Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Vận dụng nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.3 KB, 26 trang )

VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI VIỆT NAM HIỆN
NAY


MỤC LỤC

2


MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Trong cuộc tấn công, chống phá ta của các thế lực phản động trong và ngoài
nước, chúng thường tập trung vào lĩnh vực tư tưởng, lý luận, bởi đây là lĩnh vực nhạy
cảm, có tác động lâu dài và khó lường. Với âm mưu xảo quyệt, các thế lực phản động
liên tục và ráo riết tiến hành các hoạt động chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận,
âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình"; thúc đẩy q trình “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ Đảng ta để đi đến tan rã, như sự sụp đổ của mơ hình chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đơng Âu trước đây.
Trước tình hình đó, Đảng ta chủ trương: “Đổi mới cơng tác tun truyền, giáo
dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Đấu tranh, ngăn chặn,
đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; ngăn chặn, đẩy lùi
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Tăng cường đấu tranh làm thất bại
mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch; chủ động ngăn
chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch”
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề cải tạo thực tiễn nền kinh tế luôn thu hút
sự quan tâm của nhiều đối tượng.


Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của bất
cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức và thực tiễn,
phương pháp biện chứng... luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt động
thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất phát từ một lập trường triết học
đúng đắn, con người có thể có được những cách giải quyết phù hợp với các vấn dề do
cuộc sống đặt ra. Việc chấp nhận hay khơng chấp nhận một lập trường triết học nào đó
sẽ không chỉ đơn thuần là sự chấp nhận một thế giới quan nhất định, một cách lý giải
nhất định về thế giới, mà còn là sự chấp nhận một cơ sở phương pháp luận nhất định
chỉ đạo cho hoạt động.
Ngay từ buổi đầu của lịch sử, con người phải lao động sản xuất tạo ra của cải
vật chất để tồn tại. Qua lao động mà kinh nghiệm được tích lũy phong phó, đó là cơ sở
cho việc khái qt lí luận. Phân công lao động phát triển, xã hội phân chia thành giai
cấp đối kháng, giai cấp thống trị có điều kiện vật chất để tách khái lao động chân tay
để chun nghiên cứu lí luận. Đó là cơ sở xã hội cho việc tách rời giữa thực tiễn với lí
luận đi đến đối lập chúng với nhau. Triết học Mác-Lênin đã thực hiện sự thống nhất
trở lại lí luận với thực tiễn. Sự thống nhất này thực hiện trên cơ sở phát triển cao cả
của thực tiễn và lí luận.

3


2.

3.

4.

Quan điểm của triết học Mác về sự thống nhất giữa lí luận và thực tiễn khơng
chỉ ở chỗ vạch rõ vai trò quyết định của thực tiễn đối với lí luận, coi thực tiễn là cơ sở,
là tiêu chuẩn, là mục đích quan trọng của lí luận với thực tiễn.

Cội nguồn của những đột phá tạo ra những bước tiến vượt bậc của xã hội lồi
người có sự đóng góp của lý luận đích thực. Lý luận có nguồn gốc cơ sở động lực từ
thực tiễn, chính thực tiễn đặt ra vô vàn những vấn đề mà lý luận phải giải đáp và chỉ
trên cơ sở đó lý luận mới thực sự giữ vai trò dẫn đường, lý luận phải đi trước một
bước.
Trên cơ sở nền tảng triết học Mác-Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học tập và
tiếp thu tư tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo chính xác, đúng
đắn để xây dựng và phát triển xã hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Mặc dù có
những khiếm khuyết khơng thể tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng trong cải
tạo thực tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ các nước
trong khu vực và thế giới về mọi mặt. Chính những thành tựu của xây dựng chủ nghĩa
xã hội và qua mười năm đổi mới là minh chứng xác đáng cho vấn đề nêu trên. Hoạt
động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các quy luật khách quan trong
vận hành nền kinh tế ở nước ta là một vấn đề còn nhiều xem xét và tranh cãi, nhất là
trong quá trình đổi mới hiện nay.
Nghiên cứu vấn đề này là việc hết sức thiết thực và quan trọng đối với việc
nghiên cứu lý luận Mác-Lênin nói chung và đối với công cuộc xây dựng đất nước xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam nói riêng. Vì vậy, em quyết định chọn đề tài “Vận dụng
nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
hiện nay”.
Mục đích và nhiện vụ nghiên cứu
Nêu rõ nội dung cơ bản của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Vận dụng vào sự nghiệp đổi mới của Việt Nam hiện nay.
Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
Với đề tài: “Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn vào sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam”. Đây là một đề tài khá rộng đã có nhiều sách, báo, tạp
chí…viết về vấn đề này.
Do thời gian có hạn cùng với việc nghiên cứu chỉ dừng lại ở hình thức tiểu luận
nên em sẽ lấy khách thể nghiên cứu là hoạt động sáng tạo, là lý luận của nhận thức
Mácxít nói riêng, chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung.

Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp nghiên cứu Duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, đặc biệt coi trọng và sử dụng chủ yếu phương pháp logic lịch
sử, phân tích, tổng hợp, so sánh.

4


5.

Kết cấu

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
đề tài nghiên cứu gồm có 3 chương, 8 tiết. Cụ thể:
Chương 1: Phạm trù lý luận và phạm trù thực tiễn.
Chương 2: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Chương 3: Vận dụng nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn trong sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.

5


NỘI DUNG
1.1.

CHƯƠNG 1: PHẠM TRÙ LÝ LUẬN VÀ PHẠM TRÙ THỰC TIỄN
Phạm trù lý luận

1.1.1. Khái niệm lý luận
Hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức là hai hoạt động đặc trưng của con

người, giữa chúng có mối liên hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau, không tách rời
nhau. Trong quá trình tác động vào thế giới, cải tạo thế giới, hoạt động nhận thức của
con người cũng bắt đầu hình thành.
Nhận thức, theo quan điêm của triết học máccxit là quá trình con người rìm
hiểu, phản ánh thế giới khách quan, nhưng đó khơng phải là sự phản ánh giản đơn, thụ
động mà là quá trình phản ánh biện chứng. tích cực và sáng tạo trên cơ sở thực tiễn.
Đó là sự phản ánh có chọn lọc, chủ động có mục đích để nắm bắt bản chất của hiện
thực chứ không phải là sự sao chép ngun xi. Qua q trình nhận thức biện chứng,
cịn hiểu biết riêng lẻ từng mặt, bề ngoài của đối tượng những hiểu biết kinh nghiệm,
thông qua các thao tác của tư duy như phân tích, tổng hợp, khái qt hóa, trừu tượng
hóa… lý luận được nảy sinh, hình thành và phát triển.

