Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Tài liệu Nuôi bò sữa ở nông hộ - Chương 5 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.05 KB, 28 trang )

Chơng 5
kỹ thuật vắt sữa
I. sinh lý tuyến sữa
1. Cấu tạo tuyến sữa
Tuyến sữa (hay còn gọi là tuyến vú) là cơ quan
sản xuất sữa của bò (hình 5-1). Tuyến vú bao gồm mô
tuyến và mô liên kết, ngoài ra còn có hệ cơ, mạch
quản, lâm ba và thần kinh.

Hình 5-1: Cấu tạo tuyến sữa của bò










113

a. Mô tuyến
Mô tuyến gồm 2 phần chính: hệ thống tuyến
bào và hệ thống ống dẫn (hình 5-2). Đó là cơ quan tạo
sữa duy nhất ở bò. Sự phát triển của tuyến có liên quan
trực tiếp đến năng suất sữa.











TB cơ biểu mô
ống dẫn sữa
Màn
g
đá
y
X
oa
n
g
TB phân tiết
Đ

n
g
m

ch
Hình 5-2: Tuyến bào và ống dẫn sữa
- Tuyến bào
Tuyến bào (nang tuyến, bao tuyến) là đơn vị
chế tiết chủ yếu của tuyến sữa. Tuyến bào có dạng
khối cầu, mặt trong đợc bao phủ bởi các tế bào biểu
mô tuyến (tế bào tiết sữa). Hình dạng tế bào thay đổi


114
theo chu kỳ phân tiết sữa. Khi phân tiết mạnh, trong tế
bào tích trữ nhiều dịch phân tiết. Tế bào có hớng
hình trụ cao đầu nhỏ hớng vào xoang tuyến bào. Tế
bào tuyến chứa nhiều hạt mỡ và protein có kích thớc
khác nhau. Khi không phân tiết tế bào biểu mô tuyến
thu hẹp lại.
Chính giữa mỗi tuyến bào có một xoang, gọi là
xoang tiết. Xoang này ăn thông với ống dẫn sữa nhỏ.
Trong bầu vú, tuyến bào hợp lại với nhau thành từng
chùm ngời ta gọi là chùm tuyến bào hoặc tiểu thuỳ.
Mỗi một phần t bầu vú đợc tập hợp bởi nhiều chùm
tuyến bào và biệt lập với nhau bởi lớp ngăn màng treo
giữa và các mô liên kết khác.
- Hệ thống ống dẫn và bể sữa
Hệ thống ống dẫn bao gồm hệ thống ống, phân
nhánh theo kiểu cành cây, bắt đầu là các ống dẫn sữa
nhỏ xuất phát từ các xoang tiết của tuyến bào (nên còn
gọi là các ống dẫn tuyến bào). Nhiều ống dẫn nhỏ tập
trung lại thành một ống dẫn trung bình. Nhiều ống dẫn
trung bình tập trung lại thành ống dẫn lớn. Nhiều ống
dẫn lớn đổ về bể sữa.
Bể sữa đợc phân ra làm 2 phần, phần trên gọi
là bể tuyến, phần dới gọi là bể đầu vú. Giới hạn giữa
2 bể là nếp nhăn niêm mạc vòng. Cuối cùng là lỗ đầu
vú. Cuối cùng của núm vú có cơ thắt đầu núm vú. Cơ

115
này ngăn không cho sữa tự chảy ra ngoài và chỉ mở

khi có phản xạ thải sữa.
b. Mô liên kết
Mô liên kết của tuyến sữa thực hiện chức năng
định hình, bảo vệ cơ giới và sinh học. Chúng bao gồm
các tổ chức sau:
- Da: Da bao bọc bên ngoài, là phần bảo vệ và
hỗ trợ sự định hình của tuyến. Da giữ cho bầu vú gắn
chặt vào thành bụng của bò.
- Mô liên kết mỏng: Đây là lớp mô mỏng nằm ở
phần nông khắp bề mặt da.
- Mô liên kết dày: Lớp mô này nằm sâu bên
trong lớp mô liên kết mỏng, gắn phần da và tuyến thể
bằng sự tạo thành một lớp liên kết đàn hồi.
- Màng treo bên nông: Lớp mô liên kết này bắt
nguồn từ khung chậu trải rộng xuống phía dới bao
phủ và nâng đỡ phần bên tuyến thể.
- Màng treo bên sâu: Bắt đầu từ khung chậu đi
xuống phía dới và hỗ trợ mô tuyến của bầu vú.
- Màng treo giữa: Đó là màng treo kép, bắt đầu
từ đờng giữa của thành bụng chia bầu vú thành nửa
trái và nữa phải. Màng này nâng đỡ phần giữa của vú
chống lại lực kéo xuống, giữ bầu vú ở vị trí cân bằng
nếu các cấu trúc phụ trợ khác bị tách rời.

