Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Môn công chúng báo chí thực trạng và giải pháp cải thiện hiệu quả truyền thông sản phẩm báo chí quân đội trong thời đại mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.67 KB, 25 trang )

MỞ ĐẦU
Báo chí quân đội là một bộ phận quan trọng của báo chí cách mạng Việt
Nam. Kế thừa, phát huy truyền thống vẻ vang của báo chí cách mạng Việt
Nam trong 90 năm qua, báo chí quân đội đã có những đóng góp to lớn trên
mặt trận chính trị, tư tưởng-văn hóa, góp phần động viên, cổ vũ tồn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cùng với sự ra đời của Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân và
Ban Cơng tác chính trị (22-12-1944), tờ báo mang tên Tiếng súng reo viết tay
đã xuất hiện. Do điều kiện lịch sử, Báo Tiếng súng reo tuy không được in ấn,
xuất bản chính thức, nhưng sự có mặt kịp thời của tờ báo đã góp phần tuyên
truyền, giáo dục, huấn luyện bộ đội, tạo tiền đề cho sự ra đời các tờ báo của
LLVT cách mạng sau này, đó là các Báo: Quân Giải phóng, Chiến thắng, Vệ
Quốc quân, Quân du kích. Ngày 20-10-1950, tại thơn Khau Diều, xã Định
Biên, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, Báo Vệ Quốc quân và Báo Quân du
kích sáp nhập thành Báo Quân đội nhân dân. Đây là dấu mốc quan trọng trong
lịch sử báo chí quân đội, đồng thời khẳng định chủ trương đúng đắn, sáng suốt
của Đảng, Bác Hồ, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phịng và Tổng cục Chính
trị trong việc xây dựng, sử dụng và phát huy vai trò của báo chí như là một
cơng cụ đắc lực để góp phần xây dựng yếu tố chính trị, tinh thần cho cán bộ,
chiến sĩ trong toàn quân.
Cùng với Báo Quân đội nhân dân, ngày 16-3-1959, Phát thanh Quân đội
nhân dân đã phát sóng chương trình đầu tiên trên làn sóng phát thanh quốc
gia; đầu năm 1972, các chương trình qn sự-quốc phịng được phát trên
Truyền hình Việt Nam; ngày 20-9-1975, Truyền hình Quân đội nhân dân được
thành lập và ngày 19-5-2013, Truyền hình Quốc phịng Việt Nam được phát
1


sóng, đi vào hoạt động. Đây là sự phát triển của báo nói, báo hình qn đội
trên sóng quốc gia, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ, góp phần quan trọng vào


việc định hướng tư tưởng, cổ vũ toàn dân, toàn quân ta thực hiện thắng lợi sự
nghiệp kháng chiến giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Có thể
khẳng định rằng, dù khơng trực tiếp cầm súng chiến đấu, nhưng bằng ngịi bút
sắc bén và thơng qua những tác phẩm báo chí của mình, đội ngũ nhà báochiến sĩ đã góp phần to lớn vào việc xây dựng nhân tố chính trị tinh thần, tiếp
thêm ý chí, sức mạnh cho tồn qn ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, làm
nên những thắng lợi vẻ vang, tơ thắm truyền thống vinh quang của báo chí
cách mạng Việt Nam.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cùng với sự lớn mạnh
của quân đội, báo chí quân đội không ngừng phát triển cả về quy mô, tổ chức,
lực lượng, loại hình và có ảnh hưởng ngày càng sâu rộng trong đời sống xã
hội. Đến nay, trong qn đội có 58 cơ quan báo chí được Bộ Thông tin và
Truyền thông cấp phép hoạt động, bao gồm đủ các loại hình: Báo in, báo nói
(phát thanh), báo hình (truyền hình) và báo điện tử. Tổ chức Hội Nhà báo
trong quân đội gồm có 2 liên chi hội trực thuộc Hội Nhà báo Việt Nam và 21
chi hội trực thuộc Hội Nhà báo các tỉnh, thành phố. Đội ngũ cán bộ, phóng
viên, biên tập viên cơng tác tại các cơ quan báo chí qn đội hầu hết có trình
độ đại học trở lên, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ.
Những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Qn ủy Trung ương, Bộ
Quốc phịng, Tổng cục Chính trị và sự chỉ đạo về nghiệp vụ của các cơ quan
chức năng Trung ương, báo chí quân đội đã bám sát tơn chỉ, mục đích, tun
truyền có hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, công tác quân sự-quốc phịng,
xây dựng nền quốc phịng tồn dân vững mạnh, xây dựng Quân đội nhân dân
Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Báo chí Quân
đội đã thể hiện vai trò là lực lượng nòng cốt, tin cậy của báo chí cách mạng
2


Việt Nam trong việc thơng tin, tun truyền tồn diện về chính trị, quốc
phịng, qn sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, đối ngoại; là diễn đàn của
cán bộ, chiến sĩ toàn quân và các tầng lớp nhân dân Việt Nam. Cùng với việc

đẩy mạnh tuyên truyền Phong trào Thi đua Quyết thắng, phát hiện, biểu
dương, cổ vũ những điển hình tiên tiến, những cách làm hay, kinh nghiệm tốt,
báo chí qn đội cịn tiên phong, xung kích đi đầu trong việc tuyên truyền, đấu
tranh phản bác các quan điểm sai trái, phản động, thù địch, bảo vệ vững chắc
nền tảng tư tưởng của Đảng; tuyên truyền sâu rộng về cơng cuộc đổi mới,
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước; góp phần
định hướng thông tin, dư luận xã hội, xây dựng niềm tin của nhân dân vào chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, tạo sự
đồng thuận trong xã hội và đáp ứng tốt nhu cầu hưởng thụ thông tin của bộ đội
và nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả nổi bật đáng ghi nhận, cơng tác
thơng tin tun truyền của báo chí qn đội thời gian qua cịn có những hạn
chế, như: Hình thức thơng tin, tun truyền có lúc chưa thật phong phú, sinh
động; nội dung tun truyền có lúc cịn khơ khan, chưa thật hấp dẫn công
chúng; việc phối hợp giữa cơ quan báo chí quân đội với các cơ quan chức
năng chỉ đạo, quản lý báo chí trong việc đấu tranh chống các quan điểm sai
trái, thù địch và trước những vấn đề phức tạp, nhạy cảm có lúc chưa chặt chẽ.
Ngồi ra, một số ít cơ quan báo chí chưa chú trọng đổi mới nội dung, hình
thức thể hiện, chưa quan tâm sát sao đến các hoạt động xã hội hóa báo chí để
góp phần gắn kết chặt chẽ hơn giữa báo chí và cơng chúng. Một số ít chi hội
báo chí trong quân đội hoạt động chưa thật sự hiệu quả.
Trong những năm tới, dự báo tình hình quốc tế, khu vực sẽ tiếp tục có
những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Đất nước ta đang trong