1.1.2. Đặc trưng lý luận
Nhận thức là một quá trình biện chứng diễn ra rất phức tạp bao gồm nhiều giai
đoạn, trình độ, vịng khâu và hình thức khác nhau.
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính:
Nhận thức cảm tính (hay cịn gọi là trực quan sinh động) là giai đoạn đầu tiên
của q trình nhận thức. Nó được thể hiện ở ba hình thức cơ bản là cảm giác, tri giác
và biểu tượng.
Cảm giác là hình thức đầu tiên đơn giản nhất của nhận thức cảm tính, phản ánh
những thuộc tính riêng lẻ của sự vật và hiện tượng. Bản chất của cảm giác là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan.
Tri giác là tổng hợp những thc tính riêng lẻ của sự vật trong mối quan hệ hữu
cơ với nhay. Cũng như cảm giác, tri giác mang tính trực tiếp.
Biểu tượng là hính thức đi sâu vào bản chất của sự vật, biết được bản chất của
chúng thơng qua một tập hợp những thuộc tính. Đã bắ đầu mang tính khái quát và gián
tiếp. Biểu tượng có vai trị là khâu trung gian giữa trực quan sinh động và tư duy trừu
tượng.
Nhận thức lý tính là giai đoạn cao của quá trình nhận thức dựa trên cơ sở
những tài liệu trực quan sinh động đem lại. Tư duy trừu tượng cũng phản ánh hiện

thực, nhưng sự phản ánh gián tiếp và khái quát, và do vậy sâu sắc hơn, chính xác hơn
và đầy đủ hơn với các hình thức cơ bản nha: Khái niệm, phán đoán và suy lý.

6


Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận – Những trình độ khác nhau
của nhận thức khoa học:
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận không đồng nhất với nhận thức
cảm tính và nhận thức lý tính. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận đều là sự
tổng hợp của hai yếu tố cảm tính và lý tính.
Kinh nghiệm là những tri thực được chủ thể thu nhận trực tiếp trong quá trình
hoạt động thực tiễn, là cơ sở để tổng kết, khái quát thành lý luận, là căn cứ để sửa đổi,
phát triển hệ thống lý luận cũ.
Nhận thức lý luận phản ánh hiện thực trong bản chất của sự vật hiện tượng,
trong những môi liên hệ mang tính quy luật. Nhiệm vụ của nhận thức lý luận là nhận
thức ở trình độ cao hơn, chỉ ra những phương hướng mới cho sự phát triển của hoạt
động thực tiễn. Chỉ có những tri thức lý luận mới làm cho hoạt động của con người trở
nên chủ động hơn, tránh được tính trạng mị mâm, tự phát.
Như vậy, về bản chất, lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực
tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy luật của thế giới khách
quan, lý luận được hình thành khơng phải nằm ngoài thực tiễn mà trong mối liên hệ
với thực tiễn.
Do q trình hình thành và bản chất của nó, lý luận có hai chức năng cơ bản là
chức năng phản ánh hiện thực khách quan và chúc năng phương pháp luận cho hoạt
động thực tiễn. Lý luận phản ánh hiện thực khách quan bằng những quy luật chung
nhất. Tri thức kinh nghiệm cũng như tri thức lý luận đều phản ánh hiện thực khách
quan nhưng ở những phạm vi lĩnh vực và trình độ khác nhau. Lý luận phản ánh hiện
thực khách quan để làm phương pháp luận nhận thức và cải tạo hiện thực khách quan
bằng hoạt động thực tiễn.

Tóm lại, lý luận là một cơng cụ tư tưởng sắc bén có vai trị rất to lớn đối với
hoạt động thực tiễn cũng như đối với sự định hướng về nhận thức. Lý luận giúp cho
con người thấy được những ưu điểm và hạn chế trong việc biến đổi những q trình
đối tượng hố khách thể. Tự nhiên ln cần đến những bàn tay con người, và cũng
chính tự nhiên quyết định cho con người những trình tự tất yếu để trong quá trình tồn
tại, con người tự bổ sung, hoàn thiện cách thức cải tạo tự nhiên. Lý luận ln đóng vai
trị quan trọng trong việc tạo ra sự liên kết gắn bó giữa chủ thể tự nhiên và chủ thể
nhận thức. Lý luận cũng có quá trình hình thành và phát triển của nó, khơng phải lý
luận có khi con người xuất hiện, mà con người phải phát triển đến một giai đoạn nhất
định nào đó lý luận mới được xuất hiện. Lý luận không phải sinh ra vốn đã hồn thiện
mà nó được bổ sung và hồn thiện dần dần theo tiến trình phát triển của lịch sử xã hội.
Hay nói cách khác, lý luận mang tính lịch sử xã hội, có những lý luận đúng ở quá khứ
nhưng ở hiện tại và tương lai nó khơng cịn phù hợp nữa.

7


1.2.

Phạm trù thực tiễn

1.2.1. Khái niệm về thực tiễn
Phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của triết học
Mác– Lênin nói chung và của lý luận nhận thức Macxit nói riêng. Trong lịch sử triết
học không phải mọi trào lưu đều đưa ra quan niệm đúng đắn về phạm trù này. Các nhà
triết học duy vật trước Mác khơng thấy được vai trị của hoạt động thực tiễn đối với
nhận thức, lý luận nên quan điểm của họ mang tính chất trực quan. Các nhà triết học
duy tâm lại tuyệt đối hóa yếu tố tinh thần, tư tưởng của thực tiễn, họ hiểu họat động
thực tiễn như là hoạt động tinh thần, hoạt động của “ý niệm”, tư tưởng, tồn tại đâu đó
ngồi con người, nói cách khác, họ gạt bỏ vai trị thực tiễn trong đời sống xã hội.

Khái niệm thực tiễn trong triết học Mác- Lênin: “Thực tiễn là toàn bộ những
hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải
biến tự nhiên và xã hội”.
1.2.2. Đặc trưng của thực tiễn
Thứ nhất, theo quan điểm của triết học Mác – Lênin, thực tiễn là hoạt động gắn
liền với con người, nhưng không phải là toàn bộ hoạt động của con người mà chỉ là
những hoạt động của vật chất – cảm tính, những hoạt động vật chất cảm giác được. Đó
là hoạt động của con người, sử dụng những công cụ vật chất, tác động vào những đối
tượng vật chất làm biến đổi chúng theo những mục đích nhất định.
Thứ hai, thực tiễn là những hoạt động mang tính lịch sử – xã hội của con người.
Hoạt động thực tiễn phải thông qua từng cá nhân, từng nhóm người, nhưng các cá
nhân phải có quan hệ với nhau và khơng thể tách tời các quan hệ xã hội. Nghĩa là, thực
tiễn chỉ diễn ra trong xã hội với sự tham gia của đông đảo những con người trong xã
hội. Đồng thởi, thực tiễn cũng trải qua các giai đoạn lịch sử phát triển cụ thể, chịu sự
chi phối của ngững điều kiện lịch sử, cả về đối tượng, phương tiện, cũng như mục đích
hoạt động của con người.
Thứ ba, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích, tính hiện thực trực tiếp. Thực
tiễn phải hướng đến cải tạo thế giới, cải tạo tự nhiên và xã hội nhằm phục vụ con
người, chứ khơng chỉ là hoạt động bản năng, bằng lịng với những cái có sẵn trong tự
nhiên. Nói tới thực tiễn là nói tới hoạt động có tính tự giác cao của con người, khác với
hoạt động bản năng, thích nghi một cách thụ độngcủa con vật với thế giới xung quanh.

