Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Vận dụng nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn để phân tích tình trạng tách rời lý luận và đổi mới thời kỳ trước đổi mới”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.26 KB, 17 trang )

Phần 1: MỞ ĐẦU
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề cải tạo thực tiễn nền kinh
tế luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng. Ngày nay, triết học là một bộ
phận không thể tách rời với sự phát triển của bất cứ hình thái kinh tế nào. Những
vấn đề triết học về lý luận nhận thức và thực tiễn, phương pháp biện chứng...
luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt động thực tiễn, xây dựng và
phát triển xã hội. Nếu xuất phát từ một lập trường triết học đúng đắn, con người
có thể có được những cách giải quyết phù hợp với các vấn dề do cuộc sống đặt
ra. Việc chấp nhận hay không chấp nhận một lập trường triết học nào đó sẽ
không chỉ đơn thuần là sự chấp nhận một thế giới quan nhất định, một cách lý
giải nhất định về thế giới, mà còn là sự chấp nhận một cơ sở phương pháp luận
nhất định chỉ đạo cho hoạt động. Chúng ta biết rằng, triết học là một trong ba bộ
phận cấu thành của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy vật biện
chứng đó chính là triết học của chủ nghĩa Mác. Cho đến nay, chỉ có triết học Mác
là mang tính ưu việt hơn cả.
Trên cơ sở nền tảng triết học Mác - Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học tập
và tiếp thu tư tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo chính
xác, đúng đắn để xây dựng và phát triển xã hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước.
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ
bản, là linh hồn của triết học Mác - Lênin. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học,
C.Mác đã phát hiện ra sức mạnh của lý luận chính là mối liên hệ của nó với thực
tiễn, cũng như sức mạnh của thực tiễn là ở mối quan hệ của nó với lý luận. Sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là sự thống nhất biện chứng và cơ sở của sự
tác động qua lại ấy chính là thực tiễn. Thực tiễn luôn luôn vận động, biến đổi, do
đó lý luận cũng không ngừng đổi mới, phát triển; sự thống nhất biện chứng giữa
chúng - vì thế - cũng có những nội dung cụ thể và những biểu hiện khác nhau
trong mỗi thời đại, mỗi giai đoạn lịch sử. Đất nước Việt Nam bước vào thế kỷ
XXI với những thành tựu to lớn đạt được trong hơn 30 năm đổi mới. Có được


1


những kết qủa đó là do Đảng cộng sản Việt Nam đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo
lý luận của chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách
mạng nước ta. Do đó Em chọn đề tài: “Vận dụng nguyên tắc thống nhất lý
luận và thực tiễn để phân tích tình trạng tách rời lý luận và đổi mới thời kỳ
trước đổi mới”

2


PHẦN 2: NỘI DUNG
I. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN

1. Lịch sử ra đời.
Trong lịch sử Triết học, các nhà triết học Duy vật trước Mác không thấy
được vai trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức, lý luận nên quan điểm
của họ mang tính chất trực quan. Các nhà triết học Duy tâm lại tuyệt đối hóa yếu
tố tinh thần, tư tưởng của thực tiễn, họ hiểu hoạt động thực tiễn như là hoạt động
tinh thần, hoạt động của “ý niệm”, tư tưởng, tồn tại đâu đó ngoài con người. Nói
cách khác, Họ gạt bỏ vai trò của thực tiễn trong xã hội. Mác-Ăngghen, những
nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã khắc phục được những hạn chế trong quan điểm
về thực tiễn của các nhà triết học trước và đưa ra quan điểm đúng đắn, khoa học
về thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại
và phát triển của xã hội loài người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận,
Mác-Ăngghen đã thực hiện bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung
và trong lý luận nhận thức nói riêng.
2. Cơ sở lý luận.
2.1. Thực tiễn.

Là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của lý luận nhận thức
Macxít nói riêng, chủ nghĩa Mac-Lênin nói chung.
Thực tiễn là hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử- xã hội của
con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người. Nếu con vật chỉ
hoạt động theo bản năng nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên
ngoài, thì con người nhờ hoạt động thực tiễn là hoạt động có mục đích, có tính
xã hội của mình mà cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, và để làm
chủ thế giới. Vì vậy, không có hoạt động thực tiễn, con người và xã hội loài
người không thể tồn tại và phát triển được. Thực tiễn là phương thức tồn tại cơ
bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên, chủ yếu của mối quan hệ
giữa con người và thế giới.