3


q trình hội nhập quốc tế sâu rộng, có cả thời cơ, thuận lợi và khó khăn,
thách thức đan xen; công cuộc đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đang đặt ra nhiều vấn đề

mới phức tạp hơn. Các thế lực thù địch vẫn tìm mọi cách để phá hoại sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta, trong đó có âm mưu nguy hiểm là
“phi chính trị hóa” qn đội.
Với sứ mệnh đặc biệt và quan trọng của mình, việc tìm hiểu thái độ, ý
kiến của độc giả, từ đó hiểu rõ về xu hướng đọc báo của công chúng báo Quân
đội nhân dân là một trong việc làm cần thiết bởi nếu nắm bắt được đầy đủ, kịp
thời những ý kiến nhận xét, đánh giá của độc giả sẽ giúp những người thực
hiện hiểu hơn về mong muốn của họ, và sẽ có những điều chỉnh phù hợp nâng
cao chất lượng chương trình để ngày càng thu hút sự quan tâm của độc giả.
Từ những lý do trên cũng chính là nhân tố giúp tôi quyết định lựa chọn
nghiên cứu đề tài: “ Thực trạng và giải pháp cải thiện hiệu quả truyền thơng
sản phẩm báo chí Qn đội trong thời đại mới”.

I. KHÁI NIỆM, VAI TRÒ VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG CỦA
CƠNG CHÚNG BÁO CHÍ
1. Cơng chúng báo chí và cơng chúng truyền hình
Cơng chúng nói chung được hiểu là một tập hợp xã hội được cấu thành
một cách phức tạp bởi nhiều tầng lớp khác nhau, mỗi người đều đang sống
trong những mạng lưới và những mối quan hệ xã hội nhất định. Trong đó,
cơng chúng báo chí có thể coi là một “tập con” của cơng chúng nói chung.

4


- Cơng chúng báo chí là quần thể dân cư hay nhóm đối tượng mà báo
chí gây ảnh hưởng hoặc hướng vào để gây ảnh hưởng. Như vậy, công chúng
báo chí được xem xét trong mối quan hệ với sản phẩm báo chí, với cơ quan
báo chí và với nhà báo.
- Cơng chúng truyền hình là những người được xem truyền hình, tiếp
nhận thơng tin và chịu ảnh hưởng từ các thơng tin mà truyền hình mang lại.

Cơng chúng truyền hình có những đặc điểm riêng biệt so với cơng chúng báo
chí nói chung và cơng chúng của các loại hình nghệ thuật khác trong hệ thống
các phương tiện truyền thơng đại chúng.
Đối với báo in, cơng chúng có thể tiếp cận các ấn phẩm qua hệ thống
phát hành báo chí trong cả nước, đối với phát thanh chỉ cần một chiếc radio
nhỏ là có thể nghe được chương trình mọi lúc, mọi nơi. Nhưng với truyền
hình, việc tiếp nhận thơng tin có phần “địi hỏi” hơn về phần phương tiện thu
hình và hệ thống đường truyền tải điện lưới. Trước kia hệ thống chuyển tải
điện năng của chúng ta chưa rộng khắp, chưa về các vùng nông thôn và chưa
lên được tới vùng sâu vùng xa thì khái niệm truyền hình vẫn cịn là một cái gì
đó xa vời. Đến nay, điện đã về với bà con vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa,
vùng bà con dân tộc thiểu số, bên cạnh đó là sự phát triển của kinh tế, xã hội,
đa số người dân đều đủ điều kiện để mua máy thu hình, vì thế, số lượng người
dân tiếp cận với truyền hình đã tăng lên nhanh chóng và số lượng công chúng
tiếp nhận thông tin trên truyền hình cũng tăng lên rất nhanh.
Cơng chúng truyền hình cũng như cơng chúng báo chí hiện nay khơng
cịn thụ động trong việc tiếp nhận thông tin. Nếu như trước đây, khi truyền
hình mới ra đời, lớp cơng chúng truyền hình mới hình thành rất ấn tượng và bị
hấp dẫn bởi loại hình báo chí mới mẻ này. Cơng chúng thường theo dõi hết
những giờ phát sóng ít ỏi của chương trình truyền hình ở thời kỳ đầu, họ tiếp

5


nhận thơng tin mà truyền hình mang đến một cách bị động, tuy nhiên thì cơng
chúng vẫn hài lịng vì có truyền hình để xem đã là cả một sự tiến bộ.
Cùng với sự phát triển của kinh tế, trình độ dân trí được cải thiện và
nâng cao, cơng chúng có thể tự nhận thức và đánh giá được thơng tin. Bên
cạnh đó là tốc độ của truyền hình, các chương trình ngày càng phong phú và
đa dạng, với nhiều chương trình hấp dẫn được phát 24/24h, trong khi đó công

chúng lại ngày bận rộn với công việc của cuộc sống hàng ngày, thời gian dành
cho xem truyền hình do đó mà ít đi nên cơng chúng ngày càng có xu hướng
chủ động chọn lọc tiếp nhận những chương trình, thơng tin mà mình quan tâm,
u thích,... phục vụ cho lợi ích của bản thân.
Căn cứ vào thói quen tiếp nhận thơng tin, có thể chia cơng chúng truyền
hình làm mấy loạt:
- Đối tượng xem dị tìm: Người xem bật tivi cố gắng tìm một chương
trình cụ thể nào đó và có thể thích thú hoặc bực mình với những gì xem được.
Đây là tình trạng xuất hiện khi truyền hình có điều khiển từ xa và có nhiều
kênh truyền hình khác nhau, nảy sinh kiểu khơng xem một kênh nào trọn vẹn
(đây còn được gọi là căn bệnh zapping).
- Đối tượng xem tập trung tư tưởng: do yêu cầu nghề nghiệp chun
mơn người xem ln có mặt bên máy thu hình hoặc dành một bộ phận thời
gian nhất định cho việc xem tivi hằng ngày.
- Đối tượng xem có chọn lọc, lựa chọn: người xem chỉ cần tiếp nhận
một phần của chương trình hay thơng tin nào đó.
- Đối tượng xem lống thống: chương trình truyền hình chỉ là một yếu
tố động chạm đến một phần nhỏ hoặc chung chung, không ảnh hưởng đến lĩnh
vực nhận thức của người xem.
2. Vai trị của cơng chúng báo chí