1.2.3. Các hình thức cơ bản của thực tiễn
Thực tiễn có ba hình thức cơ bản là: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động
chính trị – xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.
Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động khởi nguyên, đầu tiên, cơ
bản nhất của hoạt động thực tiễn. Đó là hoạt động mà con người trực tiếp tác động vào
đối tượng vật chất, vào thế giới khách quan, nhằm tạo ra của cải vật chất. Khơng có

8



sản xuất vật chất con người và xã hội loài người không thể tồn tại, phát triển. Không
những thế, sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự nảy sinh, tồn tại và phát triển của các
hình thức thực tiễn khác, cũng như tất cả các hoạt động khác của con người. Có thể
nói, các hoạt động khác của con người, suy cho cùng đều xuất phát từ hoạt động sản
xuất vật chất.
Hoạt động chính trị – xã hội là hoạt động của các tổ chúc, các cộng đồng người
khác nhau trong xã hội, thể hiện tính tự giác cao của con người nhằm biến đổi, cải tạo
xã hội, phát triển các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội, v.v. tạo ra môi trường xã hội
thuận lợi, phù hợp với nhu cầu, lợi ích của chủ thể.
Hoạt động thực nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn,
được tiến hành trong những điều kiện khơng có sẵn trong tự nhiên, mà do con người
tạo ra gần giống hoặc lặp lại những trạng thái trong tự nhiên, nhằm tìm hiểu các quy
luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu theo mục đích dã đề ra. Trong giai
đoạn hiện nay, khoa học đóng một vai trò hết sức to lớn đối với quá trình phát triển của
xã hội thì hình thức thực tiễn này ngày càng có vị trí quan trọng trong hoạt động của
con người.
Ba hình thức cơ bản của thực tiễn nêu trên, có quan hệ chặt chẽ, tác động, ảnh
hưởng qua lại lẫn nhau. Trong đó, hoạt động sản xuất vật chất đóng vai trị quan trọng,
quyết định hoạt động chính trị – xã hội và thực nghiệm khoa học. Ngược lại, hoạt động
chính trị – xã hội và thực nghiệm khoa học tác động trở lại hoạt động sản xuất vật
chất. Chính trị – xã hội ổn định tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, thực nghiệm
khoa học phát triển thì năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất sẽ được nâng cao.
Ngồi ba hình thức cơ bản trên, hoạt động thực tiễn cịn có những hình thức
khơng cơ bản được thể hiện ở một số lĩnh vực khác nhau như giáo dục, y tế, nghệ
thuật, thể thao,v.v..

9



CHƯƠNG 2: NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. Vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận
Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở của lý luận
Điều đó có nghĩa, thực tiễn là nền tảng, là điểm xuất phát của lý luận. Chính
trên nền tảng của hoạt động thực tiễn con người mới có nhu cầu tìm hiểu, khám phá
thế giới, hoạt động nhận thức, lý luận mới nảy sinh. Thông qua hoạt động thực tiễn,
con người tác động vào sự vật làm cho chúng bộc lộ những thuộc tính, tính chất, quy
luật… Trên cơ sở đó, con người mới có hiểu biết về sự vật và khái quát những hiểu
biết ấy dể hình thành, phát triển lý luận. Như vậy, chính nhờ có hoạt động thực tiễn, lý
luận mới ra đời, phát triển. Ph.Ăngghen đã từng nhấn mạnh: “…chính việc người ta
biến đổi tự nhiên, chứ khơng phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách tự nhiên,
là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người đã phát triển song song
với việc người ta đã học cái biến tự nhiên”.
Có thể nói, mọi hiểu biết của con người dù trực tiếp hay gián tiếp, đối với người
này hay người khác, thế hệ này hay thế hệ khác, ở trình độ kinh nghiệm hay lý luận,…
suy cho cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn. Nếu khơng có hoạt động thực tiễn, con người
khơng thể có được lý luận khoa học, cách mạng.
Thứ hai, thực tiễn là động lực của lý luận
Thực tiễn luôn vận động, biến đổi và luôn đặt ra những nhu cầu, nhiệm vụ,
phương hướng mới cho lý luận, đòi hỏi lý luận phải giải quyết. Vì thế, nó ln bắt con
ngưởi phải đi sâu nghiên cứu, mở rộng sự hiểu bết hiện có, đánh giá kiểm tra lại kiến
thức cũ, cách tiếp cận cũ, thậm chí phải thay thế những tri thức cũ, lạc hậu bằng những
tri thức mới. Trên cơ sở đó, thực tiễn thúc đẩy nhận thức, lý luận phát triển. Đúng như
Ph.Ăngghen đã nói, khi xã hội có nhu cầu về kỹ thuật thì nó thúc đẩy khoa học phát
triển hơn mười trường Đại học.
Thực tiễn cịn là cơ sở góp phần rèn luyện các giác quan và tư duy của con
người, làm cho chúng ta phát triển tinh tế hơn, hoàn thiện hơn, năng lực tư duy logic
không ngừng được củng cố và phát triển. Trên cơ sở đó, giúp con người nhận thức đối
tượng ngày cảng chính xác hơn, sâu sắc hơn, khái quát lý luận đúng đắn hơn.

Thông qua hoạt động thực tiễn, con người còn chế tạo ra các cơng cụ, phương
tiện, máy móc hiện đại, như kính hiển vi, kính thiên văn, tàu vũ trụ… góp phần hỗ trợ
con người “nối dài” các giác quan trong quá trình khám phá chinh phục thế giới.
Thứ ba, thực tiễn là mục đích của lý luận
Thực tiễn là đích cuối cùng lý luận phải hướng tới, phải giải quyết. Chính nhu
cầu sống, nhu cầu sản xuất vật chất, cải tạo tự nhiên, xã hội buộc con người phải tìm
hiểu, khám phá, nhận thức thế giới xung quanh. Nghĩa là , nhận thức con người ngay
từ đầu đã bị quy định bởi nhu cẩu thực tiễn; ngược lại kết quả của nhận thức, của lý
luận sẽ phục vụ cho chính thực tiễn phát triễn. Lý luận không đáp ứng được mục đích

10


thực tiễn đặt ra, lý luận đó sẽ khơng có giá trị. Những tri thức – kết quả của nhận thức,
những lý luận – kết quả của khái quát hóa kinh nghiệm thực tiễn chỉ có giá trị, có ý
nghĩa đích thực khi được vận dụng vào thực tiễn, phục vụ thực tiển; cụ thể là vận dụng
vào hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị – xã hội và hoạt động thực nghiệm
khoa học phục vụ con người. Lý luận có mục đích tự thân, nó chỉ có giá trị khi thâm
nhập vào thực tiễn, được vật chất hóa, biến tri thức khoa học thành phương tiện ttrong
việc biến đổi hiện thực.
Thứ tứ, thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra của lý luận
Thông qua thực tiễn kiểm nghiệm, con người sẽ xác nhận được tri thức là đúng
hay sai, chân lý hay sai lầm. Chỉ có thực tiễn mới là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để
khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Mọi sự biến đổi của sự nhận thức hay lý luận suy
cho cùng khơng thể vượt ra ngồi sự kiểm tra của thực tiễn. Con người có được những
hiểu biết về thế giới thơng qua hoạt động thực tiễn. Do vậy, chính thực tiễn là tiêu
chuẩn, là thước đo giá trị của những tri thức mà con người đã đạt được trong nhận
thức. Đồng thời, nó bổ sung, điều chỉnh, phát triển những tri thức lý luận đã có, làm
cbo lý luận ngày càng đầy đủ hơn và sau sâu sắc hơn. C. Mác, trong luận cương về
Phoiobac đã khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới

