Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Nền kinh tế triều Lý trong lịch sử phong kiến Việt Nam (1009-1225)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.53 KB, 4 trang )

QUẢN LÝ KINH TẾ

NỀN KINH TẾ TRIỀU LÝ TRONG LỊCH SỬ PHONG KIẾN
VIỆT NAM (1009 - 1225)
Phạm Thị Kim Oanh*

ABSTRACT
The Lý Dynasty, also known as the House of Lý, was a prosperous dynasty in the Vietnamese
monarchy. The name of the country was changed into Dai Viet and lasted for 216 years. Entering the
feudal period and building the statism, the Lý Dynasty had full power to stabilize politics and develop
economy. The economy of Dai Viet under the Lý Dynasty reflected issues related to economic activities
during the Lý Dynasty (1009 - 1225) in Vietnamese history, including agriculture, handicrafts, trade,
and monetary. With the economic development strategy based on agriculture, Dai Viet has created a
secure position, prosperous people’s life, ushered in the brilliant Dai Viet era in Vietnamese history.
Keywords: Economy, agriculture, handicrafts, trade.
Received: 16/10/2021; Accepted: 02/11/2021; Published: 12/12/2021

1. Đặt vấn đề
Nhà Lý là một triều đại thịnh trị trong nền quân
chủ Việt Nam, quốc hiệu Đại Việt và tồn tại 216
năm. Bước vào thời kỳ phong kiến, với việc xây
dựng chế độ trung ương tập quyền, nhà Lý đã có
đủ sức mạnh để ổn định chính trị, phát triển kinh
tế. Nền kinh tế Đại Việt thời Lý phản ánh những
vấn đề liên quan đến hoạt động kinh tế vào thời
nhà Lý (1009-1225) trong lịch sử Việt Nam, bao
gồm nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương mại
và tiền tệ. Với chiến lược phát triển kinh tế lấy
nơng nghiệp làm cơ bản, Đại Việt nói chung, triều
Lý nói riêng đã tạo được thế đứng vững chắc, đời
sống nhân dân ấm no, mở ra kỷ nguyên Đại Việt


phát triển rực rỡ trong lịch sử Việt Nam.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Về nông nghiệp
Dưới triều Lý, trên danh nghĩa, toàn bộ đất đai
thuộc về nhà vua, nhưng thực tế, triều đình trực
tiếp quản lý một bộ phận ruộng đất, đại bộ phận
còn lại là ruộng đất các làng xã, bao gồm: ruộng
đất công, ruộng đất nhà chùa và ruộng tư.
a) Ruộng đất công của làng xã
Ruộng đất công trong làng xã là bộ phận quan
trọng nhất trong trong số ruộng sở hữu của nhà
* TS Học viện Báo chí và Tuyên truyền

nước. Chế độ phong cấp ruộng đất đã được thực
hiện với các tên: thực ấp, thực phong, thang mộc
ấp, thác thao điền, thái ấp. Đối tượng được phong
cấp là một số người trong hàng ngũ quan lại, quí
tộc, quan chức và người có cơng.
Ruộng quốc khố (quan điền) là một trong hai
loại ruộng công trực tiếp do Nhà nước quản lý,
canh tác bằng trâu cày, nông cụ của Nhà nước, với
các lực lượng sản xuất là các tù khổ sai, nơ tì (gọi
là cảo điền nhi, cảo điền hồnh) và các tù binh (chủ
yếu là tù binh Chăm) cày cấy, hoa lợi sung vào kho
của vua để chi dùng cho hồng cung. Đồn điền
nhà Lý có ở Cảo Xã, phía bắc kinh thành Thăng
Long (nay là vùng Xuân Đỉnh, Nhật Tân). Vì vậy,
tơ thuế ruộng quốc khố thường vào loại cao nhất,
là bộ phận ruộng cơng được duy trì lâu dài.
Đồn điền là ruộng có được từ việc tổ chức khai

hoang ven sông, ven biển thuộc đồng bằng sông
Hồng,  sông Mã,  sông Lam. Lực lượng lao động
chủ yếu là tù binh chiến tranh.
Tịch điền là loại ruộng nghi lễ mà hoa lợi chủ
yếu dùng vào việc cúng tế lớn của Nhà nước trung
ương. Nghi lễ nhà Vua “cày tịch điền” phổ biến
dưới triều Lý, có tác dụng khuyến khích lao động
nơng nghiệp trong buổi đầu xây dựng chế độ
phong kiến dân tộc. Diện tích ruộng tịch điền nói
chung khơng rộng và khơng nhất thiết phải cố định