116
- Tổ chức liên kết đệm: Giữa các nang tuyến có
các tổ chức mỡ. Tổ chức này có hai chức năng:
+ Có tác dụng đệm nhằm tránh xây xát cho các
nang tuyến khi bầu vú căng sữa và có kích thích cơ
giới bên ngoài lên bầu vú.

+ Có tác dụng giữ cho tuần hoàn máu lu thông
trong thời kỳ căng sữa.
c. Hệ cơ tuyến vú
Xung quanh các nang tuyến có cơ biểu mô. Khi
cơ này co bóp sữa đợc đẩy từ nang tuyến vào hệ
thống ống dẫn để đổ vào bể sữa. Xung quanh các ống
dẫn sữa lớn và bể sữa có hệ thống cơ trơn. Xung quanh
đầu vú có hệ cơ vòng gọi là cơ thắt đầu vú. Khi cơ
biểu mô co bóp thì cơ trơn dãn và cơ thắt đầu vú co
lại. Khi cơ trơn co thì cơ thắt đầu vú dãn và sữa đợc
đẩy ra ngoài thành tia.
2. Bầu vú
Bò có 4 vú gắn liền với nhau tạo thành bầu vú.
Bốn vú này tơng đối độc độc lập với nhau. Điều đó
có thể thấy đợc từ bên ngoài. Khi quan sát bầu vú từ
phía sau ta thấy một rãnh chia bầu vú thành hai nửa và
mỗi nửa đợc tạo thành từ hai khoang, gọi là khoang
trớc và khoang sau (vú trớc và vú sau).


117






H×nh 5-3: BÇu vó cña bß (nh×n nghiªng)



H×nh 5-4: BÇu vó cña bß (c¾t ®øng)


118

Hình 5-5: Bầu vú của bò (cắt ngang)
Giữa các khoang vú có các vách ngăn bằng mô
liên kết (hình 5-4 và 5-5). Các vách ngăn chạy theo
chiều dọc và chiều ngang làm cho các khoang độc lập
với nhau. Nh vậy, có thể một khoang vú này sản sinh
ra một lợng sữa lớn hơn các khoang kia, hoặc một
trong các khoang bị nhiễm khuẩn mà các khoang khác
không bị ảnh hởng mạnh.
2. Sự phát triển của tuyến vú
Trong giai đoạn phát triển bào thai và giai đoạn
trớc khi bê cái thành thục tính dục, mô tuyến vú đợc
cấu tạo từ mô mỡ, bao quanh các ống dẫn sữa nguyên
thuỷ. Khi bắt đầu thành thục tính dục, các ống dẫn sữa
phát triển và hình thành các nang tuyến. Cứ sau mỗi
chu kỳ động dục, thể tích bầu vú lại tăng lên một chút.
Trong thời gian có chửa, thể tích bầu vú tăng
lên rất mạnh do sự phát triển của các ống dẫn và nang

119
tuyến. Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu mang thai hệ thống
ống dẫn phát triển mạnh, còn tuyến bào phát triển
chậm. Sau đó tuyến bào phát triển nhanh dần theo sự
tiến triển của thai. Trớc khi đẻ 2-3 ngày tuyến sữa đã
tích luỹ sữa đầu.
ở bò, tuyến sữa đã phát triển đầy đủ trong giai