chân lý khách quan khơng, hồn tồn khơng phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn
đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý, nghĩa là
chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy của mình. Sự tranh
trãi về tính hiện thực hay tính khơng hiện thực của tư duy tách rời thực tiễn, là một vấn
đề kinh viện thuần túy”.
Tiêu chuẩn thực tiễn vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối.
Tính tuyệt đối của tiêu chuẩn thực tiễn thể hiện ở chỗ, nó là tiêu chuẩn khách
quan duy nhất có thể kiểm tra tính đúng, sai của lý luận, khẳng định chân lý, bác bỏ sai
lầm. Tất cả những tri thức chứ được thực tiễn kiểm tra, xác nhận đều khơng có cơ sở
khẳng định tính đúng đắn của nó.
Tính tương đối của tiêu chuẩn thực hiện ở chỗ, nó ln vận động, biến đổi, phát
triển, do đó, với tư cách là tiêu chuẩn chân lý nó khơng cho phép người ta xem bất kỳ
một tri thức nào là bất di bất dịch, khơng thay đổi. Vì vậy, khi thực tiễn thay đổi thì
nhận thức, lý luận cũng phải thay đổi theo cho phù hợp với thực tiễn mới. Khơng có
chân lý vĩnh viễn, bất di bất dịch; mọi tri thức dù là đúng vẫn phải tiếp tục kiểm tra, để
kịp thời bổ sung, phát triển. Mặt khác, thực tiễn ở mỗi lĩnh vực nhất định chỉ đủ sức
kiểm tra những tri thức nảy sinh trong phạm vi lĩnh vực đó.
Như vậy, thực tiễn không những là điểm xuất phát, là yếu tố đóng vai trị quyết
định đối với sự hình thành và phát triển của lý luận, mà còn là nơi lý luận phải ln
hướng tới để kiểm nghiệm tính đúng đắn của mình.

11


2.2.

Vai trò của lý luận đối với thực tiễn
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở: “thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn
thì thành thực tiễn mù quáng”. Điều này có nghĩa rằng, lý luận mặc dù do thực tiễn
quyết định, nhưng bản thân quyết định, nhưng bản thân lý luận khi đã hình thành thì

lại có một vai trò hết sức to lớn đối với thực tiễn. Vai trò của lý luận khoa học được thể
hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, lý luận đóng vai trị là “kim chỉ nam” cho hoạt động thực tiễn.
Lý luận khoa học định hướng, chỉ đạo, soi sáng cho thực tiễn, vạch ra phương
hướng, phương pháp cho hoạt động thực tiễn nhằm biến đổi hiện thực khách quan theo
yêu cầu, mục đích phát triển của con người và xã hội. Nếu thực tiễn không được chỉ
đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận khoa học thì thực tiễn đó sẽ mất phương hướng, “
lúng túng như nhắm mắt mà đi”, rơi vào mị mẫm, vịng vo, có khi lại quay trở lại xuất
phát điểm ban đầu, không hiệu quả, gây tốn kém, lãng phí thời gián, cơng sức.
Thứ hai, lý luận thúc đẩy phong trào cách mạng nảy sinh, hình thành và phát
triển.
Khơng có lý luận cách mạng khơng thể có phong trào cách mạng. Lý luận khoa
học, cách mạng góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập quần chúng để tạo nên
những phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của đơng đảo quần chúng. Nhờ có lý
luận khoa học, phong trào cách mạng của quần chúng khơng cịn mang tính tự phát,
trở thành hoạt động, chủ động, tự giác, tích cực. C.Mác nhấn mạnh:… “lý luận cũng sẽ
thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”.
Thứ ba, lý luận góp phần dự báo tương lai.
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng luôn chứa đựng những tiền đề, mầm mống
và khả năng phát triển trong tương lai của chúng. Lý luận nếu phản ánh đúng bản chất,
nắm được quy luật vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Như vậy,dự báo tương
lai là kết quả của thao tác tư duy, như phân tích và tổng hợp, logic và lịch sử…tức là
quá trình nhận thức, phản ánh, phán đoán về sự vận động, biến đổi, phát triển của sự
vật, hiện tượng. Dự báo tương lai là một trong những nguyên nhân có ý nghĩa quyết
định đến hiệu quả hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Khi con người
ngày càng đi sâu khám phá giới tự nhiên vô cùng vô tận bằng những phương tiện khoa
học hiện đại thì càng cần có những dự báo. Chính vì vậy, chức năng dự báo là một
chức năng rất quan trọng của lý luận.
Như vậy, lý luận và thực tiễn không tách rời nhau, giũa chúng có sự liên hệ,
xâm nhập, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Vì thế, trong hoạt động nhận thức

và hoạt động thực tiễn, chúng ta phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn. Đây là nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Quán triệt nguyên tắc
này có ý nghĩa rất quan trọng đối với công cuộc đổi mới ờ nước ta hiện nay.

12


CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI VIỆT NAM HIỆN NAY
Hoạt động thực tiễn là cơ sở, là nguồn gốc, là động lực, là mục đích, là tiêu
chuẩn của nhận thức.
2.1. Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức
Trong hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới khách quan, bắt các
sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan phải bộc lộ những thuộc tính và quy luật
của chúng. Trong quá trình hoạt động thực tiễn ln ln nảy sinh các vấn đề địi hỏi
con người phải giải đáp và do đó nhận thức được hình thành. Như vậy, qua hoạt động
thực tiễn mà con người tự hoàn thiện và phát triển thế giới quan (tạo điều kiện cho
nhận thức cao hơn).
Qua hoạt động thực tiễn, não bộ con người cũng ngày càng phát triển hơn, các
giác quan ngày càng hoàn thiện hơn.
Thực tiễn là nguồn tri thức, đồng thời cũng là đối tượng của nhận thức.
Chính hoạt động thực tiễn đã đặt ra các nhu cầu cho nhận thức, tạo ra các
phương tiện hiện đại giúp con người đi sâu tìm hiểu tự nhiên.
Thứ nhất, Thực tiễn là động lực của nhận thức
Ngay từ đầu, nhận thức đã bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Mỗi bước
phát triển của thực tiễn lại luôn luôn đặt ra những vấn đề mới cho nhận thức, thúc đẩy
nhận thức tiếp tục phát triển. Như vậy thực tiễn trang bị những phương tiện mới, đặt ra
những nhu cầu cấp bách hơn, nó rà sốt sự nhận thức. Thực tiễn lắp đi lắp lại nhiều
lần, các tài liệu thu thập được phong phú, nhiều vẻ, con người mới phân biệt được đâu
là mối quan hệ ngẫu nhiên bề ngoài, đâu là mối liên hệ bản chất, những quy luật vận

động và phát triển của sự vật.
Thứ hai, Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Những tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi nó được vận dụng vào thực tiễn.
Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân các tri thức mà là nhằm cải
tạo hiện thức khách quan, đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần xã hội. Sự hình
thành và phát triển của nhận thức là bắt nguồn từ thực tiễn, do yêu cầu của thực tiễn.
Nhận thức chỉ trở về hoàn thành chức năng của mình khi nó chỉ đạo hoạt động
thực tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Chỉ có thơng qua hoạt động
thực tiễn, thì tri thức con người mới thể hiện được sức mạnh của mình, sự hiểu biết của
con người mới có ý nghĩa.
Thứ ba, Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức
Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng thì nó
phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại.
Thứ tư, Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
a. Chân lý

13


Là những tri thức phản ánh đúng đắn thế giới khách quan được thực tiễn khẳng
định (nội dung khách quan, có ý nghĩa giá trị đối với đời sống con người).
Chân lý mang tính khách quan, nó khơng phụ thuộc vào số đơng (ví dụ: chân lý
tơn giáo).
Chân lý mang tính hai mặt (tuyệt đối và tương đối) vì tính hai mặt trong quá
trình nhận thức của nhân loại.
b. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tiêu chuẩn để kiểm tra chân
lý không phải là ý thức tư tưởng, tư duy mà là thực tiễn. Bởi vì chỉ có thơng qua hoạt
động thực tiễn, tri thức mới trở lại tác động vào thế giới vật chất, qua đó nó được ”hiện
thực hoá”, “vật chất hơn” thành các khách thể cảm tính. Từ đó mới có căn cứ để đánh

giá nhận thức của con người đúng hay sai, có đạt tới chân lý hay khơng.
Thực tiễn có rất nhiều hình thức khác nhau, nên nhận thức của con người cũng
được kiểm tra thơng qua rất nhiều hình thức khác nhau.