6


Thứ nhất, cơng chúng là lực lượng chính trị của báo chí. Ngay từ khi
xuất hiện, báo chí ln hoạt động trong khuôn khổ xã hội và giai cấp. Do đó,
báo chí khơng chỉ liên quan mà cịn mang tính giai cấp. Báo chí là phương
tiện, cơng cụ thơng tin quan trọng của đảng chính trị cầm quyền. Cho dù hoạt
động báo chí thuộc quốc gia nào hay chế độ chính trị nào thì u cầu hàng đầu
vẫn là sự bảo vệ lợi ích giai cấp và đảng phái chính trị nắm quyền lãnh đạo xã

hội, quản lý xã hội để ổn định, phát triển đất nước. Đây là đặc trưng hết sức cơ
bản của báo chí, cho thấy, báo chí là hoạt động chính trị đặc biệt bằng thơng
tin. Từ góc độ này, cơng chúng báo chí được coi là một lực lượng chính trị mà
báo chí phải lơi kéo.
Thơng tin đóng vai trị kết nối người làm báo với công chúng. Công
chúng là đối tượng tiếp nhận thông tin từ báo chí và sẽ chịu những ảnh hưởng
nhất định từ những thơng tin ấy. Nói cách khác, báo chí thơng qua thơng tin để
lơi kéo cơng chúng trở thành lực lượng chính trị thực hiện mục đích của mình.
Cơ chế của hoạt động này, theo PGS. TS. Nguyễn Văn Dững là báo chí tác
động vào ý thức của công chúng nhằm tập hợp, thuyết phục, động viên, và tổ
chức đông đảo nhân dân tham gia giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội thơng
qua việc góp phần thay đổi nhận thức, thái độ và điều chỉnh hành vi của con
người và các nhóm cơng chúng phù hợp với nhu cầu phát triển. Thay đổi được
nhận thức, thái độ và điều chỉnh được hành vi của công chúng tức là đạt được
hiệu quả tác động là điều mà tất cả cơ quan báo chí nào cũng mong đợi.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn các nhà báo luôn phải
đặt câu hỏi: “Viết cho ai? Viết để làm gì và sau đó mới là Viết thế nào?” Sáng
tạo tác phẩm báo chí bao giờ cũng xuất phát từ động cơ, nhằm thực hiện chủ
định, ý đồ, đính hướng nào đó. Tất cả sẽ bằng khơng nếu tác phẩm báo chí
khơng hấp dẫn, khơng lơi kéo, không thuyết phục được người đọc, người xem.

7


Khơng chỉ là đối tượng tiếp nhận, cơng chúng cịn là đối tượng tác
động, hoặc chịu ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp của báo chí. Bởi vì trách
nhiệm xã hội cao cả của nhà báo là cung cấp sự thật, cung cấp thơng tin, thơng
qua đó họ muốn tác động đến đời sống, thúc đẩy xã hội phát triển. Tuy nhiên,
“tự tác phẩm không sản sinh ra cái tốt, điều thiện, khơng trực tiếp làm động
lực cho q trình đi lên của đời sống xã hội mà nó phải thông qua nhận thức

và hoạt động thực tiễn của công chúng do những tư tưởng, tình cảm từ tác
phẩm mang lại và tác động vào”. Nói cách khác, nhà báo muốn thực hiện
được mong ước thúc đẩy xã hội của mình, thì phải nhờ đến cơng chúng, thơng
qua cơng chúng. Cơng chúng tiếp nhận tác phẩm báo chí, từ đó hình thành và
thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi cụ thể trong đời sống phù hợp với nhu cầu
phát triển bền vững.
Dễ thấy nhất là khi có một chủ trương, đường lối hay một đạo luật, quy
định mới thì báo chí đều được huy động tham gia tuyên truyền về những điểm
mới đó giúp cơng chúng hiểu và làm theo.
Ví dụ, các bài báo hay chương trình tun truyền về quy định nộp phí
bảo trì đường bộ có đối tượng hướng tới là tồn bộ cơng chúng, đặc biệt là
những cá nhân, gia đình, đơn bị sở hữu các phương tiện cơ giới. Các thông
điệp truyền thông phải được thiết kế sao cho hiệu quả để công chúng hiểu và
đóng phí đầy đủ. Khi đó, báo chí đã góp phần thay đổi nhận thức và hành vi
của người dân, khiến họ tiếp nhận một cách tự nguyện quy định về một loại
phí mới. Nếu khơng có báo chí tác động vào cơng chúng thì quy định nộp phí
bảo trì đường bộ sẽ khó có thể đi vào đời sống.
Thứ hai, cơng chúng là khách hàng của báo chí. Chủ tịch Hồ Chí Minh,
người đặt nền móng cho báo chí cách mạng, luôn quan tâm nhắc nhở những
người làm báo: “Đối tượng của tờ báo là đại đa số dân chúng; một tờ báo
không được đại đa số ham chuộng thì khơng xứng đáng là một tờ báo. Muốn
8


dân chúng ham chuộng, coi tờ báo ấy là của mình thì: Nội dung tức là các bài
viết phải giản đơn, dễ hiểu, phổ thông, thiết thực, hoạt bát. Và: Hình thức tức
là cách sắp đặt các bài, cách in phải sạch sẽ, sáng sủa.”
Còn tác giả của cuốn sách “Viết cho độc giả”, Loic Hervouer cho rằng:
“Nhiệm vụ đầu tiên của phóng viên là phải làm thế nào cho độc giả đọc bài
báo... Một bài báo chỉ thực sự là bài báo khi nó được độc giả để mắt tới.

Thơng tin chỉ tồn tại khi nó được đọc.”
Cơng chúng báo chí thuộc mọi thành phần cư dân trong xã hội. Do vị trí
xã hội, nghề nghiệp, trình độ văn hố, sở thích, hiểu biết, mỗi người có sự
quan tâm và nhu cầu thông tin với các mức độ khác nhau. Xuất phát từ tâm lý
lợi ích, có những nhóm cơng chúng cùng quan tâm những thơng tin chung
mang tính phổ biến; đồng thời xuất phát từ những lợi ích riêng, có thể người
quan tâm thơng tin này, người quan tâm thông tin kia. Thông thường, công
chúng chỉ quan tâm đến những tin bài hữu ích đối với họ. Nhất là trong thời
đại bùng nổ thông tin hiện nay, công chúng báo chí có quyền lựa chọn kênh
thơng tin mà mình u thích, tồ soạn khơng thể áp đặt việc tiếp nhận thông
tin nếu như bạn đọc nhận thấy thông tin đó khơng bổ ích, khơng thiết thực.
Báo chí có mục đích của mình và cơng chúng cũng có nhu cầu phong
phú của họ. Đáp ứng được nhu cầu ấy là báo chí đã gặp cơng chúng. Báo chí
được coi là sản phẩm hàng hố đặc biệt, cơng chúng là người tiêu thụ đặc biệt
các sản phẩm báo chí - “đầu ra” của hoạt động báo chí. Khơng có cơng chúng,
tờ báo sẽ không tồn tại.
Sứ mệnh tồn tại của báo chí khơng phải là vì tiền và lợi nhuận kinh tế.
Tuy nhiên, để duy trì và phát triển, cũng như để thực hiện được sứ mệnh xã
hội cao cả của mình, những người làm báo phải sản xuất ra những sản phẩm
báo chí có thể bán chạy nhất hoặc nhiều người xem nhất. Khi đó, doanh thu và
lợi nhuận từ quảng cáo cũng tăng theo. Cơ quan báo chí trong thời kỳ hiện đại
9