3


Thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với hoạt động nhận thức. Trong
mối quan hệ với nhận thức, vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ,
thực tiễn là cơ sở, động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức, Ăngghen khẳng
định “chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự
nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp của tư duy
con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta cải biến
tự nhiên”.
Con người quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng
thực tiễn. Chính từ trong qúa trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận
thức của con người được hình thành, phát triển. Thông qua hoạt động thực tiễn
con người tác động vào thế giới buộc thế giới phải bộ lộ ra những thuộc tính,
những tính quy luật để con người nhận thức chúng. Thoát ly thực tiễn, nhận thức
đã thoát ly khỏi mảnh đất hiện thực nuôi dưỡng nó phát triển vì thế không thể
đem lại những tri thức sâu sắc, xác thực, đúng đắn về sự vật, sẽ không có khoa

học, không có lý luận.
Thực tiễn còn là cơ sở để chế tạo công cụ, phương tiện máy móc mới, hỗ
trợ con người trong qúa trình nhận thức, khám phá, chinh phục thế giới.
Ăngghen cho rằng, nhu cầu cấp thiết của thực tiễn, của sản xuất sẽ thúc đẩy nhận
thức khoa học phát triển nhanh hơn hàng chục trường đại học.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức còn thể hiện ở chỗ, thực tiễn là
tiêu chuẩn của chân lý. Theo Mac và Ăngghen thì “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy
của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không
phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề của thực tiễn. Chính trong thực tiễn
mà con người phải chứng minh chân lý”. Tất nhiên, nhận thức xã hội còn có tiêu
chuẩn riêng, đó là tiêu chuẩn lô gic nhưng tiêu chuẩn lô gic không thể thay thế
cho tiêu chuẩn thực tiễn, và xét đến cùng nó cũng phụ thuộc vào tiêu chuẩn thực
tiễn.
Đó là tư tưởng cơ bản của Mac-Ăngghen khi đưa phạm trù thực tiễn vào
nội dung của lý luận nhận thức, tư tưởng đó đã được Lênin bảo vệ và phát triển
sâu sắc hơn trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê

4


phán”, trong đó Lênin nhắc lại luận cương thứ hai của Mac về Phoi-ơbăc và
Người kết luận “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất
và cơ bản của lý luận về nhận thức”. Nếu không bám sát thực tiễn cuộc sống
chúng ta sẽ không thể có lý luận, không thể có khoa học, không xác định nổi bất
kỳ đề tài khoa học nào với đúng nghĩa của nó.
2.2 Lý luận.
Lý luận là sản phẩm cao của nhận thức của sự phản ánh hiện thực khách
quan. Trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, các nguyên lý và các quy luật tạo
nên lý luận, quy luật là hạt nhân của lý luận, là sản phẩm của qúa trình nhận thức
nên bản chất của lý luận là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự

phản ánh một cách gần đúng đối tượng nhận thức.
Lý luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Tri thức lý luận
là tri thức khái quát tri thức kinh nghiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lý
luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức
về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong qúa trình lịch sử”. Lý luận được hình
thành trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm, nhưng không phải mọi lý luận đều trực
tiếp xuất phát từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi
trước những dữ kiện kinh nghiệm mà vẫn không làm mất đi mối liên hệ giữa lý
luận với kinh nghiệm.
Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao nên
nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, về tính quy luật của các sự vật, hiện
tượng khách quan. Vì vậy, nhiệm vụ của nhận thức lý luận là đem quy sự vận
động bề ngoài chỉ biểu hiện trong hiện tượng về sự vận động bên trong thực sự.
3. Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn.
Chủ nghĩa Mac-Lênin xem xét lý luận và thực tiễn trong sự thống nhất
biện chứng. Thực tiễn là hoạt động vật chất còn lý luận là hoạt động tinh thần,
nên thực tiễn đóng vai trò quyết định trong quan hệ đối với lý luận. Lênin viết:
“Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận) nó có ưu điểm không những của tính phổ
biến mà của tính hiện thực trực tiếp”.
5


Tính phổ biến của thực tiễn đối với nhận thức (lý luận) thể hiện ở chỗ,
thực tiễn là khâu quyết định đối với hoạt động nhận thức. Một lý luận được áp
dụng trong thời gian càng dài, không gian càng rộng thì hiệu qủa đạt được càng
cao, càng khẳng định tính chân lý của thực tiễn. Ngay cả một giả thiết khoa học
muốn trở thành lý luận phải thông qua hoạt động thực nghiệm kiểm tra, xác
nhận. Như vậy, chỉ có qua hoạt động thực tiễn thì lý luận mới có giá trị tham gia
vào qúa trình biến đổi hiện thực.