đoạn mang thai, không tiếp tục phát triển sau khi sinh
đẻ. Song trong thực tế sản lợng sữa tăng dần và đạt
đến ổn định, duy trì năng suất cao ở 6-8 tuần sau khi
đẻ. Sau đó năng suất sữa dần dần giảm xuống. Hiện
tợng đó là do dung lợng phân tiết của tuyến bào
tăng lên. Sau một thời gian duy trì cờng độ phân tiết
cao, tuyến sữa xuất hiện quá trình thoái hoá.
Trong một chu kỳ tiết sữa, năng suất sữa có xu
hớng tăng lên và duy trì ở mức độ cao ở tháng cho
sữa thứ 2-3 hoặc tháng thứ 4, sau đó dần dần giảm
xuống. Hiện tợng đó là do sự giảm thấp số lợng tế
bào tuyến, kèm theo sự giảm thấp chức năng của mỗi
tuyến bào. Hiện tợng sinh lý bình thờng này diễn ra
theo sự tiến triển của chu kỳ cho sữa gọi là sự thoái
hoá tuyến sữa.
3. Thành phần và sự tạo sữa
Sữa đợc hình thành trong tuyến sữa trớc khi
đẻ và tiết ra ngay sau khi đẻ gọi là sữa đầu. Sữa đợc
hình thành và tiết về sau đợc gọi là sữa thờng. Sữa

120
chứa rất nhiều chất khác nhau, bao gồm protein, mỡ
(bơ), đờng, các chất khoáng, vitamin và các hoạt chất
sinh học khác. Sữa đầu và sữa thờng có thành phần
khác nhau nhiều. Thành phần của sữa thay đổi nhanh
chóng trong những ngày đầu tiên sau khi đẻ.
Nếu tính theo trọng lợng thì 1 lít sữa thờng
của bò Holstein Friesian cân nặng từ 1029g đến
1034g, trong đó nớc chiếm tới 900-910g.
Sự tạo sữa không phải là quá trình tích luỹ vật

chất giản đơn mà là quá trình sinh lý tích cực và phức
tạp diễn ra trong tế bào tuyến vú. Sữa đợc tổng hợp từ
các nguyên liệu lấy từ máu. Trong các thành phần của
sữa một số đợc tổng hợp ngay trong tuyến bào,
nhng một số đợc vận chuyển nguyên dạng trực tiếp
từ máu vào. Để sản ra 1 lít sữa, bình quân có khoảng
540 lít máu chảy qua tuyến vú. Thông thờng tuyến
vú chỉ chiếm khoảng 2-3% thể trọng, nhng trong một
năm nó thải chất khô vào sữa lớn gấp nhiều lần so với
lợng chất khô trong toàn cơ thể. Ví dụ, một bò sữa
nặng 400kg (tơng đơng khoảng 80-100kg vật chất
khô) có sản lợng sữa 4000kg/chu kỳ thì lợng chất
khô thải qua sữa là 480kg/chu kỳ (tỷ lệ vật chất khô
trong sữa trung bình là 12%).
Khi sữa đợc hình thành, nó đi qua thành tế bào
và tích tụ lại trong xoang tiết. Sữa đợc hình thành
liên tục, nhng quá trình tạo sữa nhanh hơn khi bầu

121
sữa rỗng so với khi bầu vú đã đầy. Khi các xoang tiết
đầy sữa, nó tạo nên một áp lực lên hệ thống mao
mạch, làm chậm quá trình lu thông máu và nh vậy
làm giảm việc cung cấp các chất dinh dỡng cần thiết
cho việc tạo sữa, việc tạo sữa chậm lại. Điều đó giải
thích tại sao cần phải vắt sữa cho bò ít nhất là 2 lần
một ngày và với khoảng thời gian nh nhau, nếu
không, quá trình tạo sữa bị chậm lại và tổng lợng sữa
bị giảm.
5. Phản xạ thải sữa
Việc tiết và thải sữa diễn ra thông qua các tín