- Thực tiễn của xã hội luôn luôn vận động và phát triển.
- Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử đều có giới hạn. Nó khơng thể chứng
minh hay bác bỏ hồn tồn một tri thức nào đó của con người mà nó được thực
tiễn tiếp theo chứng minh, bổ sung thêm.
Như vậy tiêu chuẩn thực tiễn cũng mang tính chất biện chứng và như vậy mới
có khả năng kiểm tra một cách chính xác sự phát triển biện chứng của nhận thức.
c. Ý nghĩa:
Thực tiễn lớn nhất ở nước ta hiện nay là thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị
trường mới, nền văn hoá mới đậm đà bản sắc dân tộc và chế độ xã hội mới: cơng bằng,
bình đẳng, tién bộ.
Trong lĩnh vực kinh tế, đường lối, chính sách hay các giải pháp kinh tế cụ thể
muốn biết đúng hay sai đều phải thông qua vận dụng chúng trong sản xuất, kinh doanh
cũng như quản lý các quá trình đó. Đường lối chính sách cũng như các giải pháp kinh
tế chỉ đúng khi chúng mang lại hiệu quả kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao
năng suất lao động, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau những bước tiến và những thành tựu
to lớn mang lại ý nghĩa lịch sử, giờ đây lại đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Những
hoạt động nghiên cứu lý luận chính là nhằm tìm ra lời giải đáp cho những vấn đề của
giai đoạn cách mạng hiện nay. Công cuộc đổi mới ở nước ta vừa là mục tiêu, vừa là
động lực mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động nhận thức nói chung và cơng tác lý luận nói
riêng, nhất định sẽ đem lại cho chúng ta những hiểu biết mới, phong phú hơn và cụ thể
hơn về mơ hình chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

14



2.2.

Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn

2.2.1. Lý luận
a. Khái niệm: Là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn. Nó
phản ánh những quy luật, của từng lĩnh vực trong hiện thực khách quan.
b. Đặc điểm: Lý luận mang tính hệ thống, nó ra đời trên cơ sở đáp ứng nhu cầu
của xã hội nên bất kỳ một lý luận nào cũng mang tính mục đích và ứng dụng.
Nó mang tính hệ thống cao, tổ chức có khoa học.

2.2.2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
Được thể hiện bằng mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn. GIữa lý luận và
thực tiễn thống nhất biện chứng với nhau. Sự thống nhất đó bắt nguồn từ chỗ: chúng
đều là hoạt động của con người, đều nhằm mục đích cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội
để thoả mãn nhu cầu của con người.
a. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn
Lý luận dựa trên nhu cầu của thực tiễn và lấy được chất liệu của thực tiễn. Thực
tiễn là hoạt động cơ bản nhất của con người, quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội.
Lý luận khơng có mục đích tự nó mà mục đích cuối cùng là phục vụ thực tiễn. Sức
sống của lý luận chính là ln ln gắn liền với thực tiễn, phục vụ cho yêu cầu của
thực tiến.
b. Lý luận mở đường và hướng dẫn hoạt động của thực tiễn
Ví dụ: lý luận Mác - Lênin hướng dẫn con đường đấu tranh của giai cấp vô sản.
Sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn là tuỳ thuộc vào nó được hướng
dẫn bởi lý luận nào, có khoa học hay khơng? Sự phát triển của lý luận là do yêu cầu
của thực tiễn, điều đó cũng nói lên thực tiễn khơng tách rời lý luận, khơng thể thiếu sự
hướng dẫn của lý luận.
Vai trị của lý luận khoa học là ở chỗ: nó đưa lại cho thực tiễn các tri thức đúng
đắn về các quy luật vận động, phát triển của hiện thực khách quan, từ đó mới có cơ sở

để định ra mục tiêu và phương pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn.
Quan hệ lý luận và thực tiễn mang tính chất phức tạp, quan hệ đó có thể là
thống nhất hoặc mâu thuẫn đối lập.
c. Lý luận và thực tiễn là thống nhất
Lý luận và thực tiễn thống nhất khi giai cấp thống trị còn mang tinh thần tiến bộ
và còn giữ sứ mệnh lịch sử. Khi lý luận và thực tiễn thống nhất thì chúng sẽ tăng
cường lẫn nhau và phát huy vai trị của nhau. Sự thống nhất đó là một trong những
nguyên lý căn bản của triết học Mác- Lênin.
d. Sự mâu thuẫn của lý luận và thực tiễn
Xảy ra khi giai cấp thống trị trở nên phản động, lỗi thời, lạc hậu. Khi mâu thuẫn
nảy sinh, chúng sẽ làm giảm ảnh hưởng của nhau. Điều đó dẫn đến mọi đường lối,
chính sách xã hội trở nên lạc hậu và phản động.
*Ý nghĩa:

15


Cần phải tăng cường, phát huy vai trò của lý luận đối với xã hội, đặc biệt là lý
luận xã hội mà quan trọng là lý luận Mác - Lênin và các lý luận về kinh tế.
Trước chủ nghĩa Mác, trong lý luận nhận thức, phạm trù thực tiễn hầu như
khơng có chỗ đứng nào. Nhiều người cịn hình dung thực tiễn với bộ mặt xấu xí của
con bn (Phơ-Bách). Trong “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”,
sau khi phê phán E. Ma Khơ và một số ngươi khác đã ”cố gạt thực tiễn ra khỏi lý luận
nhận thức, coi thực tiễn như một cái gì không đáng nghiên cứu về mặt nhận thức luận,
đã ”đem cái tiêu chuẩn thực tiễn là cái giúp cho mỗi người phân biệt được ảo tưởng
với hiện thực đặt ra ngoài giới hạn của khoa học, của lý luận nhận thức... để dọn chỗ
cho chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri”.
V.I.Lênin đã khẳng định: quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm
thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức. (V.I.Lênin toàn tập)
Chính vì sự quan trọng của mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn nên đối với

nước ta trong giai đoạn này cần đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và hoạt động. Hiện
nay, nước ta đang tiến hành đổi mới một cách toàn diện các mặt của đời sống xã hội,
mà trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm. Đổi mới từ nền kinh tế tập trung quan liêu
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là một vấn đề hết sức mới mẻ
chưa có lời giải đáp sẵn. Và chúng ta cũng khơng bao giờ có thể có một lời giải sẵn
sau đó mới đi vào tiến hành đổi mới. Q trình đổi mới nói chung, đổi mới kinh tế nói
riêng và việc nhận thức q trình đổi mới đó không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn
nhau cùng phát triển.
Vậy trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ thực tế khách
quan, phải lấy hiện thực khách quan làm cơ sở cho hoạt động của mình. Gắn lý luận
vào thực tiễn để hoạt động trở nên khoa học, có cơ sở vững chắc. Tinh thần ấy chính là
vấn đề cần nghiên cứu trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI.
e. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ
nghĩa Mác- Lênin
Thực tiễn khơng có lý luận hướng đẫn thì thành thực tiễn mù qng. Lý luận
mà khơng liên hệ với thực tiễn là lý luận sng. Vì vậy cho nên trong khi nhấn mạnh
sự quan trọng của lý luận, đã nhiều lần Lênin nhắc đi nhắc lại rằng lý luận cách mạng
khơng phải là giáo điều, nó là kim chỉ nang cho hành động cách mạng, và lý luận
khơng phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo. Lý luận ln ln cần được
bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động. Những người
cộng sản các nước phải cụ thể hố chủ nghĩa Mác-Lênin cho thích hợp với điều kiện,
hoàn cảnh từng lúc và từng nơi.
*Con đường biện chứng của sự nhận thức:
Nhận thức của con người diễn ra trên cơ sở thực tiễn và không ngừng vận động,
phát triển. Sự vận động và phát triển của nhận thức diễn ra một cách biện chứng:

16


- “Từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng và từ tư duy trìu tượng đến

thực tiễn – đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức
thực tại khách quan”.
+ Trực quan sinh động (hay nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu của quá trình
nhận thức, được hình thành trong q trình thực tiễn.Giai đoạn này được hình thành
thơng qua các hình thức cơ bản nối tiếp nhau: cảm giác, tri giác, biểu tượng...
+ Tư duy trì tượng (hay nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của q trình nhận
thức dựa trên cơ sở những tài liệu do giai đoạn trực quan sinh động mang lại.
- Nhận thức của con người phát triển đến giai đoạn tư duy trìu tượng chưa phải
là chấm dứt, mà nó lại tiếp tục vận động trở về với thực tiễn. Nhận thức phải trở về với
thực tiễn vì:
+ Mục đích của nhận thức là phục vụ hoạt động thực tiễn. Vì vậy nó phải trở về
chỉ đạo hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới.
+ Đến giai đoạn tư duy trìu tượng vẫn có khả năng phản ánh sai lạc hiện thực.
Vì vậy, nhận thức phải quay trở về thực tiễn để kiểm tra kết quả nhận thức, phân biệt
đâu là nhận thức đúng, đâu là nhận thức sai lầm.
+ Thực tiễn luôn ln vận động, phát triển. Vì vậy nhận thức phải trở về với
thực tiễn để trên cơ sở thực tiễn mới tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức.
- Từ trực quan sinh động dến tư duy trìu tượng, và từ tư duy trìu tượng đến thực
tiễn là một vịng khâu của q trình nhận thức. Nó cứ lặp đi lặp lại làm cho nhận thức
của con người phát triển không ngừng, ngày càng phản ánh sâu sắc bản chất, quy luật
của thế giới khách quan.
3.3. Thực trạng ở nước ta hiện nay
Từ khi đổi mới đến nay, dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và tổng kết thực tiễn đổi mới của đất nước,Đảng ta không ngừng
phát triển lý luận, nhất là lý luận về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội và bước đầu đã đạt được những thành tựu nhất định.
Về mơ hình chủ nghĩa xã hội. Trong Cương lĩnh (1991), đã đề cập sáu đặc trưng
của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng: Do nhân dân lao động làm chủ;
có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công
hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,

con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng, làm theo năng lực hưởng
theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện
cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ;
có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Tại Đại hội X, mơ hình xã hội chủ nghĩa tiếp tục được Đảng ta bổ sung, phát
triển với tám đặc trưng: “ Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã
hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền

17


kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất cơng, có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình
đẳng, đồn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước phát quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”.
Trên cơ sở kế thừa, phát triển tư tưởng Đại hội X, quan niệm về xã hội xã hội
chủ nghĩa trong Cương lĩnh (Bổ sung, phát triểm năm 2011) thơng qua tại Đại hội XI
của Đảng đã được hồn thiện hơn một bước:
“Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước Pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
Như vậy, có thể nói rằng trên cơ sở tổng kết thực tiễn đổi mới, lý luận của Đảng

ta về mơ hình xã hội xã hội chủ nghĩa ngày càng rõ nét hơn, cụ thể hơn. Cùng với sự
phát triển của công cuộc đổi mới, Đảng đã có những nhận thức ngày càng sâu sắc về
chủ nghĩa xã hội phù hợp hơn với thực tiễn cuộc sống, kịp thời bổ sung và hoàn chỉnh
dần quan điểm, đường lối về chủ nghĩa xã hội.
- Về phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh (1991) đề ra bảy
phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội:
+ Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, lấy liên minh cơng nhân- nơng dân- trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh
đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội,
chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
+ Phát triển lực lượng sản xuất, cơng nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại
gắn liền một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm.
+ Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm
cho thế giới quan Mác-Lênin và tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh giữ được
vị trí chủ đạo trong đờ sống tinh thần xã hội; kế thừa và phát huy những truyền thống

18


văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa nhân loại,
xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người.
+ Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân
tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh.
Thực hiện chính sách đối ngoại hịa bình, hợp tác và hữu nghị tất cả các nước trung
thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp cơng nhân, đồn kết với các nước xã hội chủ
nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hịa bình dộc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội trên thế giới.

+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng Việt Nam.
+ Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức
ngang tầm nhiệm vụ lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn đổi mới của đất nước, đồng thời kế thừa Cương
lĩnh đại hội VII, trong Cương lĩnh (bổ sung phát triển năm 2011), Đảng ta đưa ra tám
phương hướng lớn:
+ Đẩy mạnh công nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện dại hóa đất nước gắn với phát
triển kinh tế trí thức, bảo vệ tài ngun mơi trường.
+ Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người,
nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
+ Bảo đảm vững chăc quốc phịng và an ninh quốc gia, trật tự, an tồn xã hội.
+ Thực hiện đường lối đối ngoại, độc lập. tự chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
+ Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc,
tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
+ Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân.
+ Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh!
Như vậy Đảng ta không chỉ xác định được xã hội mà chúng ta đang xây dựng là
một xã hội như thế nào, mà còn xác định đúng đắn, sáng tạo những phương hướng cơ
bản, coi đây là những vấn đề có tính quy luật của con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta.
- Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trên
cơ sở thực tiễn của đất nước, ngay từ khi đổi mới. Đảng ta đã xác định quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta là sự “ quá độ gián tiếp” trong Cương lĩnh (1991) đã sử dụng
cụm từ “ bỏ qua chế độ tư bản” và xác định: “ nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ
qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nữa phong kiến lực lượng sản xuất
rất thấp”.


