt động của trường, lớp và đến sự phát triển của trẻ em,
học sinh, sinh viên cả nước.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự vào cuộc quyết liệt,
trách nhiệm, hiệu quả của cả hệ thống chính trị, ngành Giáo dục và đào tạo ở nước ta đã

có nhiều đổi mới, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, cải thiện cơ sở vật chất, thiết
bị dạy học; thay đổi, điều chỉnh các hoạt động dạy học, tổ chức dạy học trực tuyến góp
phần phát triển năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy-học,
thúc đẩy chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo; mở rộng cơ hội tiếp cận giáo dục cho
học sinh, tạo điều kiện để trẻ em, học sinh, sinh viên được học ở mọi nơi, mọi lúc và bảo
đảm cơng tác phịng, chống dịch, thích ứng với tình hình của dịch COVID-19; đồng thời
thực hiện tốt phương châm “tạm dừng đến trường, không dừng học” đáp ứng mục tiêu
chương trình, kế hoạch cơng tác của năm học.
Đối với giáo dục tiểu học, việc triển khai dạy học trực tuyến, qua truyền hình là giải
pháp hữu hiệu của các nhà trường nhằm giúp học sinh không quên kiến thức, duy trì nền
nếp học tập. Để triển khai tổ chức dạy học trên truyền hình hiệu quả, phù hợp với đặc
trưng cấp tiểu học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức xây dựng bộ tài liệu hướng dẫn
xây dựng kế hoạch và tổ chức dạy học trên truyền hình thực hiện chương trình giáo dục
phổ thơng cấp tiểu học với mục tiêu xây dựng tài liệu hướng dẫn kỹ thuật, sử dụng
19


Phạm Thị Hồng Gv THCS Trần Hưng Đạo – TX Quảng Yên – Quảng Ninh
()
phương pháp dạy học qua truyền hình cho giáo viên tiểu học trong thực hiện chương
trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học nhằm trang bị cho giáo viên các phương pháp, kĩ
thuật cơ bản trong thực hiện quy trình tổ chức dạy học qua truyền hình.
Một số vấn đề đặt ra đối với dạy học trực tuyến
Trong thời gian đầu, việc triển khai hình thức dạy học trực tuyến cịn có sự lúng
túng. Cán bộ quản lý, giáo viên chưa được tập huấn hình thức dạy học mới; học sinh,
sinh viên chưa được chuẩn bị tâm thế; điều kiện hạ tầng kỹ thuật còn tự phát, chưa đồng
bộ… Những điều này tác động không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả của việc dạy và học.
Đối với giáo dục mầm non, do dịch COVID-19 kéo dài, trẻ em phải nghỉ ở nhà trong
thời gian dài, ảnh hưởng đến nền nếp, thói quen thực hiện chế độ sinh hoạt theo yêu cầu
phát triển của độ tuổi. Một số cơ sở giáo dục và đào tạo ở các cấp học gặp khó khăn khi

triển khai dạy học trực tuyến, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh, sinh viên
nhất là khi dịch bệnh diễn biến phức tạp trên phạm vi rộng. Với số lượng học sinh, sinh
viên chiếm khoảng 25% dân số cả nước, chỉ cần 2 triệu lượt truy cập cùng lúc sẽ rất khó
để đường truyền đảm bảo duy trì giờ học được ổn định. Hơn nữa, nhiều gia đình học
sinh, sinh viên điều kiện kinh tế khó khăn, khơng có đủ phương tiện, máy tính để học
tập, tiếp cận cơng nghệ, tiếp thu bài giảng. Bên cạnh đó, một số địa phương chưa thực sự
quan tâm sâu sát chỉ đạo triển khai nội dung “Dạy học Tiếng Việt lớp 1” trên truyền
hình; chưa chú trọng tăng cường kiểm tra, khảo sát để nắm tình hình triển khai và có
phương án hỗ trợ kịp thời giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học môn Tiếng Việt
lớp 1, lớp học tiền đề giúp cho trẻ phát triển kỹ năng, nhất là các kỹ năng đọc - hiểu và
kỹ năng viết (bao gồm viết chính tả và làm văn). Đây là yêu cầu cơ bản phải được thực
hiện thuần thục từ các lớp đầu cấp, nhất là lớp 1.
Đổi mới phương pháp, hình thức dạy học ở một bộ phận giáo viên, cán bộ quản lý giáo
dục chưa thực sự được chú trọng. Vẫn cịn tình trạng quản lý, tổ chức dạy học theo
phương pháp truyền thống, nặng về truyền thụ kiến thức một chiều, chưa chú trọng đến
việc tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh và vận dụng kiến thức đã học vào giải
quyết các tình huống trong thực tiễn. Việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong
quản lý, dạy học và kiểm tra, đánh giá còn hạn chế ở một số nơi. Hạ tầng và trang thiết
bị cơng nghệ thơng tin ở các địa phương cịn thiếu đồng bộ, nhiều nơi còn hạn chế cả về
số lượng, chất lượng. Việc triển khai quản lý hồ sơ, sổ điểm điện tử còn hạn chế.
Để khắc phục hạn chế này, các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo
(Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội) đã kịp thời ban
hành nhiều văn bản hướng dẫn, chỉ đạo các cấp học tổ chức triển khai dạy học trực tuyến
và đánh giá kết quả học tập của học sinh, sinh viên. Từ đó, đã tạo hành lang pháp lý với
20