có nhiều nguồn thu khác nhau, trong đó, nguồn thu từ người tiêu dùng và từ
các nhà quảng cáo được xem là nền tảng kinh tế của cơ quan báo chí.
Phát triển theo cơ chế thị trường, bắt buộc các cơ quan báo chí phải tự
cân đối tài chính, vì vậy mối quan hệ với công chúng với tư cách là khách
hàng sẽ phổ biến trong giai đoạn hiện nay của các cơ quan báo chí. Trên thực
tế nếu khơng bán được sản phẩm, hoặc tăng doanh thu quảng cáo, khơng mở

rộng được khách hàng báo chí thì khó có điều kiện phát triển sự nghiệp báo
chí.
Số lượng cơng chúng chính là tiêu chí đánh giá hiệu quả thơng tin của
tờ báo, cũng là thước đo hàng đầu để thu hút quảng cáo và các nguồn tài trợ
khác. Dù công chúng có chọn lựa tờ báo đó hay khơng thì họ vẫn là người trực
tiếp, hoặc gián tiếp trả tiền để tiếp nhận thơng tin báo chí. Các sản phẩm hàng
hóa quảng cáo trên báo đều phục vụ nhu cầu đời sống của cơng chúng. Doanh
nghiệp đã tính chi phí quảng cáo đó vào giá thành sản phẩm. Như vậy, khi
cơng chúng mua sản phẩm hàng hóa là đã gián tiếp trả tiền đọc báo chứ khơng
được đọc miễn phí. Vì thế, người làm báo càng phải ln phải hiểu rõ ai là
người đang tiêu thụ sản phẩm của mình, bám sát thực tế để nắm bắt được nhu
cầu và những vấn đề cơng chúng quan tâm để có những tin bài đáp ứng nhu
cầu thông tin của họ.
Thứ ba, cơng chúng là đối tác, nguồn tin của báo chí. Sự chủ động trong
tiếp nhận thông tin của công chúng báo chí hiện đại cịn thể hiện ở chỗ họ
khơng chỉ muốn nghe, muốn xem mà muốn nói, muốn tham gia vào quy trình
sản xuất các sản phẩm báo chí, đặc biệt là với truyền hình và báo mạng điện
tử. Đây được xem là xu thế của truyền thông hiện đại.
Trong lĩnh vực truyền hình, cơng chúng vừa đóng vai trị là đối tượng
tiếp nhận các chương trình truyền hình, nhưng cũng là nguồn đề tài để các nhà

10


làm truyền hình khai thác, sản xuất các chương trình, đi sâu vào mọi mặt của
đời sống xã hội, tạo sự gần gũi với công chúng.
Thực tế trên các kênh truyền hình tại Việt Nam hiện nay, trong các
chương trình có sự tham gia của cơng chúng rất nhiều. Người dân được tham
gia các chương trình phỏng vấn, tọa đàm, đối thoại, được nêu ý kiến, thắc mắc
hay gọi điện trực tiếp, nhắn tin bình chọn tới chương trình,... đặc biệt là sự

tham gia của công chúng vào các chương trình trị chơi truyền hình, một loại
chương trình đang phát triển rất mạnh vì tính chất thú vị, bổ ích và hấp dẫn đối
với họ. Vì thế, số lượng cũng như phạm vi công chúng không ngừng phát triển
và mở rộng, tạo thành một lớp cơng chúng truyền hình khác trước rất nhiều,
có thể gọi đó là cơng chúng truyền hình hiện đại.
Với vai trị là đối tác thì cơng chúng cũng là nguồn cung cấp dữ liệu và
nguồn nuôi dưỡng báo chí. Chuyển đổi vai trị vị thế độc giả/khán giả đang là
một xu hướng nổi bật của báo chí hiện đại.
Ngày nay, thơng tin tràn ngập mọi nơi, trong khi các thiết bị số đang tạo
thuận lợi cho việc người người có thể làm báo. Trong bối cảnh đó, các phương
tiện truyền thơng đại chúng khác đang đối mặt với một áp lực mới về nội dung
được tạo ra bởi người sử dụng, hay còn gọi là báo chí cơng dân.
Thời đại cơng nghệ thơng tin và kỹ thuật số cũng tạo điều kiện cho cơng
chúng có nhiều cơ hội hơn trong việc sử dụng các thiết bị cá nhân như: điện
thoại di động, máy tính bảng để ghi âm, quay phim, chụp ảnh, viết bài... về
các sự kiện, sự việc, hiện tượng xảy ra xung quanh cuộc sống của họ mà
phóng viên khơng có cơ hội chứng kiến, ghi lại và nhanh chóng gửi tới các tờ
báo mà họ gắn bó cộng tác, hoặc tin cậy. Những thông tin do họ cung cấp rất
đa dạng, phong phú và đôi khi lại là những thông tin “độc” về một sự kiện, sự
việc nào đó. Điều này đã giúp cho khán giả thay đổi vị thế của mình - từ người

11


“chuyên nhận”, thậm chí là “phải nhận” trở thành “người cho” và hơn nữa là
“người nắm giữ quyền cho hay khơng”.
Truyền hình và đặc biệt là báo điện tử là những loại hình báo chí có
nhiều ưu thế vượt trội trong việc giúp công chúng thể hiện và phát huy một
cách tốt nhất vai trò khởi xướng, hỗ trợ và cung cấp thơng tin. Các chương
trình truyền hình như “Nút REC của tơi” (trên kênh VTV6) hay Góc nhìn

khán giả” (trên kênh VTC14) được sản xuất với chất liệu thông tin hồn tồn
do khán giả cung cấp… Trong khi đó, các báo điện tử cũng mở thêm chuyên
mục dành riêng cho độc giả như: mục Cộng đồng, Góc nhìn trên VnExpress,
mục Tôi viết trên Thanh niên Online, mục Bạn đọc viết trên Dân trí, mục Bạn
đọc làm báo trên Tiền phong Online, mục Bạn đọc viết báo Lao động Onlie…
Vai trị này thêm một lần nữa khẳng định cơng chúng hiện nay không
thụ động trong tiếp nhận thông tin báo chí, họ chủ động chọn lọc, tiếp nhận
thơng tin và sẵn sàng tranh luận, thảo luận, bày tỏ ý kiến của mình về những
vấn đề mà báo chí nêu ra.
Nhiều cơ quan báo chí đã thiết lập những tổ phóng viên chun xử lý
các thơng tin qua đường dây nóng và kiến tạo nó thành một chuyên mục trên
báo hay chương trình trên truyền hình, đồng thời chú trọng đến các hoạt động
tương tác giữa cơng chúng và tịa soạn để thơng tin được cung cấp đến tịa
soạn ngày càng nhiều và hiệu quả hơn.
Thông tin do công chúng cung cấp có thể chia thành hai loại chính: Thứ
nhất, cơng chúng là nguồn tin hoặc gợi ý đề tài, cung cấp chất liệu để nhà báo
sáng tạo tác phẩm. Thứ hai, cơng chúng cung cấp những sản phẩm hồn chỉnh.
Thơng thường các thông tin này khá độc đáo do chỉ có cơng chúng trực tiếp
chứng kiến, hoặc nắm bắt được. Các cơng chúng này lúc đó vừa là nguồn
cung cấp thơng tin nhưng cũng là cộng tác viên của tịa soạn báo.