hiệu phản xạ có điều kiện (bò nhìn thấy hình ảnh
ngời vắt sữa, dụng cụ vắt sữa, vị trí vắt sữa và đến giờ
vắt sữa ) và thông qua kích thích trực tiếp lên bầu vú
(rửa lau bằng nớc ấm, xoa bóp bầu vú ). Kích thích
sẽ theo dây thần kinh truyền vào tuỷ sống, đến hành
tuỷ và lên vùng vùng dới đồi. Dới sự điều khiển của
vùng dới đồi, thuỳ sau tuyến yên tiết và đổ hoc-môn
oxytoxin vào máu. Oxytoxin làm co các cơ biểu mô và
đẩy sữa vào bể chứa. Hoạt động của hocmôn này kéo
dài khoảng 6 phút, mà thời điểm từ khi tiếp nhận thần
kinh cho đến khi hocmôn tới bầu vú, nghĩa là bắt đầu
tác động lên tuyến vú kéo dài 60-80 giây (hoặc
khoảng 1 phút). Nh vậy, thời gian vắt sữa đợc giới
hạn khoảng 5 phút vì khi không còn oxytoxin thì
không sữa không thải tiết đợc nữa.


122
Ox
y
toxin












Hình 5-6 : Phản xạ thải sữa ở bò
Vì phản xạ thải sữa là một loại phản xạ có điều
kiện nên việc duy trì các tín hiệu khi vắt sữa nh
ngời vắt, nơi vắt, máy vắt, âm thanh, v.v sẽ có tác
dụng tốt đối với việc gây phản xạ tiết sữa. Ngợc lại,
các tác nhân lạ (kể cả đánh đạp bò) sẽ ức chế phản xạ
tiết sữa, làm giảm đáng kể năng suất sữa.
Để vắt sữa đạt hiệu quả cao cần tuân thủ một số
quy định sau đây:
- Phải luôn luôn bảo đảm cho bò trong trạng
thái dễ chịu, không gây ra những biến động bất
thờng.
- Kích thích lên bầu vú phải nhẹ nhàng (nên
dùng khăn lau thấm ớt với nớc ấm hoặc xoa bóp nhẹ
nhàng lên bầu vú), thời gian kích thích trong khoảng 1
phút.

123
- Việc vắt sữa cần luôn đợc tiến hành chỉ do
cùng một ngời, vào thời gian nhất định và theo cùng
một trình tự vắt sữa (nếu nh có nhiều bò).
Tốc độ vắt sữa bảo đảm vừa phải, không nên
quá nhanh hay quá chậm. Tốc độ vắt phải phù hợp với
tần số co bóp của cơ trơn bể sữa (thông thờng là 80-
120 lần/phút) và đảm bảo thời gian vắt sữa chỉ kéo dài
5-6 phút (trong khoảng thời gian phản xạ thải sữa còn
duy trì).
6. Chu kỳ sữa

Khác với các tuyến khác trong cơ thể, chức năng
tiết sữa của tuyến vú không liên tục mà mang tính giai
đoạn. Sau khi đẻ tuyến sữa bắt đầu tiết và tiết liên tục
cho đến khi cạn sữa. Giai đoạn tiết sữa nh vậy gọi là
chu kỳ tiết sữa. Tiếp sau đó, tuyến sữa ngừng hoạt
động trong một thời gian ngắn để chuẩn bị cho chu kỳ
tiếp theo. Thời gian ngừng tiết sữa cho đến lứa đẻ sau
là giai đoạn cạn sữa. Những bò cái đợc nuôi dỡng
tốt trong giai đoạn vắt sữa thì chu kỳ tiết sữa kéo dài
đến 300 ngày hoặc hơn và giai đoạn cạn sữa là 45-60
ngày.
Trong mỗi một chu kỳ cho sữa, lợng sữa thu
đợc trong một ngày đêm có khác nhau. Sự biến đổi
năng suất sữa hàng ngày trong chu kỳ tiết sữa phụ
thuộc vào cá thể cũng nh điều kiện chăm sóc và nuôi

124
dỡng. Nhìn chung, sau khi đẻ lợng sữa trong một
ngày đêm tăng lên và đạt cao nhất ở tháng thứ 2 hoặc
thứ 3, sau đó dần dần giảm xuống (hình 5-7). Chính
xác hơn là năng suất sữa đạt cực đại vào cuối khoảng
1/5 đầu tiên của chu kỳ tiết sữa. Khi có thai lợng sữa
giảm nhanh, đặc biệt từ tháng có thai thứ 5 trở đi.
Bò thờng cho năng suất sữa lớn nhất vào chu
kỳ tiết sữa thứ 3. Bò đẻ lứa thứ nhất chỉ cho năng suất
sữa bằng khoảng 75% năng suất sữa của bò cái trởng
thành. Lứa thứ 2 có năng suất sữa bằng khoảng 85%
năng suất suất sữa của chu kỳ thứ 3.