Phạm Thị Hồng Gv THCS Trần Hưng Đạo – TX Quảng Yên – Quảng Ninh
()
mục đích hỗ trợ hoặc thay thế dạy học trực tiếp tại cơ sở giáo dục phổ thông và giáo dục

thường xuyên, giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp nâng cao chất lượng dạy học và
hồn thành chương trình, kế hoạch giáo dục…Thực hiện linh hoạt việc kiểm tra, đánh
giá học sinh, sinh viên các cấp học theo hình thức trực tuyến bước đầu học sinh, cha
me học sinh và xã hội ủng hộ.
Nâng cao chất lượng dạy học trong thời gian tới
Trong bối cảnh dịch COVID-19 vẫn tiếp tục diễn biến hết sức phức tạp, khó lường, để
triển khai nhiệm vụ năm học mới theo tinh thần chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chính
phủ, ngành Giáo dục và Đào tạo cần đẩy mạnh triển khai các nhiệm vụ, giải pháp tổ
chức dạy học an tồn, bảo đảm chương trình và mục tiêu chất lượng giáo dục, tập trung
đổi mới mạnh mẽ phương pháp tổ chức dạy học, đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy
học để khắc phục, ứng phó với tác động của dịch COVID-19 và các tình huống bất
thường khác đối với các cấp học. Để nâng cao chất lượng dạy và học trong thời gian tới,
cần chú trọng một số nhiệm vụ trọng tâm như sau:
Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền, truyền thông để quán triệt và thực hiện các
chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo. Tích cực thực hiện các giải pháp đảm bảo vừa phòng
chống dịch COVID-19 hiệu quả, vừa chủ động thực hiện các phương án, kịch bản cụ thể
để tổ chức dạy học phù hợp với diễn biến của dịch bệnh, bảo đảm an toàn về thể
chất, tinh thần cho người học; bảo đảm trường học an toàn và khả năng đáp ứng của cơ
sở giáo dục và đào tạo và điều kiện thực tế của người học.
Thứ hai, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tiếp tục chỉ
đạo, hướng dẫn các cơ sở giáo dục và đào tạo xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch
năm học linh hoạt và sáng tạo, triển khai hiệu quả các phương pháp và hình thức dạy
học tích cực, có chất lượng phù hợp bối cảnh của địa phương.
Tổ chức rà sốt, hồn thiện ban hành các văn bản hướng dẫn dạy học trực tuyến và đào
tạo từ xa, phát triển các nguồn học liệu điện tử phong phú, hợp lý, dễ sử dụng. Bổ sung
bài giảng xây dựng kho học liệu điện tử kết nối với Hệ Tri thức Việt số hóa chia sẻ dùng
chung cho cả nước để sẵn sàng cho tổ chức dạy học trực tuyến, dạy học qua truyền hình
trong điều kiện dịch COVID-19 diễn biến ngày càng phức tạp, cũng như xuất hiện ngày
càng nhiều loại dịch mới, khó lường. Hiện nay, có gần 7.000 bài giảng trực tuyến, trong

đó có 1.500 video bài giảng trên truyền hình có chất lượng. Có 14 kênh truyền hình của
Trung ương và địa phương thường xuyên phát chương trình ôn tập và dạy học.
Tổ chức xây dựng kế hoạch giáo án dạy học trực tuyến bảo đảm các yêu cầu về phương
pháp dạy học, kỹ thuật dạy học, thiết bị dạy học và học liệu, phương án kiểm tra, đánh
21