12


Thứ tư, công chúng là người đánh giá, nhận xét và kiểm định thông tin.
Trong khi tiếp nhận thông tin, cơng chúng cịn thực hiện vai trị đánh giá, kiểm
định chất lượng thông tin, đối chứng, hồi âm, tranh luận, phân tích và phản
bác (nếu cần) lại các bài báo. Những ý kiến, nhận xét mà cơng chúng đưa ra
có thể giúp tờ báo nâng cao chất lượng, thay đổi phương thức hoạt động, tổ
chức thơng tin… hoặc cũng có thể là những yêu cầu tờ báo cung cấp thêm

thông tin.
Đối với loại ý kiến yêu cầu tòa soạn tiếp tục thơng tin về các vấn đề
đang tun truyền, tịa báo có thể căn cứ trên đó để chỉ đạo phóng viên triển
khai tin bài phù hợp. Việc tổng hợp các ý kiến trên có thể giúp tịa soạn hiểu
cơng chúng của mình cần gì trong giai đoạn tiếp theo, từ đó lập kế hoạch
tuyên truyền cụ thể về các vấn đề đó.
Ví dụ, trong mùa tuyển sinh, cơng chúng quan tâm nhiều đến các thông
tin về cách thức tổ chức thi, chỉ tiêu tuyển sinh, tỷ lệ “chọi” vào các trường đại
học… Đáp ứng nhu cầu đó, tịa báo có thể tăng cường nhân lực để làm đậm
các thơng tin về tuyển sinh đại học. Các kế hoạch này có thể được định hướng
từ trước nhưng cũng có thể phát sinh do sự kiện, hoặc nhu cầu của công
chúng.
Đối với những ý kiến, phản hồi của công chúng nhằm góp ý về nội dung
và hình thức thể hiện các sản phẩm báo chí, tịa báo thường có bộ phận nghiên
cứu công chúng tổng hợp, thống kê cụ thể (và phúc đáp nếu cần thiết). Đây sẽ
là những căn cứ xác đáng để tòa soạn và nhà báo điều chỉnh nội dung, hình
thức và chiến lược phát triển thơng tin của mình. Mọi cải tiến, đổi mới về nội
dung và hình thức của sản phẩm báo chí, suy cho cùng đều có căn nguyên sâu
xa từ những phải hồi và địi hỏi chính đáng của cơng chúng.
Tóm lại, cơng chúng ngày nay được sống trong một môi trường truyền
thông rộng mở, đa dạng loại hình, phong phú nội dung. Họ có quyền lựa chọn
13


sản phẩm báo chí và gửi gắm niềm tin. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi
cơ quan báo chí, cũng như từng sản phẩm báo chí đều phụ thuộc vào hiệu quả
tác động của nó tới cơng chúng và sự đón nhận từ phía cơng chúng. Có thể
nói, cơng chúng báo chí là lực lượng quan trọng quyết định vai trò, vị thế xã
hội của các cơ quan báo chí.
3. Các yếu tố tác động đến cơng chúng truyền hình

a. Yếu tố chính trị
Cũng giống như các sản phẩm văn hóa - tư tưởng khác, báo chí chịu sự
chi phối mạnh mẽ của chế độ chính trị. Nội dung báo chí thể hiện chủ trương
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, hình thức thì phải phù hợp với
thuần phong mỹ tục của dân tộc. Vì thế, chế độ chính trị xã hội nào thì nền
báo chí ấy. Do đó một nền báo chí phát triển phải thể hiện được bộ mặt chính
trị đương thời. Nhà cầm quyền ban hành các văn bản pháp luật, các quy định
hoạt động báo chí, những địi hỏi về báo chí có nội dung đi ngược lại chủ
trương chính sách quan điểm của Nhà nước sẽ không được phép đáp ứng, lưu
hành và phổ biến. Như vậy, những nội dung báo chí mà cơng chúng hưởng thụ
cũng chịu ảnh hưởng của chính trị. Nói một cách khác, nhu cầu hưởng thụ
thơng tin qua báo chí của cơng chúng mang tính định hướng của Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, phù hợp với lợi ích quốc gia, dân tộc.
Với tư cách là một loại hình báo chí, truyền hình chịu ảnh hưởng của
chính trị từ việc lựa chọn mục tiêu, sử dụng các giải pháp để thực hiện mục
tiêu đó, khả năng kiểm sốt và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực có sẵn của
truyền hình, việc cho phép hình thành các cơ chế để quần chúng tham gia vào
quá trình thực hiện các chương trình của truyền hình một cách có hiệu quả.
Truyền hình vừa là cơng cụ, phương tiện tuyên truyền của Đảng và Nhà nước
nhưng cũng là đơn vị sản xuất, vừa có ý nghĩa về kinh tế, vừa có ý nghĩa về
văn hóa. Đối với cơng chúng truyền hình, chính trị có thể đưa ra chính sách để
14


phát triển nhanh hơn, nâng cao trình độ học vấn của cơng chúng, giúp truyền
hình trở thành một kênh thơng tin vơ cùng hiệu quả.
Cơng chúng truyền hình hiện nay vừa có khả năng sáng tạo ứng dụng
các thành quả phát triển của nhân loại đã đạt được. Đây có thể coi là lớp cơng
chúng lý tưởng của truyền hình. Họ biết tiếp nhận thơng tin từ truyền hình, có
khả năng phân tích tổng hợp những thơng tin ấy và vận dụng sáng tạo vào