Thu nhận thức ăn
ì
30
36
Thể trọng bò
Năn
g
suất sữa
Đẻ thời
g
ian
Cạn sữa







Hình 5-7: Diễn biến năng suất sữa, lợng thu nhận thức ăn và
thể trọng của bò trong chu kỳ vắt sữa

125
II. Kỹ thuật vắt sữa
Ngời ta có thể tiến hành vắt sữa bằng máy
hoặc vắt sữa bằng tay (vắt sữa thủ công). Đối với chăn
nuôi nông hộ ở nớc ta hiện nay, do quy mô chăn nuôi
còn nhỏ và do trình độ vật t, kỹ thuật còn thiếu thốn,
nên chủ yếu vẫn sử dụng phơng pháp vắt sữa thủ

công. Chính vì thế, trong tài liệu này chúng tôi trình
bày kỹ về phơng pháp vắt sữa thủ công.
1. Số lần vắt sữa trong ngày
Số lần vắt sữa hàng ngày phụ thuộc trớc hết
vào năng suất sữa của bò. Nếu bò có năng suất cao,
tốc độ hình thành sữa lớn, bầu vú chóng đầy sữa, khi
đó nếu không vắt sữa kịp thời, bầu không đợc giải
phóng thì quá trình tạo sữa sẽ bị ức chế. Chính vì thế
ngời ta đề nghị số lần vắt sữa phụ thuộc vào năng
suất sữa hàng ngày của bò. Tuy nhiên, việc quyết định
số lần vắt sữa trong ngày cũng cần phải tính toán đến
khả năng tổ chức lao động, bố trí quy trình sản xuất và
hạch toán giá thành sản xuất sữa. Thông thờng, bò
đợc vắt sữa 2 lần/ngày.
2. Các công việc chuẩn bị để vắt sữa
a. Dọn vệ sinh chuồng trại
Nếu tiến hành vắt sữa tại chuồng nuôi thì trớc
khi vắt sữa bắt buộc phải dọn vệ sinh chuồng cẩn thận:

126
đa ra khỏi máng phần thức ăn d thừa; dọn phân trên
nền chuồng và dội rửa nền chuồng bằng nớc.
Trong khi làm vệ sinh chuồng cần tránh gây
tung bụi bẩn (phải vẩy nớc và quét nhẹ nhàng). Bụi
bẩn chứa nhiều vi sinh vật: 1g bụi có thể mang theo tới
10.000.000 vi sinh vật.
Cũng có thể tiến hành vắt sữa ở một nơi khác,
nh phần phụ của chuồng hay ngoài sân chẳng hạn.
Nhng nên nhớ rằng bò sữa là gia súc có thói quen, vì
vậy cần phải tránh thay đổi địa điểm vắt sữa.

b. Chuẩn bị dụng cụ vắt sữa:
Thông thờng cần có các dụng cụ sau đây:
+ 1 chiếc xô bằng nhôm để vắt sữa
+ 1 bình chứa sữa sau khi vắt và để vận chuyển
+ 1 phễu lọc sữa cùng với vải màn để lọc
+ 1 dây thừng để buộc chân bò khi cần
+ 1 cốc đựng thuốc sát trùng núm vú
+ 1 xô đựng nớc vệ sinh bầu vú
+ vải xô vệ sinh và lau khô vú bò
Không nên dùng các dụng cụ vắt sữa bằng chất
dẻo hoặc tôn vì dễ han rỉ, làm vệ sinh khó khăn, ảnh
hởng đến chất lợng sữa. Tốt nhất nên dùng các dụng
cụ vắt sữa bằng nhôm.
Các dụng cụ này nên có đáy vát tròn, có vậy
mới dễ làm vệ sinh và tránh cặn bẩn bám vào các kẽ