Phạm Thị Hồng Gv THCS Trần Hưng Đạo – TX Quảng Yên – Quảng Ninh
()
giá trong quá trình dạy học. Tổ chức xây dựng các video bài giảng để tổ chức dạy học
trên truyền hình theo chương trình các mơn học, hoạt động giáo dục; bảo đảm lịch phát
sóng cụ thể theo từng bài học, môn học, lớp học được phổ biến đến các đối tượng người
học. Tăng cường kết hợp dạy học qua truyền hình với dạy học trực tiếp tại trường (hình
thức học pha trộn- Blended learning), hướng dẫn học sinh, sinh viên tham gia học tập
các bài học trên truyền hình phù hợp với kế hoạch giáo dục nhà trường.
Xây dựng hệ thống đề thi, bài kiểm tra, ngân hàng câu hỏi; chuẩn bị tốt các điều kiện
để thực hiệnkiểm tra, đánh giá trực tuyếntheo quy định, bảo đảm chất lượng, chính
xác, hiệu quả, cơng bằng, khách quan, trung thực; đánh giá đúng năng lực của học sinh,
phù hợp với tình hình dịch bệnh. Đa dạng hóa các hình thức đào tạo, tăng cường đào tạo
quốc tế; liên kết với các doanh nghiệp trong quá trình đào tạo để người học am hiểu thực
tế vận hành chuỗi cung ứng; bồi dưỡng, cập nhật kiến thức kỹ năng cho người lao động
để họ thích nghi với cơng nghệ mới hoặc đối phó với mất nghề, chuyển nghề do tác
động dịch bệnh…
Thứ ba, nâng cao năng lực chuyển đổi số cho đội ngũ giáo viên, giảng viên, cán bộ quản
lý giáo dục và đào tạo thực hiện các nhiệm vụ chuyển đổi số để đáp ứng yêu cầu của các
phương thức dạy học mới, bao gồm ứng dụng công nghệ giáo dục (Edtech) trong lớp
học, ứng dụng các phần mềm Edtech (công nghệ giáo dục) trong phương pháp dạy học,
kỹ năng, phương pháp dạy học trên truyền hình cho giáo viên và ứng dụng công
nghệ số trong quản lý giáo dục.
Xây dựng cẩm nang và tổ chức tập huấn dạy học trực tuyến cho đội ngũ giáo viên.

Hướng dẫn về chuẩn tối thiểu cho một bài giảng trên truyền hình. Giáo viên tăng cường
giao nhiệm vụ cho học sinh tự nghiên cứu sách giáo khoa và tài liệu tham khảo, xem
video, thí nghiệm mơ phỏng để tiếp nhận và vận dụng kiến thức trả lời các câu hỏi, bài
tập được giao thực hiện ở nhà hoặc qua mạng; tổ chức cho học sinh, sinh viên báo cáo,
thuyết trình, thảo luận, luyện tập, thực hành, kết quả tự học của mình phù hợp trên mơi
trường mạng.
Thứ tư, các cơ sở giáo dục và đào tạo chủ động điều chỉnh, tinh giản nội dung, thay đổi
phương thức và cập nhật nội dung giáo dục và đào tạo; phối hợp với các cơ quan, tổ
chức có liên quan xây dựng kế hoạch dạy học trực tuyến, dạy học trên truyền hình; cung
cấp cho người học nhiều kỹ năng mới hơn để đáp ứng yêu cầu thị trường lao động; phát
triển kho học liệu điện tử, các video hỗ trợ việc chăm sóc, giáo dục trẻ em, học sinh,
sinh viên để sử dụng hiệu quả trong việc tổ chức dạy học trực tuyến, dạy học trên truyền
hình; khai thác, chia sẻ hiệu quả các công cụ hỗ trợ, kho tài liệu, học liệu trực tuyến.
22


Phạm Thị Hồng Gv THCS Trần Hưng Đạo – TX Quảng Yên – Quảng Ninh
()
Thứ năm, Bộ Thông tin và Truyền thông sớm ban hành hướng dẫn sử dụng an tồn các
phần mềm, cơng cụ dạy học trực tuyến; chỉ đạo các tập đồn, doanh nghiệp viễn thơng,
cơng nghệ thơng tin nghiên cứu, phát triển các giải pháp, nền tảng dạy học và học trực
tuyến, học liệu số; hỗ trợ các cơ sở giáo dục, học sinh, sinh viên, giáo viên tiếp cận hạ
tầng số, dịch vụ truy cập internet tốc độ cao an toàn, dễ sử dụng; chỉ đạo các doanh
nghiệp viễn thông xem xét, miễn giảm giá cước truy cập Internet cho học sinh, sinh
viên, giáo viên, giá cước sử dụng giải pháp giáo dục, đào tạo và quản lý giáo dục cho
các cơ sở giáo dục, giá dịch vụ thuê máy chủ, băng thông phục vụ đào tạo từ xa cho các
cơ sở giáo dục đại học.
Thứ sáu, các cấp ủy đảng, chính quyền các địa phương cần có các giải pháp ưu tiên
nguồn lực bảo đảm điều kiện để dạy học trực tuyến, có chính sách hỗ trợ giáo viên, trẻ
em, học sinh, sinh viên khó khăn khơng có phương tiện để dạy và học trực tuyến, tiếp