- Hoạt động lý luận là hoạt động đặc biệt nó thống nhất hữu cơ với hoạt
động thực tiễn. Vì vậy, khi nhấn mạnh vai trò của thực tiễn đối với lý luận, chủ
nghĩa Mac-Lênin cũng khẳng đinh tính tích cực của sự tác động trở lại của lý
luận đối với thực tiễn. Lênin khẳng định: “không có lý luận cách mạng thì không
có phong trào cách mạng”.
- Lý luận là “kim chỉ nam” cho hành động thực tiễn. Cố nhiên để có thể
giải đáp được những vấn đề của cuộc sống, lý luận phải không ngừng liên hệ
bằng những hình thức khác nhau với thực tiễn. Cho nên, thực chất vai trò của lý
luận đối với thực tiễn là ở chỗ lý luận đem lại cho thực tiễn những tri thức đúng
đắn về những quy luật vận động và phát triển của thế giới khách quan.
- Lý luận có thể dự kiến được sự vận động của sự vật trong tương lai, chỉ
ra những phương hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn. Lý luận khoa học
làm cho con người trở nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng “mò mẫm”, tự
phát. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh ví “không có lý luận thì lúng túng như nhắm
mắt mà đi”.
- Trong Triết học Macxit và trong chủ nghĩa Mac-Lênin, sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn như một thuộc tính vốn có, một đòi hỏi nội tại. Nguyên
tắc này có ý nghĩa to lớn rong việc nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn.
- Hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn thống nhất với nhau dưới
nhiều hình thức và trình độ biểu hiện khác nhau. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn,
phản ánh (khái quát) những vấn đề của đời sống sinh động. Nhưng thước đo tính
cao thấp của lý luận với thực tiễn biểu hiện trước hết ở chỗ lý luận đó phải
hướng hẳn về đời sống hiện thực, để giải quyết những vấn đề do chính sự phát
6


triển của thực tiễn đặt ra, và như vậy, lý luận góp phần thúc đẩy thực tiễn phát
triển, bởi vì ở bên ngoài sự thống nhất lý luận và thực tiễn, tự thân lý luận không
thể biến đổi được hiện thực, nói cách khác, hoạt động lý luận không có mục đích
tự thân mà vì phục vụ thục tiễn, để cải tạo thực tiễn.

Thực chất của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là phải quán triệt
được thực tiễn là cơ sở, là động lực, mục đích của lý luận, của nhận thức, là tiêu
chuẩn của chân lý (lý luận). Như trên đã nói, lý luận đích thực bao giờ cũng bắt
nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Thực tiễn quy định lý luận thể hiện ở
nhu cầu, nội dung, phương hướng phát triển của nhận thức, lý luận. Thực tiễn
biến đổi thì lý luận cũng biến đổi theo, nhưng lý luận cũng tác động trở lại thực
tiễn bằng cách soi đường, chỉ đạo, dẫn đắt thực tiễn.
4. Những sai lầm nếu không ứng dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong thực tiễn.
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao
trong sự phản ánh hiện thực nên lý luận có khả năng xa rời thực tiễn và trở thành
ảo tưởng. Vì thế, không được cường điệu vai trò của lý luận, mặt khác không
được xem nhẹ thực tiễn và tách rời lý luận với thực tiễn. Điều đó cũng có nghĩa
là phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nhận thức
khoa học và hoạt động cách mạng.
- Nếu không bám sát thực tiễn cuộc sống chúng ta sẽ không thể có lý
luận, không thể có khoa học, không xác định nổi bất kỳ đề tài khoa học nào với
đúng nghĩa của nó. Và lý luận trở thành lý luận suông.
Trên cơ sở nhận thức và vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn phải chống bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Chúng ta coi trọng
kinh nghiệm thực tiễn và không ngừng tích luỹ vốn kinh nghiệm quý báu đó.
Song chỉ dừng lại ở trình độ kinh nghiệm, thỏa mãn với vốn kinh nghiệm của
bản thân, coi kinh nghiệm là tất cả, tuyệt đối hóa kinh nghiệm đồng thời coi nhẹ
lý luận, ngại học tập, nghiên cứu lý luận, ít am hiểu lý luận, không quan tâm tổng
kết kinh nghiệm để đề xuất lý luận thì sẽ rơi vào lối suy nghĩ giản đơn, tư duy
áng chừng, đại khái, phiến diện thiếu tính lô gic, tính hệ thống, do đó, trong hoạt
7


động thực tiễn thì mò mẫm, tuỳ tiện, thiếu tính đồng bộ về lý luận trong tất cả

các lĩnh vực do vậy dễ rơi vào bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa
- Nếu tuyệt đối hóa lý luận, coi lý luận là bất di bất dịch, việc nắm lý luận
chỉ dừng lại ở những nguyên lý chung chung trừu tượng không chú ý đến những
hoàn cảnh lịch sử cụ thể của sự vận dụng lý luận thì dễ mắc bệnh giáo điều.
- Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng, lý
luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông". Lê nin cho rằng lý luận
cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nam cho hành động cách
mạng, lý luận không phải là cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo, lý luận luôn
cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra trong thực tế sinh động..., do
vậy phải cụ thể hóa Chủ nghĩa Mác- Lê nin cho thích hợp với điều kiện, hoàn
cảnh từng lúc, từng nơi.
II. VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI
THỰC TIỄN TRƯỚC VÀ SAU ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA.