19


Qua tổng kết thực tiễn, đến Đại hội IX, Đảng ta đã phát triển luận điểm trên cụ
thể hơn: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành
tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ n ghĩa, đặc biệt về khoa học và
công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Tiếp theo Cương lĩnh (bổ sung phát triển năm 2011) chỉ rõ đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái
cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã
hội, nhất thiết phải trãi qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều
hình thức tổ chức kinh tế xã hội đan xen.
Đảng ta đã nhận thức một cách sâu sắc rằng, với đặc điểm của một nước thuộc
địa nữa phong kiến, chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa thì khơng thể q
độ trực tiếp mà phải quá độ gián tiếp theo phương thức “phát triển rút ngắn” lên chủ
nghĩa xã hội. Đây là bước phát triển tất yếu khách quan, hợp qui luật theo tiến trình
phát triển lịch sử - tự nhiên, là con đường phát triển phù hợp với nguyện vọng của
đông đảo quần chúng nhân dân lao động việt nam.
- Về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngay từ đại hội VI
Đảng ta đã xác định mơ hình quản lý kinh tế tập trung, bao cấp khơng cịn phù hợp và
nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là đặc trưng của thời kỳ quá độ. Vì vậy Đại hội
VII đã khẳng định đó là “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thi trường có sự quản lý của Nhà nước” Đồng
thời, cụ thể hóa một bước về chế độ cơng hữu, đó là chế độ công hữu về các tư liệu sản
xuất chủ yếu”.
Đến đại hội IX khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
được xác định rõ hơn nữa: “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ

chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính
là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Đến Đại hội XI, Đảng ta xác định, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là nền kinh tế “với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức
tổ chức kinh doanh và hinh thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo
pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp
luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được cũng cố và phát triển. Kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân”. Đại hội XII của Đảng tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh lý luận về kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã

20


hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ các quy luật của kinh
tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai
đoạn của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự
quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Như vậy, xuất phát từ đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta đã quan niệm kinh tế thị trường là sản phẩm
của văn minh nhân loại được phát triển dưới chủ nghĩa tư bản, nhưng bản thân nó
khơng đồng nhất với chủ nghĩa tư bản. Từ đó, Đảng ta đã xác định, với thực trạng lực
lượng sản xuất của đất nước, chúng ta không thể ngay lập tức xác lập chế độ công hữu
mà phải đi qua những khâu trung gian quá độ với nền kinh tế nhiều hình thức sỡ hữu,
nhiều thành phần kinh tế. Do đó, cần phải phát triển lý luận về kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa cho phù hợp, và thực tiễn đổi mới những năm qua ở Việt Nam
đã chứng minh một cách thuyết phục rằng, xây dựng, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hôi chủ nghĩa là một sự lựa chọn đúng đắn và tất yếu để thúc đẩy sự phát

triển của đất nước.
Tuy nhiên, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của chúng ta phải
hướng đến mục tiêu nhằm phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, gắn với xây dựng
quan hệ sản xuất mới tiến bộ, phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối
nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, nói
cách khác kinh tế thị trường của chúng ta phải bảo đảm đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Tóm lại: Cơng tác lý luận của Đảng ta thời gian qua đã có bước phát trển mới.
Tuy nhiên nhìn chung cơng tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn vẫn chưa thực sự
đáp ứng được nhu cầu của sự nghiệp đổi mới. Nhận thức trên một số vấn đề cụ thể của
cơng cuộc đổi mới cịn hạn chế, thiếu thống nhất. Cơng tác dự báo trong nhiều lĩnh
vực cịn yếu…Trong Văn kiện Đại hội XII Đảng ta cũng chỉ rõ: “Công tác tổng kết
thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ được một số vấn đề đặt ra trong
quá trình mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định
đường lối của Đảng, Chính sách và pháp luật của nhà nước. Lý luận về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu lý luận để tiếp tục làm rõ”. Chính vì vậy, hiện nay Đảng vẫn phải tiếp
tục, khơng ngừng phát triển hồn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

21


3.4.

Một số quan điểm cần quán triệt trong phát triển lý luận về chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam hiện nay
Trên cơ sở quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của triết
học Mác-Lênin, cùng thực trạng lý luận ở nước ta hiện nay, để phát triển lý luận về
chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần phải nắm vững những quan điểm sau đây:


3.4.1. Quán triệt quan điểm thực tiễn
Theo Lênin: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất
và cơ bản của lý luận về nhận thức”
Yêu cầu của quan điểm thực tiễn:
Quan điểm thực tiễn đòi hỏi nhận thức sự vật, nghiên cứu lý luận phải xuất phát
từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, gắn với nhu cầu thực tiễn (của thời đại, của đất
nước, của địa phương, của ngành…). Thực tiễn là cơ sở của lý luận, là nền tảng nảy
sinh, hình thành lý luận khơng thể hình thành bên ngồi thực tiễn, xa rời thực tiễn.
Phải thường xuyên tổ chức hoạt động thực tiễn để triển khai lý luận, lấy thực
tiễn làm tiêu chuẩn đánh giá sự đúng, sai của lý luận, chủ trương, đường lối chính
sách. Thực tiễn vừa là mục đích, vừa là tiêu chuẩn của lý luận, do đó khi đã có lý luận
nêu không tổ chức hoạt động thực tiễn, sẽ khơng thể phát huy vai trị của lý luận, và
cũng khơng có điều kiện để kiểm tra lý luận.
Tăng cường tổng kết thực tiễn để kịp thời bổ sung, điều chỉnh, phát triển lý
luận, chủ trương, đường lối, chính sách cho phù hợp với thực tiễn mới. Lý luận ra đời
thông qua con đường tổng kết thực tiễn, tổng kết kinh nghiệm, do đó nếu khơng
thường xun tổng kết thực tiễn thì cũng khơng có cơ sở để bổ sung những thiếu sót,
những hạn chế lý luận và như vậy cũng không thể tiếp tục phát triển lý luận ở trình độ
cao hơn.
Chính vì vậy, một trong những bài học được Đảng ta rút ra sau 30 năm đổi mới,
trong Văn kiện XII là: “Đổi mới phải… xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi
trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quết kịp thời, hiệu quả
những vấn đề do thực tiễn đặt ra”

3.4.2. Ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
Bệnh kinh nghiệm, về bản chất là khuynh hướng tư tưởng và hành động đề cao
vai trò thực tiễn, tuyệt đối hóa kinh nghiệm, hạ thấp vai trị lý luận.
Biểu hiện của căn bệnh này rất đa dạng, như coi thường lý luận, hoạt động chỉ
dựa vào kinh nghiệm, không chịu học hỏi để vươn lên, cho kinh nghiệm là yếu tố duy

nhất quyết định mọi thành công trong nhận thức và hoạt động thực tiễn; thiếu sự định
hướng của lý luận nên họ thường làm việc theo thói quen, đường mịn, thiếu nhìn xa
trơng rộng .v. v…

22


Bệnh giáo điều, về bản chất là khuynh hướng tư tưởng và hành động tuyệt đối
hóa lý luận, coi lý luận là chìa khóa vạn năng: coi thường, hạ thấp thực tiễn, khơng
đánh giá đúng vai trị của thực tiễn trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động lý
luận; hoặc áp dụng lý luận và kinh nghiệm khơng tính tới điều kiện thực tiễn, lịch sử cụ thể.
Biểu hiện căn bệnh này ở nước ta có hai loại giáo điều. Một là giáo điều lý luận,
thể hiện ở việc vận dụng lý luận bất chấp những điều kiện thực tiễn, lịch sử - cụ thể;
học tập lý luận tách rời thực tiễn, xa rời cuộc sống, dẫn đến hiểu lý luận chỉ dừng ở câu
chữ, rơi vào bệnh sách vở, bệnh “tầm chương, trich cú”.v.v… Hai là, giáo điều kinh
nghiệm, áp dụng rập khn, máy móc kinh nghiệm của người khác, ngành khác, địa
phương khác, nước khác khơng tính tới những điều kiện thực tiễn, lịch sử - cụ thể của
mình có phù hợp hay khơng.
Ngun nhân của bệnh kinh nghiệm và giáo điều.
Nguyên nhân cơ bản, trực tiếp nhất của cả bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
là vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, không quán triệt quan điểm
thực tiễn, tách rời lý luận vag thực tiễn.
Hướng khắc phục của bệnh kinh nghiệm và giáo điều
Để khắc phục của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều, chúng ta cần quán triệt
sâu sắc nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, hiểu và vận dụng đúng đắn
quan hệ biện chứng giữa lý luận với thực tiễn.