cận phương thức dạy học mới. Huy động các nguồn lực từ các tổ chức, doanh nghiệp,
tập đoàn hỗ trợ, tạo điều kiện cho các nhà trường, gia đình học sinh, sinh viên, giáo viên
gặp khó khăn về tài chính, cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, cơng nghệ để trang bị thiết
bị dạy và học tối thiểu phục vụ học tập và giảng dạy trực tuyến, phù hợp phương thức
dạy học mới.
2.4. Hiệu quả mang lại.
Sau khi áp dụng các biện pháp trên, cuối năm học tôi đã thu được kết quả như sau:
a. Năng lực:
STT

Số HS xếp Đạt
ở mức Tốt

Các năng lực

Số em xếp ở
mức Đạt

Số em chưa
Đạt

1

Tự chủ và tự học

30

75 %

10


25%

0

0

2

Giao tiếp, hợp tác

35

87,5%

5

12,5%

0

0

3

Tính toán

28

70 %


12

30 %

0

0

b. Phẩm chất
Số em xếp Đạt
ở mức Tốt

STT

Các phẩm chất

Số em xếp Đạt

1

Phẩm chất yêu nước

38

95%

2

5%


0

2

Phẩm chất nhân ái

38

95%

5

5%

0

3

Phẩm chất chăm chỉ

33

82,5%

7

17,5%

0


23

Số em chưa đạt


Phạm Thị Hồng Gv THCS Trần Hưng Đạo – TX Quảng Yên – Quảng Ninh
()
4 Phẩm chất trung thực
37
92,5%
3
7,5%
0
và trách nhiệm
Bảng kết quả trên cho thấy sau khi áp dụng các biện pháp hình thành và phát triển năng
lực, phẩm chất mà sáng kiến đưa ra thì kết quả đạt được về năng lực, phẩm chất của lớp
tôi rất khả quan. Tất cả các em đều đạt ở mức yêu cầu song số em đạt ở mức tốt tăng lên
đáng kể so với đầu năm. Lớp tôi luôn là lớp có kết quả cao nhất trong khối về mọi mặt,
là con chim đầu đàn của trường.
2.5. Khả năng ứng dụng và triển khai.
Mặc dầu đã được kiểm chứng qua thực tế ở trường nơi tôi đang công tác, đặc biệt
là lớp tôi chủ nhiệm (lớp 4A3). Song mới chỉ là kinh nghiệm nhỏ, chắc chắn sẽ khơng
tránh khỏi thiếu sót. Rất mong được sự giúp đỡ của Ban giám hiệu Nhà trường, quý thầy
cô và bè bạn. Để kinh nghiệm này được hồn thiện hơn có ứng dụng cao hơn trong việc
dạy và học của ngành chúng ta. Và tôi mong rằng sáng kiến này của tơi có thể áp dụng
với tất cả các trường bạn trong huyện.
Đây là sáng kiến mà bản thân tôi nghiên cứu và thực hiện bước đầu có hiệu quả
cao. Trong học kì I của năm học 2022-2023 tập thể lớp 4A3 của tôi là con chim đầu đàn
trong mọi phong trào. Kết quả hai mặt giáo dục của lớp đạt cao nhất khối. Các cuộc thi