1.Thời kỳ trước đổi mới ( trước năm 1987)
Hợp tác xã hoá ở miền Bắc bắt đầu thực hiện từ năm 1958, đến năm 1960
cơ bản hoàn thành. Khi đó chúng ta cho rằng làm ăn tập thể ưu việt hơn làm ăn
cá thể, kinh tế cá thể tự phát dẫn đến phân hóa giàu nghèo, phân chia giai cấp.
Làm ăn tập thể sẽ tạo ra sức mạnh, sẽ giải quyết được những vấn đề kinh tế xã
hội của cộng đồng nông thôn. Do vậy, hợp tác xã hoá được thực hiện đồng nhất
với tập thể hoá, xoá bỏ sản xuất theo hộ, chỉ cho phép tồn tại dưới hình thức kinh
tế phụ gia đình, mọi tư liệu sản xuất đều thuộc về tập thể, tổ chức lao động tập
trung dưới sự chỉ huy điều hành của ban chủ nhiệm hợp tác xã và ban chỉ huy
đội, phân phối theo ngày công, sau khi trừ chi phí sản xuất, khấu trừ nộp cho nhà
nước và phúc lợi xã hội ở nông thôn, ban chủ nhiệm làm cả chức năng của chính
quyền cơ sở.
Tuy vậy nhờ lao động tập thể và sử dụng tập trung các nguồn lực nên đã
xây dựng được những công trình thuỷ lợi, kiến thiết đồng ruộng, đường giao
thông, trường học... bộ mặt miền Bắc cũng có những thay đổi đáng kể.
Song tổ chức hợp tác xã ấy vốn chứa đựng những khuyết tật:

8


- Chế độ công hữu dưới hình thức tập thể dường như không có ai là chủ
đích thực dẫn đến tư liệu sản xuất không được sử dụng có hiệu quả và bị huỷ
hoại.
- Quản lý lao động, sản xuất tập trung làm cho người lao động phụ thuộc,
bị động, thiếu chủ động, sáng tạo.
- Của cải làm ra dùng để bao cấp cho phúc lợi xã hội nông thôn, chi dùng
phung phí, phân chia cho người lao động quá ít, không khuyến kích người lao
động hăng say sản xuất.
- Các hợp tác xã lại tồn tại tương đối biệt lập với nhau, trao đổi sản phẩm
lại gắn liền với hệ thống quốc doanh mang tính giao nộp cấp phát, phi thị trường.
- Hệ thống quốc doanh ấy lại được tổ chức theo cấp hành chính. Mỗi xã,
phường còn có hợp tác xã mua bán tín dụng, nơi có nghề truyền thống còn có
hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp.
Những khuyết tật trên của hợp tác xã nông nghiệp đã phát sinh những
tiêu cực ngay từ giai đoạn đầu. Nhưng chúng ta lại cho rằng những tiêu cực ấy là
do chế độ sở hữu tiên tiến, chỉ cần hoàn thiện chế độ quản lý thì sẽ phát huy tính
ưu việt của hợp tác xã, thậm chí có ý kiến cho rằng chúng ra đã có quan hệ sản
xuất tiên tiến cần phải kéo lực lượng sản xuất lên cho nó phù hợp. Điều này trái
với qui luật lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất của chủ nghĩa Mác.
Trên cơ lý luận đó, chúng ta mở cuộc vận động cải tiến vòng một, vòng
hai, vận động dân chủ áp dụng điều lệ mẫu vào các hợp tác xã. Các cuộc vận
động ấy, một mặt thực hiện khoán nhóm, ba khoán cho đội sản xuất, mặt khác lại
mở rộng quy mô hợp tác xã, hoàn thiện chế độ thống quản. Qua ba lần thực hiện
cải tiến quản lý, tuy có giảm mức độ nhất định những tiêu cực trong các hợp tác
xã, nhưng về cơ bản chưa khắc phục được.
Trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước miền Bắc vừa là hậu phương lớn
chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam, vừa trực tiếp đánh trả chiến tranh phá hoại

của giặc Mỹ. Do tác động của chiến tranh và có nguồn viện trợ không hoàn lại từ
các nước XHCN, các hợp tác xã lại có thêm sức mạnh tư tưởng, tâm lý và vật
chất để củng cố, những tiêu cực vốn có bên trong chưa bộc lộ ra. Mô hình tổ
9