cuộc sống, khơng dừng ở đó lớp cơng chúng này cịn có thể tham gia tích cực
vào các chương trình truyền hình, trở thành mắt xích quan trọng trong đó.
b. Yếu tố kinh tế
Lịch sử hàng vạn năm của con người luôn gắn liền với các điều kiện
kinh tế để phục vụ mục đích mưu sinh. Trải qua từng thời kỳ, con người từ
chỗ là một thực thể gắn bó với tự nhiên đã tách ra từng bước chế ngự tự nhiên
bằng niềm tin và sức mạnh của mình. Với sự phát triển của điều kiện kinh tế,
con người có thể vươn lên tự khẳng định mình. Đây chính là yếu tố có tính
quyết định làm thay đổi nhu cầu của con người nói chung trong các thời kỳ.
Trước hết, nó làm thay đổi nhu cầu của con người ở tất cả các khía
cạnh, trong đó có nhu cầu hưởng thụ. Điều kiện kinh tế ngày càng phát triển,
con người ngày càng có nhiều nhu cầu phong phú, đa dạng để phục vụ cuộc
sống. Trong mối quan hệ biện chứng, nhu cầu con người kích thích sự phát
triển kinh tế của xã hội ở trình độ sản xuất, lực lượng sản xuất và các mối
quan hệ kinh tế trong đó. Nền kinh tế ngày càng phát triển, đời sống vật chất
ngày càng cao thì càng thỏa mãn được nhu cầu ngày càng tăng của con người
trong đời sống thực tại.
Đối với truyền hình và cơng chúng truyền hình, yếu tố kinh tế được coi
như là một điều kiện tiên quyết. Trước hết, do sản xuất chương trình truyền
hình địi hỏi chi phí lớn nên để sản xuất được các các chương trình truyền
hình hay thì phải có điều kiện kinh tế để nâng cấp máy móc thiết bị. Đối với
15


công chúng, kinh tế phát triển cũng đồng nghĩa với mức sống được nâng cao,
kéo theo nhu cầu hưởng thụ văn hóa phát triển. Yếu tố kinh tế có vai trò lớn
trong việc biến nhu cầu tiềm năng thành nhu cầu thực tế. Cho dù kinh tế chưa
phải là điều kiện đủ, nhưng một điều hiển nhiên là nếu nhu cầu vật chất chưa
được thỏa mãn thì sẽ khó có sự thỏa mãn nhu cầu tinh thần. Như vậy có thể
nói rằng, điều kiện kinh tế xã hội tỉ lệ thuận với nhu cầu của cơng chúng nói

chung và cơng chúng truyền hình nói riêng.
c. Yếu tố về nhân khẩu học xã hội
- Giới tính: Cơng chúng của truyền hình nói riêng và báo chí nói chung
khơng phân biệt giới tính. Truyền hình phục vụ thơng tin cho mọi người bất
kể nam hay nữ, cũng có một số chương trình dành riêng cho phụ nữ, hay đàn
ông nhưng không phải chỉ mỗi phụ nữ hay đàn ông xem được mà cả hai giới
này đều có thể theo dõi.
Nói về tâm lý tiếp nhận thơng tin thì những người thuộc phái mạnh có
cách tiếp nhận có chủ đích hơn, mang tính chất phục vụ cho công việc nhiều
hơn. Sở dĩ, phái nữ khơng có nhiều sự quan tâm đến truyền hình vì lý do thời
gian, họ phải lo chuyện nội trợ cùng với công việc xã hội nên họ thường tiếp
nhận truyền hình với tâm lý cần thơng tin khoa giáo liên quan đến: dinh
dưỡng, sức khỏe, làm đẹp, nuôi dạy con cái…
- Tuổi tác: Cơng chúng truyền hình khơng phân biệt tuổi tác. Tuy nhiên
với kết cấu dân số trẻ của Việt Nam nên thường thì người ta hay nghĩ giới trẻ
hay theo dõi truyền hình nhất. Nhưng trên thực tế, độ tuổi tiếp nhận và xem
các chương trình truyền hình nhiều nhất là từ 20 - 24 tuổi và trên 55 tuổi.
Những người này hay theo dõi truyền hình thường theo chiều hướng giải trí là
chính, học tập thì chủ yếu là những người còn trong độ tuổi đi học.

16


- Trình độ học vấn: Trình độ học vấn là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến
thói quen, nhu cầu và khả năng tiếp nhận thông tin của công chúng. Nhu cầu
đó lớn hay nhỏ phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố trình độ học vấn.
Truyền hình với đặc thù là sự kết hợp giữa âm thanh và hình ảnh nên
cơng chúng sẽ được mở rộng ra rất nhiều vì khắc phục được khó khăn của
cơng chúng khơng biết chữ. Đặc biệt, đối với những người khơng biết chữ thì
tỉ lệ người theo dõi các chương trình truyền hình lại khá cao.

- Địa bàn sinh sống: Cơng chúng truyền hình được chia ra hai địa bàn
chính là nơng thơn và đô thị. Những công chúng sống ở thành thị do có nhiều
nguồn để thu thập thơng tin nên thời gian dành cho các kênh truyền thông
cũng bị san sẻ bớt, nhưng thực tế điều tra lại cho thấy, lượng người xem
truyền hình ở thành thị vẫn đơng, đã chứng tỏ đặc điểm tiếp nhận thơng tin
của cơng chúng là thích được xem thơng tin, được thấy mình như tham gia
vào sự kiện, hiện tượng nên chọn truyền hình. Và trong truyền hình, cơng
chúng có thể tham gia vào các trị chơi, có thể thấy mình trên tivi, đó cũng là
một trong số các nguyên nhân khiến công chúng ở nông thơn rất thích xem
truyền hình.
- Nghề nghiệp: Bất cứ những làm nghề gì, kể cả thất nghiệp thì họ vẫn
có nhu cầu nắm bắt thơng tin và giải trí. Đó là nguyên do những người làm
việc theo giờ giấc (công nhân viên chức) và những người có quỹ thời gian
rảnh nhiều nhất (nội trợ, thất nghiệp và hưu trí) là những cơng chúng xem
truyền hình nhiều nhất. Tuy nhiên với những nghề nghiệp khác, do khơng có
điều kiện về mặt thời gian hay kinh tế không thể theo dõi truyền hình thường
xun thì họ lại có chủ đích xem truyền hình để học hỏi và tham gia vào
truyền hình, nghĩa là truyền hình mang lại nhiều hiệu quả hơn với những đối
tượng này.
d. Yếu tố khoa học - kỹ thuật
17


Chúng ta đang sống trong xã hội mà sự chuyển biến của nó dưới tác
động của khoa học kỹ thuật là hết sức nhanh chóng. Sự ra đời của hàng loạt
các thế hệ máy tính đã đem lại sự biến đổi quan trọng về diện mạo của nền
văn hóa và kinh tế, nó cung cấp khối lượng thơng tin khổng lồ một cách
nhanh chóng, chính xác, liên tục và rộng khắp. Cuộc cách mạng về khoa học
kỹ thuật đã thực sự làm thay đổi cuộc sống của con người từ nếp sống truyền
thống của những làng quê đến phương thức sản xuất của các đơn vị doanh