cấp trường, cấp huyện đều có học sinh của lớp tơi tham gia và đạt thành tích khá cao.
Nhà trường tổ chức các đợt thi đua như: Thi trang trí lớp, thi vở sạch chữ đep, thi thể
dục thể thao... lớp tơi đều có kết quả cao nhất.
2.6. Ý nghĩa của đề tài.
Việc nghiên cứu đề tài khoa học giáo dục là một vấn đề hết sức to lớn, nó ảnh hưởng đến
chất lượng giảng dạy và giáo dục học sinh trong nhà trường hiện nay.
Qua đề tài này, chúng ta thấy vị trí quan trọng của nhiệm vụ giáo dục làm sao để hình
thành phẩm chất, năng lực hiệu quả nhất cho học sinh nhất là trong giai đoạn khó khăn
của dịch bệnh COVID-19. Việc nghiên cứu đề tài khoa học giáo dục này đã giúp tôi
nhận thấy trách nhiệm vinh quang của người giáo viên nhân dân. Đó là: “Đào tạo thế hệ
trẻ thành những con người mới phát triển tồn diện có đủ đức và tài, nắm được những
kiến thức cơ bản có đủ trình độ và tài năng để tiếp thu sự phát triển của nền văn hóa
nước nhà”.
Phẩm chất, năng lực mỗi con người là một trong những nội dung có khả năng giáo
dục nhiều mặt: Khả năng để phát triển tư duy logic , bồi dưỡng và phát triển những thao
tác trí tuệ, nó giúp học sinh biết xử lí, giải quyết các tình huống khác nhau trong cuộc
sống...
24


Phạm Thị Hồng Gv THCS Trần Hưng Đạo – TX Quảng n – Quảng Ninh
()
Với cơng việc khó khăn ấy, việc tìm tịi, nghiên cứu phát hiện ra những biện pháp
tốt nhât để giáo dục các em là một việc làm vô cùng ý nghĩa với tôi. Song trong một
thời gian ngắn tôi đã nghiên cứu thực tế, khảo sát học sinh lớp mình phụ trách tìm ra
được nguyên nhân học sinh chưa đạt kết quả cao về năng lực, phẩm chất và từ đó đã đề
ra các biện pháp khắc phục như trên và phần lớn đã thu được kết quả đáng mừng. Với
những kết quả đạt ấy, tôi thấy được ý nghĩa rất to lớn của việc áp dụng những sáng kiến
mới vào giáo dục.
III. PHẦN KẾT LUẬN

3.1. Bài học kinh nghiệm :
Khi nghiên cứu sáng kiến này tơi cũng chỉ có một suy nghĩ nho nhỏ là làm sao
mình có thể giúp giáo viên trong trường có nhiều biện pháp hay trong việc hình thành
năng lực, phẩm chất cho học sinh. Nhưng thực sự, sau khi áp dụng tôi thấy sáng kiến
này mang lại hiệu quả tương đối cao. Trong năm học này, tôi tiếp tục thực hiện những
nghiên cứu của sáng kiến mới. Mặt khác, trong thời gian tới bản thân tôi sẽ tiếp tục
nghiên cứu, bổ sung thêm một số giải pháp và mạnh dạn đưa sáng kiến này áp dụng cho
tất cả đội ngũ cán bộ, giáo viên, công nhân viên và học sinh tại trường Tiểu học Ngũ
Lão trong những năm học này và các năm tiếp theo.
3.2. Kiến nghị, đề xuất
Để việc hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh đạt được hiệu
quả cao hơn tơi có một số đề xuất nho nhỏ như sau:
a. Đối với Ban giám hiệu:
- Tăng cường chỉ đạo giáo viên thường xuyên thực hiện và duy trì việc hình thành
và phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh.
- Triển khai những giải pháp trong việc tăng cường chỉ đạo hình thành và phát
triển năng lực, phẩm chất, kĩ năng sống cho học sinh đến đội ngũ giáo viên, công nhân
viên nhà trường để thực hiện một cách đồng bộ.
- Tuyên dương, khen thưởng kịp thời những giáo viên, công nhân viên thực hiện
tốt, thực hiện thường xuyên để khuyến khích các hoạt động nhằm phát triển năng lực,
phẩm chất cho học sinh, động viên họ duy trì và phát huy.
- Nhà trường cần làm tốt hơn nữa công tác phối kết hợp giữa các lực lượng giáo
dục như: Ban giám hiệu, giáo viên chuyên các môn, giáo viên chủ nhiệm, nhân viên và
các tổ chức ngoài xã hội như: hội phụ huynh, chính quyền và các tổ chức Đảng, đồn thể
tại địa phương, các tổ chức xã hội khác để cùng làm tốt nhiệm vụ giáo dục học sinh.
b. Đối với đội ngũ giáo viên
Tìm tịi và bổ sung thêm những giải pháp của từng cá nhân để thực hiện tốt và có
hiệu quả nhiệm vụ hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh. Theo dõi,
kiểm tra, tư vấn và động viện khuyến khích học sinh chủ động , tích cực tham gia các
hoạt động, thực hiện tốt nền nếp, ý thức kỷ luật nội quy của lớp, của nhà trường.

25


×