chức hợp tác xã kiểu tập trung bao cấp tỏ ra có tác dụng tích cực. Bởi vì nó có
thể huy động tối đa sức người, sức của cho cuộc chiến đấu, “ thóc không thiếu
một cân, quân không thiếu một người”, tất cả cho tiền tuyến, cho chiến thắng.
Hợp tác xã còn hỗ trợ, giúp đỡ những gia đình có người đi chiến đấu và phục vụ
chiến đấu, đảm bảo thực hiện chính sách hậu phương quân đội.
Lênin nói khuyết điểm chính là ưu điểm đã được kéo dài. Đúng vậy,
trong kháng chiến chống Mỹ, mô hình hợp tác xã ở Miền bắc khá phù hợp, với
quyết tâm tất cả cho tiền tuyến, cho thống nhất đất nước, Đảng ta đã huy động
được sức mạnh toàn dân, miền bắc thi đua sản xuất chi viện sức người, sức của
cho tiền tuyến miền nam. Năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất
nước thống nhất, cả dân tộc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh
cuộc chiến tranh lạnh và cấm vận kinh tế, điều kiện thực tiễn đã thay đổi, mô
hình kinh tế đó dần dần bộc lộ những mâu thuẫn, nền kinh tế Việt Nam lâm vào
khủng hoảng ngày càng trầm trọng. Thực tiễn đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải
đổi mới đường lối phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên do chưa nhận thức đúng
thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta vẫn vận hành nền kinh tế kế hoạch tập trung,
quan liêu, bao cấp, đã mắc phải những khuyết điểm như:
- Quá nóng vội trong tiến trình cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành
phần gọi là phi xã hội chủ nghĩa tại các tỉnh, thành phố phía Nam. Đối với các
địa phương phía Bắc, việc nóng vội đưa hàng loạt hợp tác xã bậc thấp lên bậc
cao chẳng những đã không đạt được mục đích đẩy quan hệ sản xuất đi trước để
thúc đẩy lực lượng sản xuất lên theo mà ngược lại đã kìm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Trên mặt trận nông nghiệp, mặc dù tỷ lệ nông dân tham gia
vào hợp tác xã tăng nhanh qua mỗi năm, nhưng sản lượng lương thực từ 13,5

triệu tấn năm 1976 cũng chỉ tăng lên được 18,2 triệu tấn năm 1985. Đến năm
1985, mặc dù cả nước có tới 14052 hợp tác xã nông nghiệp nhưng một bộ phận
không nhỏ các hợp tác xã ở trong tình trạng “treo biển hợp tác xã” một bộ phận
không nhỏ xã viên hợp tác xã đã quay về làm kinh tế gia đình, và đa số đã chăm
chút cho việc sản xuất và thu hoạch trên phần đất 5% của mình. Trên thực tế đời
sống kinh tế xã hội nông thôn ngày càng xuất hiện nhiều sự so sánh giữa kinh tế
tập thể, kinh tế gia đình, kinh tế hộ với nhau. Tuy chưa có tuyên bố chính thức,
10


nhưng đã xuất hiện tình trạng tự giải thể của mô hình hợp tác xã với những quy
mô, hình thức và phạm vi khác nhau không chỉ trong nông nghiệp mà cả trong
các lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ…
- Phát triển tràn lan các xí nghiệp quốc doanh trong hầu hết các ngành
của nền kinh tế quốc dân, vượt quá khả năng của Nhà nước về nhiều phương
diện. Mặc dù tăng mạnh các cơ sở quốc doanh trong nền kinh tế như vậy nhưng
tổng sản phẩm xã hội được tạo ra từ thành phần kinh tế quốc doanh trong giai
đoạn này chỉ tăng 1,5 lần. - Không thừa nhận địa vị pháp lý của một lực lượng
sản xuất to lớn trong xã hội thuộc các loại hình sở hữu gọi là phi xã hội chủ
nghĩa, lực lượng này bao gồm các hộ nông dân chưa vào hợp tác xã, những
người làm ăn cá thể trong các ngành nghề tiểu thủ công, những người kinh doanh
cá thể trong các ngành thương mại dịch vụ.
- Phát triển nền kinh tế theo phương thức tự cung tự cấp, phương thức
đổi hàng trong khuôn khổ Hội đồng tương trợ kinh tế, chấp nhận cấm vận và bao
vây kinh tế của các thế lực thù địch. Một nền kinh tế khép kín và bị khép kín như
vậy đã làm mất đi những khả năng tiềm tàng, những khả năng trong tầm tay của
việc sử dụng và phát triển những lực lượng sản xuất từ hợp tác quốc tế đem lại.
Trong giai đoạn 1976-1985 , mặc dù đã xây dựng được 1307 xí nghiệp nhà nước
nhưng đó chỉ là những xí nghiệp 100% vốn nhà nước, không có đầu tư trực tiếp
hoặc gián tiếp của nước ngoài vào Việt Nam. Nhược điểm của những xí nghiệp