nghiệp ở thành thị.
Đối với một xã hội ln biến chuyển thì kiến thức và thơng tin là nguồn
lực vơ cùng quan trọng. Vì vậy, nhu cầu về thông tin là một trong những nhu
cầu không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Như vậy, lượng cơng
chúng báo chí sẽ tăng trong đó có cơng chúng truyền hình. Nhịp sống ngày
càng gấp gáp, thời gian dành cho việc tiếp cận thông tin của cơng chúng
truyền hình cũng ít hơn dẫn đến cách thức tiếp nhận thơng tin của cơng chúng
truyền hình có nhiều thay đổi. Chính truyền hình cũng là một sản phẩm của
những thành tựu khoa học và công nghệ, và yếu tố này ngày càng có nhiều sự
biến đổi vượt bậc và ngày càng có nhiều ảnh hưởng đến sự phát triển chung
của cơng chúng.
II. THỰC TRẠNG CƠNG CHÚNG CỦA CÁC SẢN PHẨM BÁO
CHÍ QUÂN ĐỘI
Những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ
Quốc phòng, Tổng cục Chính trị và sự chỉ đạo về nghiệp vụ của các cơ quan
chức năng Trung ương, báo chí qn đội đã bám sát tơn chỉ, mục đích, tun
truyền có hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, cơng tác qn sự-quốc phịng,
xây dựng nền quốc phịng tồn dân vững mạnh, xây dựng Quân đội nhân dân
Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Báo chí Qn
đội đã thể hiện vai trị là lực lượng nịng cốt, tin cậy của báo chí cách mạng
18


Việt Nam trong việc thơng tin, tun truyền tồn diện về chính trị, quốc
phịng, qn sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, đối ngoại; là diễn đàn của
cán bộ, chiến sĩ toàn quân và các tầng lớp nhân dân Việt Nam. Cùng với việc
đẩy mạnh tuyên truyền Phong trào Thi đua Quyết thắng, phát hiện, biểu
dương, cổ vũ những điển hình tiên tiến, những cách làm hay, kinh nghiệm tốt,
báo chí qn đội cịn tiên phong, xung kích đi đầu trong việc tuyên truyền, đấu
tranh phản bác các quan điểm sai trái, phản động, thù địch, bảo vệ vững chắc

nền tảng tư tưởng của Đảng; tuyên truyền sâu rộng về cơng cuộc đổi mới,
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước; góp phần
định hướng thông tin, dư luận xã hội, xây dựng niềm tin của nhân dân vào chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, tạo sự
đồng thuận trong xã hội và đáp ứng tốt nhu cầu hưởng thụ thông tin của bộ đội
và nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả nổi bật đáng ghi nhận, cơng tác
thơng tin tun truyền của báo chí qn đội thời gian qua cịn có những hạn
chế, như: Hình thức thơng tin, tun truyền có lúc chưa thật phong phú, sinh
động; nội dung tun truyền có lúc cịn khơ khan, chưa thật hấp dẫn công
chúng; việc phối hợp giữa cơ quan báo chí quân đội với các cơ quan chức
năng chỉ đạo, quản lý báo chí trong việc đấu tranh chống các quan điểm sai
trái, thù địch và trước những vấn đề phức tạp, nhạy cảm có lúc chưa chặt chẽ.
Ngồi ra, một số ít cơ quan báo chí chưa chú trọng đổi mới nội dung, hình
thức thể hiện, chưa quan tâm sát sao đến các hoạt động xã hội hóa báo chí để
góp phần gắn kết chặt chẽ hơn giữa báo chí và cơng chúng. Một số ít chi hội
báo chí trong quân đội hoạt động chưa thật sự hiệu quả.
Thứ hai, sự phát triển của công nghệ truyền thông đã tạo ra sự bùng nổ
của Internet. Quá trình này đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của báo chí
thế giới, hình thành xu thế vận động mới trong hoạt động báo chí - truyền
thơng: Tích hợp các phương tiện truyền thơng. Đó là q trình các phương

19


tiện truyền thông, các thiết bị truyền thông và các kênh thơng tin đại chúng,
các loại hình báo chí, được tích hợp lại trên nền internet. Internet vừa là
phương tiện truyền thơng thứ tư (sau báo in, truyền hình, phát thanh), vừa là
sự tích hợp của cả ba phương tiện trên.
Sự tích hợp các loại hình truyền thơng trên nền Internet đã tạo ra nhu

cầu mới trong tiếp nhận thông tin của công chúng, cho phép công chúng thu
nhận thông tin bằng cả hình ảnh, âm thanh, văn bản.
Phương thức tiếp nhận thông tin của người dân đã và đang thay đổi
nhanh chóng, do khả năng kết nối dễ dàng vào mạng Internet tồn cầu, với
lượng thơng tin khổng lồ được chuyển tải trên hàng trăm kênh truyền hình
quốc tế, hàng ngàn kênh phát thanh và hàng triệu websites … Đã có sự dịch
chuyển, thay đổi lớn ở nơi người dân, trong cách thức, mục đích và nội dung
tiếp nhận thông tin từ các phương tiện truyền thông.
Xu hướng thay đổi này trong cách tiếp nhận thông tin và xu thế tích
hợp truyền thơng, rõ ràng đang đặt ra thách thức với các đơn vị báo chí, đặc
biệt là với các sản phẩm báo chí có tính chất thơng tin và tuyên truyền đặc thù
như báo chí Quân đội.
III. GIẢI PHÁP ĐỂ CẢI THIỆN HIỆU QUẢ THÔNG TIN
TUYÊN TRUYỀN CỦA BÁO CHÍ QN ĐỘI
Để hồn thành tốt nhiệm vụ thơng tin, tuyên truyền trong thời gian tới,
báo chí quân đội cần chú trọng thực hiện một số vấn đề sau:
Thứ nhất, báo chí Quân đội cần tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt Chỉ
thị 22/CT-TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) “Về cơng
tác tư tưởng, lý luận, báo chí trước u cầu mới”, Thơng báo Kết luận số 41TB/TW của Bộ Chính trị (khóa X) “Về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo
và quản lý báo chí”; Luật Báo chí; Chỉ thị 47 của Thường vụ Đảng ủy Quân sự

20


Trung ương (nay là Thường vụ Quân ủy Trung ương) “Về tiếp tục tăng cường
sự lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan báo chí qn đội trong tình hình mới”; Quy
chế quản lý báo chí trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Các cơ quan báo chí
quân đội cần tiếp tục quán triệt, thấm nhuần sâu sắc quan điểm: Báo chí ở cấp
nào phải chịu sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của Đảng ủy và sự quản lý,
điều hành của người chỉ huy, chính ủy và cơ quan chính trị cấp đó; thực hiện

đúng tơn chỉ, mục đích, chấp hành nghiêm nghị quyết, chỉ thị của Đảng,
những quy định của Chính phủ, sự chỉ đạo định hướng tuyên truyền của Ban
Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Nhà báo Việt
Nam.
Thứ hai,trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, đối tượng phục vụ chính, các
cơ quan báo chí quân đội cần chú trọng nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả
tuyên truyền về hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thông
tin phải chủ động, kịp thời, chính thống và thực hiện tốt định hướng dư luận
xã hội; kiên quyết không chạy theo xu hướng “thương mại hóa”; đồng thời đổi
mới về hình thức và nội dung thể hiện các ấn phẩm báo chí, đáp ứng ngày
càng tốt hơn nhu cầu thơng tin của bộ đội và nhân dân trong xã hội thông tin
bùng nổ.
Thứ ba, tiếp tục làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao bản lĩnh
chính trị, lập trường cách mạng, trình độ, năng lực chun mơn nghiệp vụ, đạo
đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, phóng viên, biên tập viên các
cơ quan báo chí quân đội. Kết hợp chặt chẽ giữa việc cử đi thực tế, đào tạo,
bồi dưỡng, tập huấn ở các học viện, nhà trường trong và ngoài quân đội, với
việc động viên, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để những người làm báo
quân đội tích cực, tự giác học tập, nghiên cứu, nâng cao trình độ chun mơn
nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng cao trong tình hình mới.