3.4.3. Vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triên chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh
Lý luận ra đời từ thực tiễn, nhưng đó khơng phải là con đường duy nhất, lý luận

cịn được hình thành, phát triển thông qua việc kế thừa lý luận trong lịch sử của dân
tộc, của nhân loại. Chính vì vậy, để bổ sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, một mặt chúng ta phải tăng cường tổng kết thực tiễn, nhưng mặt khác cũng
phải biết kế thừa tinh hoa lý luận của dân tộc và nhân loại, cụ thể là lý luận chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta ln nhấn mạnh, lấy chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho nhận thức, hành
động của toàn Đảng, toàn dân.
Khi kế thừa phải linh hoạt, sáng tạo và phù hợp với điều kiện thực tiễn mới của
đất nước, nếu không sẽ rơi vào sai lầm kinh viện, giáo điều. Đại hội XI yêu cầu: “Tiếp
tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục,
hiệu quả của công tác tư tưởng, tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.”

3.4.4. Thường xuyên nâng cao trình độ lý luận của cán bộ đảng viên trong quá
trình đổi mới

23


Đảng phải ln ln nâng cao trình độ lý luận của mình và của cán bộ, đảng
viên trong quá trình đổi mới. Bởi vì, nếu trình độ tư duy lý luận yếu kém thì khơng thể
tổng kết thực tiễn, khơng thể tổng kết kinh nghiệm để xây dựng lý luận hoặc kế thừa lý
luận. Văn kiện Đại hội XI của Đảng cũng đề cập vấn đề này như sau: “không ngừng
phát triển lý luận, đề ra đường lối và chủ trương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước;
khắc phục một số mặt lạc hậu, yếu kém của công tác nghiên cứu lý luận . Tạo môi
trường dân chủ thảo luận, tranh luận khoa học, khuyến khích tìm tịi, sáng tạo, phát
huy trí tuệ của cá nhân và tập thể trong nghiên cứu lý luận. Khẩn trương ban hành quy
chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị. Nâng cao chất lượng hoạt động của các
cơ quan nghiên cứu lý luận, cải tiến tổ chức nghiên cứu lý luận phù hợp hơn với nhu
cầu thực tiễn”.
Mỗi cán bộ, đảng viên phải khơng ngừng học tập, nâng cao trình độ lý luận cho

bản thân, thấm nhuần lời dạy của V.I Lênin: Học, học nữa, học mãi. Tuy nhiên, khi
học tập lý luận cần phải liên hệ với thực tiễn của địa phương, của đất nước và gắn với
thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Lý luận rất cần thiết nhưng nếu cách học
tập khơng đúng thì sẽ khơng có kết quả. Do đó, trong lúc học tập lý luận, chúng ta cần
nhấn mạnh: Lý luận phải liên hệ với thực tế”. Nói phải đi đơi với làm, học đi đơi với
hành, tránh tình trạng quan liêu, bàn giấy, sách vở, lý thuyết sng xa vời thực tiễn,
nói mà khơng làm hoặc nói một đằng làm một nẻo…
Nâng cao trình độ lý luận của cán bộ, đảng viên cũng chính là điều kiện tiên
quyết giúp họ chống lại những biểu hiện lệch lạc, sai trái về tư tưởng – lý luận, củng
cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta…
Như vậy, thống nhất giũa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ
bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, vì thế mỗi cán bộ, đảng viên muốn hồn thành tốt
nhiệm vụ của mình, tránh được những sai lầm của bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều
phải nỗ lực quán triệt nguyên tắc này.

24


KẾT LUẬN
Trước sự suy thoái của nền kinh tế thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng, sẽ
vẫn cịn rất nhiều những thách thức mới mà Đảng và Nhà nước ta cần phải có những
quyết sách phù hợp, giúp nền kinh tế Việt Nam vượt qua được những sóng gió của
cuộc khủng hoảng lớn này.
Với con đường đi đúng đắn và sự lựa chọn quyết đoán của Đảng và Nhà nước,
chúng ta tin tưởng sẽ gặt hái được rất nhiều thành tựu mới. Nhà nước sử dụng các đòn
bẩy kinh tế trong kế hoạch hoá trực tiếp và kế hoach hóa gián tiếp để đảm bảo thực
hiện những phương hướng, mục tiêu của kế hoạch kinh tế quốc dân.
Trước thực tế của quá trình phát triển kinh tế Việt Nam từ sau cách mạng Tháng
Tám, một lần nữa ta lại càng cần khẳng định vai trị khơng thể thiếu được của q trình

lý luận nhận thức và các chính sách, chủ trương xuất phát từ thực tiễn chi phối nền
kinh tế. Khi đi đúng vào tiến trình lịch sử của nhân loại, tất yếu chúng ta sẽ không bị
lạc hậu, tụt lùi mà ngày càng có vị thế, phát triển mạnh mẽ hơn. Hy vọng chỉ một thời
gian không lâu nữa nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển vượt bậc, phát triển có cơ sở
vững chắc, đứng vào vị trí những nước có nền kinh tế tăng trưởng mạnh trên thế giới.
Những bước phát triển gì nữa sẽ đặt ra cho nền kinh tế Việt Nam trước thềm
thiên niên kỷ mới? Đổi mới kinh tế, cơng nghiệp hố, hiện đại hoá phải chăng vẫn
chưa đáp ứng được nhu cầu thời đại? Tất nhiên, những câu trả lời cho vấn đề ấy cịn
đang nằm ở phía trước. Song chắc chắn, với con đường đi đúng đắn và sự lựa chọn
quyết đoán của Đảng và Nhà nước, chúng ta sẽ gặt hái được rất nhiều thành tựu mới.
Nhà nước sử dụng các địn bẩy kinh tế trong kế hoạch hố trực tiếp và kế hoach hóa
gián tiếp để đảm bảo thực hiện những phương hướng, mục tiêu của kế hoạch kinh tế
quốc dân. Trước thực tế của quá trình phát triển kinh tế Việt Nam từ sau cách mạng
Tháng Tám, một lần nữa ta lại càng cần khẳng định vai trò khơng thể thiếu được của
q trình lý luận nhận thức và các chính sách, chủ trương xuất phát từ thực tiễn chi
phối nền kinh tế. Khi đi đúng vào tiến trình lịch sử của nhân loại, tất yếu chúng ta sẽ
khơng bị lạc hậu, tụt lùi mà ngày càng có vị thế, phát triển mạnh mẽ hơn. Hy vọng chỉ
một thời gian không lâu nữa nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển vượt bậc, phát triển có
cơ sở vững chắc, đứng vào vị trí những nước có nền kinh tế tăng trưởng mạnh trên thế
giới.
Để công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng và phản bác các quan điểm sai trái, thù địch hiệu quả, mấu chốt là cần
làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng xem đây là nhiệm vụ trước tiên, sống còn,
để giữ vững vai trị, uy tín lãnh đạo của Đảng, để Đảng thực sự “là đạo đức, là văn
minh” như Bác Hồ đã căn dặn.

25



×