quốc doanh này là đã đầu tư sử dụng trang thiết bị, công nghệ lạc hậu vài ba
chục năm so với các nước trong khu vực, do vậy đã để lại những hậu quả rất khó
khăn về mặt hiệu quả đầu tư, sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Những nguồn
vốn này nếu Nhà nước đầu tư vào sửa chữa, nâng cấp, xây dựng mới các công
trình hạ tầng kinh tế kỹ thuật cho nền kinh tế thì hiệu quả đầu tư sẽ cao hơn rất
nhiều so với đầu tư vào những xí nghiệp quốc doanh yếu kém.
Năm 1979 là năm kết thúc chiến tranh biên giới Tây Nam và sau đó là
kết thúc chiến tranh biên giới phía bắc, Đảng và Nhà nước tập trung hơn vào mặt
trận kinh tế. Trong thời gian đó, nền kinh tế đang gặp rất nhiều khó khăn, việc
triển khai Nghị quyết Đại hội IV đang vấp váp và tổn thất trên các mặt. Sản xuất

11


bị đình trệ, đời sống nhân dân bị giảm sút nhanh và ngày càng gặp nhiều khó
khăn. Điều đó buộc Đảng, Nhà nước và nhân dân phải tìm cách tháo gỡ. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 6 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IV ra đời
nhằm đáp ứng yêu cầu tháo gỡ cho sản xuất và đời sống. Trên thực tế nghị quyết
này là nấc thang mới đầu tiên cho việc đổi mới tư duy kinh tế thể hiện ở sự chấp
nhận và có phần khuyến khích kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân và quan hệ thị
trường tự do đến một mức độ nhất định trong khi đó vẫn giữ quan điểm lâu dài là
chế độ công hữu và cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Nhưng dù sao sự chấp nhận
đó có thể coi là nấc thang mới, hơn nữa là bước đột phá trong tư duy, vì sự thay
đổi nhận thức đã bắt đầu vượt qua hai điều tối kị trong mô hình kinh tế xã hội
chủ nghĩa theo quan điểm chính thống lúc đó: kinh tế tư nhân và quan hệ thị
trường tự do. Bước đột phá đó đã bước đầu chấp nhận cơ cấu kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần. Trước đó, mọi cải tiến trên mặt trận kinh tế chỉ trong giới hạn
cơ chế quản lý, do đó đã gặp nhiều bế tắc, luẩn quẩn không thể tháo gỡ được.
Sau nghị quyết 6 của Ban chấp hành Trung ương khoá IV là chỉ thị 100 của Ban
Bí thư Trung ương về khoán sản phẩm trong nông nghiệp, quyết định 25CP về

quản lý xí nghiệp, chủ trương kế hoạch hoá từ đơn vị cơ sở, ba phần kế hoạch,
bốn nguồn cân đối, xuất nhập khẩu tự cân đối, tự trang trải, chấp nhận thị trường
tự do bên cạnh thị trường có tổ chức... Tất cả các nghị quyết đó đều dựa trên cơ
sở chấp nhận và triển khai cơ cấu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, dù còn
nhiều hạn chế.
Chính nhờ đó, sản xuất lưu thông đã bung ra rất sôi động, rộng khắp.
Trên thực tế, một mặt đã diễn ra tình hình chưa từng có, một phong trào quần
chúng năng động phát triển sản xuất lưu thông, phong trào nông dân nhận khoán,
phong trào phát huy tự chủ năng động của đơn vị cơ sở và địa phương với những
điển hình làm ăn có hiệu quả nổi bật. Mặt khác sự bung ra của thị trường tự do
với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế ngày càng lấn át kinh tế quốc
doanh và thị trường có kế hoạch. Hợp tác xã ngày càng rệu rã, mặt trận giá
-lương- tiền, phân phối lưu thông cực kỳ rối loạn nóng bỏng. Nhà nước bị tổn
thất về của cải và ngày càng rời vào tình thế gần như mất khả năng điều khiển.
Trước thực trạng đó, đã diễn ra cuộc tranh luận kéo dài và rất gay gắt về lý luận
12