127
quanh đáy. Xô vắt sữa chỉ đợc sử dụng để vắt sữa.
Không bao giờ đợc dùng vào việc khác.
Tất cả các dụng cụ để vắt sữa và vận chuyển sữa
phải đợc cọ rửa cẩn thận. Tốt nhất là dùng nớc nóng
và xà phòng để làm vệ sinh các dụng cụ này.
Chú ý: không dùng xà phòng thơm để rửa dụng
cụ vì sữa sẽ bị ám mùi. Sau khi cọ rửa, gác các dụng
cụ lên giá gỗ trong bóng râm cho rỏ hết nớc và khô
hoàn toàn mới đem sử dụng.
c. Vệ sinh ngời vắt sữa
Việc vắt sữa tốt nhất là luôn luôn do một ngời
tiến hành. Ngời vắt sữa làm việc phải nhẹ nhàng,
bình tĩnh, có hiểu biết về bò sữa và yêu mến bò. Ngời

vắt sữa phải là ngời không mắc bất kỳ một bệnh
truyền nhiễm nào. Móng tay thờng xuyên đợc cắt
ngắn.
Ngời vắt sữa nên dùng bộ quần áo lao động và
luôn luôn bảo đảm sạch sẽ. Trớc khi vắt sữa, ngời
vắt sữa phải rửa tay với xà phòng, kỳ chải móng tay và
sau đó lau khô cẩn thận bằng khăn lau sạch.
d. Vệ sinh thân thể bò sữa và bầu vú
Trong trờng hợp bò cái bẩn quá, cần tắm rửa
trớc khi vắt sữa: Dùng vòi phun nớc, phun rửa hai
bên sờn, chân sau và bụng.
Nếu bò không bẩn lắm thì không cần tắm nh
nêu trên mà chỉ cần dùng một khăn mềm nhúng vào

128
nớc ấm 40-42
o
C và lau rửa bầu vú, sau đó lau khô nhẹ
nhàng (trờng hợp vắt sữa bằng máy thì chỉ cần dùng
khăn lau rửa núm vú). Có thể nhúng khăn vào dung
dịch sát trùng nhẹ nh dung dịch iốt 1-2%.
Việc lau rửa bằng nớc ấm và lau khô bầu vú
nhẹ nhàng sẽ kích thích tiết oxytoxin, mặt khác tránh
gây thơng tổn lên da bầu vú cũng nh nhiễm bẩn sữa
lúc vắt.
Một số bò cái có thói quen cho vắt sữa chỉ khi
có mặt bê con tại đó, hoặc phải đợc bê con bú thúc
lúc ban đầu. Cần phải bỏ thói quen này bằng cách vắt
sữa ngay từ những ngày đầu sau khi đẻ, không có sự
hiện diện của bê và cho bê ăn sữa trong một chiếc xô.

Cần bỏ thói quen này vì:
+ Tránh phiền phức là phải có mặt bê con mới
vắt đợc sữa.
+ Nếu bò con đã bú thúc ta không xác định
đợc chính xác năng suất sữa của bò cái và không thể
lên khẩu phần ăn hợp lý đợc.
+ Bò cái cho bê bú sữa sẽ chậm động dục trở
lại.
+ Môi, miệng, đầu bê con có thể bẩn và sẽ làm
bẩn núm vú, bầu vú và làm vấy bẩn sữa.

129
+ Có thể bê con có răng dài không đều và khi
mải mê bú sẽ làm tổn thơng núm vú và gây ra viêm
vú.
f. Xoa bóp bầu vú
Trớc khí vắt dùng hai lòng bàn tay xoa bầu vú từ
trên xuống dới, từ ngoài ép vào trong, xoa hai bên,
xoa đằng trớc, đằng sau rồi xoa từng núm vú. Mỗi
tay cầm hai đầu vú nâng lên kéo xuống nh động tác
thúc vú của bê.
Động tác xoa bóp yêu cầu phải nhanh, trong vòng
1-2 phút để vắt sữa đợc kịp thời trong thời gian phản
xạ thải sữa còn tồn tại. Khi thấy bầu vú và núm vú
căng đỏ thì phải nhanh chóng vắt ngay.
4. Thao tác vắt sữa
Sau khi làm các thao tác chuẩn bị nh đã nêu
trên và sau khi rửa và xoa bóp kích thích bầu vú cần
vắt một vài giọt sữa từ mỗi núm vú vào các ca hoặc
tách đáy đen để kiểm tra xem sữa có váng lợn cợn