21


Thứ tư, thường xuyên chăm lo xây dựng tổ chức đảng trong các cơ
quan báo chí trong sạch vững mạnh, là hạt nhân chính trị trong việc lãnh đạo,
chỉ đạo cơ quan thực hiện nhiệm vụ thông tin tuyên truyền bảo đảm đúng định
hướng chính trị; xây dựng mỗi cơ quan báo chí là một “điểm sáng văn hóa”;
rèn luyện cán bộ, phóng viên, biên tập viên thể hiện tốt vai trò, phong cách
nhà báo-chiến sĩ. Quan tâm hơn nữa đến việc duy trì và nâng cao chất lượng

hoạt động của các liên chi hội, chi hội nhà báo trong qn đội để góp phần
nâng cao chất lượng chun mơn nghiệp vụ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các hội viên.
Cuối cùng, trên cơ sở Đề án “Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí
tồn quốc đến năm 2025” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tổ chức rà
sốt, điều chỉnh các cơ quan báo chí qn đội bảo đảm tính cơ bản, hệ thống
với số lượng hợp lý, chất lượng cao, phù hợp với tính chất đặc thù của quân
đội và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền về sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Cùng với việc triển khai, tổ chức
thực hiện hiệu quả Đề án “Hiện đại hóa các cơ quan báo chí qn đội giai
đoạn 2014-2018” đã được Bộ Quốc phòng phê duyệt, tăng cường đầu tư, hiện
đại hóa cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật làm báo cho các cơ quan báo chí trong
qn đội; tiếp tục nghiên cứu, hồn thiện cơ chế, chính sách, tạo điều kiện,
mơi trường thuận lợi cho các cơ quan báo chí và đội ngũ nhà báo qn đội
hoạt động hiệu quả, tích cực đóng góp, cống hiến nhiều hơn nữa vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Thực hiện đồng bộ, kiên trì các vấn đề nêu trên, cùng với phát huy tinh
thần tự chủ, năng động, sáng tạo của các cơ quan báo chí quân đội, nhất là
phát huy phẩm chất, vai trò của đội ngũ nhà báo-chiến sĩ đã được thử thách,
tơi luyện trong mấy chục năm qua, báo chí quân đội sẽ phát triển theo hướng

22


cách mạng, chuyên nghiệp, hiện đại và không ngừng lớn mạnh, trưởng thành
về mọi mặt, xứng đáng là đội quân chủ lực hùng hậu, tinh nhuệ của báo chí
cách mạng Việt Nam.

KẾT LUẬN
Trong một thời gian ngắn vận dụng lý thuyết truyền thơng và thực tiễn,

tiểu luận đã phân tích được thực trạng công chúng của các sản phẩm báo chí
Quân đội. Mặc dù phải đối diện với những vấn đề phát sinh từ những hạn chế
của mình trong thời đại báo chí – truyền thơng đa phương tiện, sản phẩm báo
chí Quân đội vẫn là một bộ phận quan trọng của báo chí cách mạng Việt Nam.
Với nhiệm vụ, vai trị hết sức trong cơng tác thơng tin, tuyền truyền của Đảng
và nhà nước, báo chí Quân đội cần liên tục nghiên cứu, phát triển để phù hợp
với thực tiễn, đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của công chúng. Tất nhiên,
ngành báo chí Quân đội của Việt Nam còn nhiều việc phải làm nhưng với
những thế mạnh hiện có cộng thêm các đổi mới phù hợp, hồn tồn có thể tin
tưởng ở một bước phát triển mới của báo chí Quân đội trong thời đại mới.
Tiểu luận đã vận dụng các kiến thức lý luận cơ bản của báo chí và truyền
thơng đại chúng để chỉ ra các hạn chế, tồn tại của các báo chí Quân đội và đề
xuât các giải pháp, kiến nghị nhằm tăng hiệu quả công tác truyền thông. Tác
giả xin gửi lời cảm ơn chân thành tới PGS. TS Đỗ Thị Thu Hằng, Phó trưởng
khoa Báo chí, Học viện Báo chí trun truyền đã hướng dẫn. Tuy nhiên do
thời gian nghiên cứu ngắn và trình độ hiểu biết của cá nhân cịn hạn chế, nội
23


dung nghiên cứu cịn nhiều thiếu sót mong thầy cơ và các bạn có những ý kiến
đóng góp để tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Người viết tiểu luận
Dương Tuấn Dũng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình: Truyền thông - Lý thuyết và kỹ năng cơ bản
Tác giả: PGS, TS Nguyễn Văn Dững và PGS, TS Đỗ Thị Thu Hằng. Nhà xuất
bản Sự thật, 2012.
2. Giáo trình: Cơ sở lý luận báo chí
Tác giả: PGS,TS Nguyễn Văn Dững. Nhà xuất bản Lao Động, 2013.

3. Giáo trình: Tâm lý học báo chí
Tác giả: PGS.TS Đỗ Thị Thu Hằng, Nxb Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh.
4. Báo chí – những điểm nhìn từ thực tiễn.
Tác giả: PGS, TS Nguyễn Văn Dững (Chủ biên). H - Văn hóa Thơng tin. Tập
I, 2000; Tập II, 2001.
5. PR Công cụ phát triển báo chí
Tác giả: Tác giả: PGS.TS Đỗ Thị Thu Hằng, Nxb Trẻ, 2010
6. Lao động nhà báo - Lý thuyết và kỹ năng cơ bản
Tác giả: ThS. Lê Thị Nhã, Nxb Chính trị - Hành chính.
7. Tác phẩm báo chí đại cương
Tác giả: TS.Nguyễn Thị Thoa, Nguyễn Thị Hằng Thu, Nxb giáo dục Việt
Nam.
8. Lịch sử báo chí Việt Nam 1865-1945

24


Tác giả: Đỗ Quang Hưng (Chủ biên), Nguyễn Thành Dương, Dương Trung
Quốc, Nhà xuất bản quốc gia Hà Nội, 2000
9. Báo chí và truyền thơng hiện đại
Tác giả: PGS, TS Nguyễn Văn Dững., Nhà xuất bản quốc gia Hà Nội, 2011.

25


×