và chính sách kinh tế trên tất cả các vấn đề. Cuộc tranh luận ấy có hai xu hướng
trái ngược nhau: xu hướng chấp nhận kinh tế hàng hoá nhiều thành phần như là
chiến lược lâu dài và xu hướng chấp nhận như bước lùi sách lược tạm thời, gắn
với những nhận thức khác nhau về mô hình xã hội chủ nghĩa và con đường xây
dựng nền kinh tế. Hiện tượng đặc trưng cho hai xu hướng này là năm 1985 khi
trù bị Đại hội VI, đã có hai lần dự thảo văn kiện. Lần đầu, dự thảo văn kiện vẫn
giữ quan điểm cũ về kinh tế, chủ trương thúc đẩy cải tạo, hợp tác hoá và kế
hoạch hoá tập trung. Khi lấy ý kiến đã không được đông đảo tổ chức đảng xem
xét và ra văn kiện kết luận về quan điểm kinh tế làm cơ sở cho việc tập dự thảo
văn kiện lần thứ hai và được Đại hội thông qua thành quan điểm chính thống.
2. Thời kỳ đổi mới ( từ năm 1987 tới nay).
Đại hội Đảng VI đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện về kinh tế - xã hội,

nhằm đưa đất nước thoát dần ra khỏi khủng hoảng vào những năm cuối của thập
kỷ 80. Đảng ta đã kiên quyết và kiên trì tiến hành đổi mới. Muốn đổi mới thì dứt
khoát phải từ bỏ không thương tiếc những cái cũ lạc hậu, lỗi thời. Trọng tâm của
sự đổi mới lúc bấy giờ là đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, là đổi mới
các chính sách kinh tế. Một trong những nội dung cơ bản trong đường lối đổi
mới của Đảng do Đại hội VI đề ra là xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Quán triệt quan điểm đổi mới đó, Đại hội VII và VIII,
IX, X, XI của Đảng tiếp tục hoàn thiện và cụ thể hoá bằng các chính sách, cơ chế
nhằm kiên trì xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế hợp tác trở thành nền tảng trong
nền kinh tế, kinh tế cá thể, tiểu thủ công, kinh tế tư bản tư nhân chiếm tỷ trọng
đáng kể, kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức khác nhau tồn tại phổ biến
và có vai trò tích cực trong nền kinh tế. Mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ trước pháp luật. Tháng 4-2001, Đại hội IX của Đảng đã chính
thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và khẳng
định: Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối
chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi,
13


tổng kết thực tiễn và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng Cộng Sản
Việt Nam.
Những nét mới trong đường lối và quan điểm của Đảng về cơ cấu thành
phần kinh tế như trên chính là sự điều chỉnh có tính chiến lược, làm cho quan hệ
sản xuất ngày càng phù hợp hơn với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, phát huy mọi tiềm lực kinh, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Hơn 10 năm qua, kể từ khi Việt Nam
bước vào thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền

kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu đáng mừng, làm thay
đổi khá rõ tình hình đất nước. Kinh tế ra khỏi khủng hoảng, hoạt động ngày càng
năng động và có hiệu quả. Của cải xã hội ngày càng nhiều, hàng hoá ngày càng
phong phú. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Đất nước chẳng những
giữ vững được ổn định chính trị trước những chấn động lớn trên thế giới mà còn
có bước phát triển đi lên. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân
7%/năm. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,5%/năm. Hệ thống kết cấu hạ tầng
được tăng cường. Các ngành dịch vụ, xuất nhập khẩu phát triển. Quan hệ đối
ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế không ngừng được mở rộng...Tuy nhiên, cũng
có nhiều vấn đề mới đặt ra cần được nghiên cứu và giải quyết.
Đặc biệt Đại hội XII của Đảng đã đánh giá sau 30 năm đổi mới, Việt
Nam đạt những thành tựu quan trọng trong công cuộc CNH, HĐH đất nước. Từ
một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, Việt Nam
đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước
đáp ứng sự nghiệp CNH, HĐH, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực xã hội cho
phát triển. Diện mạo đất nước có nhiều thay đổi, kinh tế duy trì tốc độ tăng
trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên (đạt ngưỡng thu nhập trung
bình); đời sống nhân dân từng bước được cải thiện; đồng thời tạo ra nhu cầu và
động lực phát triển cho tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đội ngũ doanh
nghiệp, doanh nhân thật sự trở thành lực lượng quan trọng để thực hiện đường
lối CNH, HĐH đất nước.