không hay sữa bình thờng.
Những tia sữa đầu tiên chứa nhiều vi khuẩn và
phải vắt bỏ đi, không vắt lẫn vào xô. Sau đó tiến hành
vắt sữa.
Vị trí ngồi vắt có thể là bên trái hay bên phải
bò, tùy theo ngời vắt thuận tay trái hay tay phải. Việc
vắt sữa cần tiến hành nhanh. Ngời vắt sữa cần sử

130
dụng hai tay, nghĩa là vắt cả hai núm vú cùng một lúc.
Ngời ta khuyên là nên vắt sữa theo đờng chéo: bắt
đầu là các núm vú trớc trái-sau phải, và sau đó vắt
đến các núm vú trớc phải-sau trái (hình 5-8).


Hình 5-8: Vắt sữa chéo núm vú
Có hai cách vắt sữa bằng tay: vắt nắm và vắt vuốt.
Bên cạnh đó còn có cách vắt kiệt bầu vú cuối mỗi lần
vắt sữa.
- Vắt nắm
Có hai cách vắt nắm là vắt nắm cho ngón tay
cái ra ngoài và vắt nắm cho ngón tay cái vào trong.
+ Vắt nắm cho ngón tay cái ra ngoài (hình 5-
9) chủ yếu là dùng cả lòng bàn tay và năm ngón tay ép
sữa ra. Đầu tiên dùng ngón tay trái và ngón tay trỏ xiết
chặt phần phía trên (gốc) núm vú để sữa không ngợc
lên bể bầu vú. Sau đó các ngón tay lần lợt từ trên
xuống dới ép vào núm vú làm sữa tia ra. Mỗi tay cầm
một đầu vú, cứ nh vậy bóp với tần số 80-120


131
lần/phút. Nếu bóp nhanh quá sẽ chóng mỏi tay, còn
nếu bóp chậm quá sẽ kéo dài thờì gian vắt sữa, có khi
vắt không hết sữa khi phản xạ thải sữa đã hết.










Hình 5-9: Trình tự thao tác vắt nắm cho ngón tay
cái ra ngoài
Phơng pháp vắt nắm này không làm bò bị đau,
không kéo dài núm vú, bò thoải mái nhất, nhng làm
ngời rất bị mệt vì một lần bóp phải dùng sức bóp lớn.
Núm vú dài 6-8cm là có thể vắt bằng phơng pháp này
rất thuận lợi.
+ Vắt nắm cho ngón tay cái vào trong (hình
5-10) đợc công nhân vắt sữa lành nghề hay áp dụng

132
vì nó đảm bảo năng suất cao và vắt đợc kiệt sữa trong
bầu vú nhờ có lực mạnh hơn, sữa ra nhanh hơn.


Hình 5-10: Vắt nắm cho ngón tay cái vào trong

- Vắt vuốt
Theo phơng pháp này, dùng hai ngón tay cái
và trỏ kẹp chặt từ trên rồi vuốt xuống để sữa tia ra
(hình 5-11).
Vắt vuốt chỉ thờng đợc áp dụng đối với
những con bò có núm vú ngắn hoặc trong trờng hợp
cần vắt sữa còn lại trong giai đoạn cuối. Khi vắt nắm
quá mỏi có thể vắt vuốt nhng hạn chế.



133

Hình 5-11: Trình tự vắt vuốt
So với vắt nắm, phơng pháp này có thể vắt
đợc chậm hơn, núm vú bị kéo dài, vuốt mạnh có thể
gây tổn thơng núm vú, bò bị đau, nhất là đối với bò
sữa năng suất cao, dễ gây viêm vú. Khi vắt bằng
phơng pháp này tuyệt đối tránh cong ngón cái tì vào
núm vú.
- Vắt kiệt bầu vú
Dù sử dụng phơng pháp vắt sữa nào thì cuối
cùng cũng cần phải vắt kiệt bầu vú. Vắt kiệt bầu vú
nhằm tránh đợc sữa sót trong bầu vú, gây viêm
nhiễm và ức chế sự tạo sữa cho lần vắt sau.