14


Về tăng trưởng kinh tế, trong suốt 30 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt
tốc độ tăng trưởng cao hơn hẳn thời kỳ trước đổi mới. Sau giai đoạn đầu đổi mới
(1986-1990), với mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4%, nền
kinh tế Việt Nam đã trải qua gần 20 năm với mức tăng trưởng rất ấn tượng: giai
đoạn 1991-1995, GDP bình quân tăng 8,2%/năm, gấp đôi so với 5 năm trước đó;

giai đoạn 5 năm tiếp theo 1996-2000, mặc dù cùng chịu tác động của khủng
hoảng tài chính khu vực (1997-1999), GDP vẫn duy trì bình quân tăng
7,6%/năm; giai đoạn 2001-2005, GDP tăng bình quân 7,34%; giai đoạn 20062010, do suy giảm kinh tế thế giới, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng GDP
bình quân 6,32%/năm. Trong các năm tiếp theo, do chịu tác động từ cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu 2008 và khủng hoảng nợ công 2010, tốc độ tăng trưởng
GDP giai đoạn 2011-2015 của Việt Nam tuy đã chậm lại nhưng vẫn đạt
5,9%/năm, là mức cao của khu vực và thế giới.
Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng có ý nghĩa
trọng đại trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về
mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta; là quá trình cải biến sâu sắc, toàn
diện, triệt để; là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân, vì mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN từng bước hình thành và phát triển; thể chế kinh tế thị trường
định hướng XHCN được quan tâm xây dựng và từng bước hoàn thiện. Môi
trường đầu tư không ngừng được cải thiện, thế và lực của nước ta vững mạnh, vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan
trọng để đẩy nhanh CNH, HĐH và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Đồng thời, chúng ta cũng nhận thức rõ còn những hạn chế, khó khăn không nhỏ
của nền kinh tế đã và đang đặt ra những vấn đề cần có những quyết sách trong
thời gian tới đưa nước ta phát triển nhanh và bền vững.
Từ thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội trong thời gian qua và căn cứ vào
yêu cầu phát triển trong thời gian tới, Đảng và Nhà nước cần tổng kết lại kinh
nghiệm và tiếp tục nghiên cứu đưa ra để thực hiện một số vấn đề có tính lý luận
sau:

15


- Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách
làm phù hợp

- Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai
trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, phù hợp thực tiễn, luôn luôn nhạy bén với
cái mới
- Phát huy cao độ nội lực, đồng thời khai thác ngoại lực, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới
- Phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không
ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân
- Phát huy cao độ nội lực, đồng thời khai thác ngoại lực, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới
- Phải tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh tế
nhiều thành phần
- Giữ vững và tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước và sự lãnh đạo
của Đảng Cộng Sản.
- Giải quyết các vấn đề xã hội, hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã
hội, thực hiện công bằng xã hội.

16


Phần 3. KẾT LUẬN
Với những nội dung nghiên cứu trên, chúng ta có thể thấy được vai trò
của lý luận và thực tiễn cũng như sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn trong
mọi hoạt động nói chung của con người và hoạt động kinh tế – xã hội nói riêng.
Đây là một trong những vấn đề quan trọng mang tính định hướng cho hoạt động
của chúng ta, đặc biệt trong giai đoạn khi mà cả thực tiễn và lý luận đã có những
biến đổi to lớn như hiện nay. Từ mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn ta có thể
rút ra một số kết luận sau:
- Để có nhận thức đúng, có chủ trương chính sách đúng cho hoạt động
đổi mới kinh tế-xã hội nhất thiết phải đảm bảo được sự phù hợp với thực tiễn,

gắn chủ trương chính sách với thực tiễn, phải sâu sát thực tiễn, phải quán triệt
sâu sắc tư tưởng của Lênin, quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan
điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận.
- Để khắc phục được sự lạc hậu về nhận thức, về chủ trương chính sách
thì nhất thiết nhận thức cũng như chủ trương chính sách phải thường xuyên được
bổ sung hoàn thiện trên cơ sở thực tiễn.
- Không được coi trọng lý luận mà xem thường thực tiễn, điều đó sẽ dẫn
tới mắc bệnh chủ nghĩa giáo điều, ngược lại không được coi trọng thực tiễn mà
xem thường lý luận, dẫn tới mắc bệnh chủ nghĩa kinh nghiệm.
- Hiện nay đất nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá,
chúng ta phải ra sức học tập kinh nghiệm của các nước, nhưng không phải là
giáo điều, dập khuông máy móc. Quán triệt tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn. Phải tích cực học tập nâng cao trình độ lý luận cũng như
chuyên môn nghiệp vụ. học phải đi đôi với hành. Phải cụ thể hoá chủ nghĩa Mác
– LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh, từng
lúc, từng nợi. Nước ta thực hiện kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước.
Trên đây là toàn bộ nội dung mà em đã tìm hiểu và nghiên cứu về lý luận
và thực tiễn. Vấn đề này còn rất nhiều khía cạnh để chúng ta có thể bàn tới, tuy
nhiên do có sự hạn chế nhất định nên em chỉ xin đóng góp một số nội dung cơ
bản của vấn đề.
17



×