Hình 5-12: Thao tác vắt kiệt bầu vú


134
Phơng pháp làm kiệt nh sau: Khi những tia
sữa cuối cùng rất nhỏ và yếu ta dừng lại và dùng cả
hai tay xoa lên bầu vú theo chiều từ trên xuống để
kích thích lần nữa. Tay trái giữ phía trên bầu vú còn
tay phải vắt nốt lợng sữa cuối cùng trong núm vú ra
(hình 5-12).
5. Vệ sinh núm vú sau khi vắt sữa
Sau khi vắt sữa các lỗ đầu vú bị giãn rộng nên vi
trùng dễ xâm nhập gây viêm vú (hình 5-13). Do vậy
sau khi vắt sữa cần sát trùng núm vú bằng các dung
dịch sát trùng.






Hình 5-13: Nguyên nhân và hậu quả viêm vú
Để sát trùng núm vú, sau khi đã vắt kiệt bầu vú,
nhúng ngập 3/4 núm vú vào dung dịch iốt 1-2% hay
dung dịch Iodamam (dung dịch này có độ bám dính
tốt, tạo thành màng bịt lỗ mở núm vú và xung quanh
núm vú để chống nhiễm khuẩn).

135








Hình 5-14: Sát trùng núm vú sau khi vắt
Sau khi vắt sữa nên cho bò ăn ngay để nó không
nằm xuống, giảm nguy cơ viêm vú (vì sau 40-60 phút
lỗ núm vú mới đóng lại).
ii. cạn sữa
1. Mục đích cạn sữa
Trớc khi đẻ bò cần có một thời gian nghỉ
không vắt sữa, gọi là thời kỳ cạn sữa. Mục đích của nó
là để cho tuyến sữa và cơ thể đợc nghỉ ngơi và hồi
phục. Cạn sữa tạo điều kiện cho cơ thể tích luỹ chất
dinh dỡng chuẩn bị cho chu kỳ tiết sữa sau và đặc
biệt là để hình thành sữa đầu đợc tốt. Mặt khác cạn
sữa còn nhằm mục đích tập trung dinh dỡng cho sự
phát triển của bào thai vì ở giai đoạn này tốc độ phát
triển của thai rất nhanh.


136
2. Thời gian cạn sữa
Trong điều kiện thức ăn dinh dỡng bình
thờng, bò có năng suất sữa không cao lắm thì thời
gian cạn sữa khoảng 2 tháng là vừa. Đối với bò đẻ lứa
1 và bò cao sản có thể kéo dài thời gian cạn sữa hơn
một chút. Nếu thời gian cạn sữa quá ngắn thì trọng
lợng sơ sinh của bê sẽ nhỏ, tuyến sữa cha đợc phục
hồi và cơ thể cha đợc tích luỹ thoả đáng, sữa đầu

kém chất lợng nên ảnh hởng xấu đến tỷ lệ mắc bệnh
của bê và năng suất sữa của kỳ tiếp theo. Tuy nhiên
thời gian cạn sữa quá dài cũng không tốt về cả mặt
kinh tế và kỹ thuật.
3. Phơng pháp cạn sữa
Khi cạn sữa phải căn cứ vào đặc điểm của con
vật, đặc biệt là năng suất sữa trớc lúc cạn sữa để có
phơng pháp tác động thích hợp. Bò phải đợc cạn sữa
triệt để, không bị viêm vú và ảnh hởng xấu đến các
hoạt động các chức năng khác.
Nguyên tắc cơ bản của việc cạn sữa là làm
ngừng quá trình tạo sữa thông qua việc vi phạm các
phản xạ về tiết sữa và hạn chế nguồn nguyên liệu tạo
sữa (nếu cần), có nghĩa là thay đổi (giảm) số lần vắt,
thời gian vắt, thay đổi cách vắt và địa điểm vắt vv
Nếu nh cảm thấy những biện pháp đó cha có hiệu
quả thì rút bớt mức nuôi dỡng, khi cần thiết loại ra

137

×