TẠP CHÍ QUẢN LÝ VÀ CƠNG NGHỆ - Số 19 Quý 4/2021

31


QUẢN LÝ KINH TẾ
ở một nơi. Tịch điền thời Lý có ở Bố Hải Khẩu
(Thái Bình), Ứng Phong (Nam Định) và Lý Nhân
(Hà Nam).
Ruộng sơn lăng là loại ruộng dùng vào việc
thờ phụng tổ tiên dòng họ nhà vua. Sơn lăng so với
tịch điền thì diện tích cịn nhỏ hơn, vì đây chỉ là
ruộng đất lăng tẩm của các vua, chuyên lấy hoa lợi
vào việc bảo vệ và sửa chữa các lăng. Thời Lý, nhà
nước có một ít ruộng sơn lăng ở Đình Bảng (Hà
Bắc), thời Trần có ở  Thái Đường (Thái Bình)...
Khác với tịch điền, ruộng sơn lăng khơng mất
đi mà được bảo lưu dưới hình thức ruộng tế hay
ruộng cơng, do làng xã quản lý. Ruộng sơn lăng

thường được chọn đặt ở quê hương nhà vua.
Ruộng công làng xã là ruộng giao cho các làng
xã quản lý, do những người lính nhàn thời bình về
cày cấy (theo chính sách “ngụ binh ư nông”). Hoa
lợi thu được từ ruộng này để nuôi quân.
Thác thao điền là đất thuộc ruộng phong, là
ruộng ném dao, xuất phát từ điển tích cấp ruộng
của vua LýThái Tông cho đô thống thượng tướng
quân Lê Phụng Hiểu. Đây là một loại ruộng phong
cấp thuộc sở hữu của nhà nước, bởi vì vua chỉ lấy
đất cơng ban cho. Đất này được truyền đời kế tiếp
nhưng cũng chỉ trong một triều đại mà thôi, là
ruộng đất thế nghiệp chứ không phải là ruộng đất
tư hữu, được miễn tô thuế. Chế độ ban  thực ấp,
thực phong chỉ có ở thời nhà Lý.
b) Ruộng đất tư nhân
Chế độ sở hữu ruộng tư thời Lý khá phổ biến,
Ruộng đất thuộc sở hữu của Nhà vua trong thực tế
giao cho các công xã nông thôn quản lý, các thành
viên chia nhau cày cấy và làm nghĩa vụ tơ thuế
khơng cịn phù hợp nữa, do nhu cầu phải nâng cao
hiệu suất nông nghiệp, do phương thức tổ chức
quản lý canh tác, do phân hoá xã hội...dẫn đến sự
giải thể của các công xã nông thôn và đi liền với
nó là sự xuất hiện của sở hữu tư nhân, ghi dấu một
bước phát triển của xã hội.
Nhà nước Lý tạo điều kiện để sở hữu tư nhân
về ruộng đất phát triển bằng nhiều cách: cho phép
mua bán, chuộc theo luật lệ, bán ruộng công cho
dân, cho phép vương hầu, q tộc, phị mã lập điền

trang... Với chính sách này, người nông dân là chủ
nhân phần ruộng đất của mình (ruộng tư). Nhưng

32

nó cũng dẫn đến những  phân hố xã hội  làm
một bộ phận nông dân biến thành nô tì và sự thu
hẹp  của ruộng đất cơng do làng xã quản lý, chỗ
dựa của nhà nước quân chủ trung ương tập quyền.
Một trong những hình thức sở hữu trong ruộng đất
tư nhân là điền trang. Người được phép lập điền
trang là vương hầu hoặc tôn thất, tiến hành khai
hoang bằng lực lượng nơ tì, khẩn hoang ở cả miền
biển lẫn miền sơng. Ngồi ra, pháp luật cho phép
các tầng lớp trong xã hội mua bán ruộng đất. Để
ngăn chặn sự lấn chiếm của các nhà giàu có quyền
thế, năm 1143 và 1015,vua Lý Anh Tơng xuống
chiếu nói về việc giải quyết các tranh chấp về vấn
đề ruộng đất, quy định cấm các nhà quyền thế
được ngăn cấm người nghèo ngoài phạm vi ruộng
ao của mình, làm trái thì có tội.
c) Ruộng đất nhà chùa hay còn gọi là ruộng
tam bảo
Thời Lý, Phật giáo là tôn giáo phát triển thịnh
hành và trở thành quốc giáo, vì vậy, các nhà chùa
thường có trong tay một số lượng ruộng đất để sử
dụng hoa lợi phục vụ cuộc sống của các nhà sư
cũng như tiến hành các nghi thức tôn giáo. Ruộng
nhà chùa chiếm số lượng khá lớn, được hình thành
từ nhiều nguồn: được vua ban cấp, trích từ ruộng

cơng của làng xã góp vào, do tư nhân cúng tiến,
hoặc nhà chùa tậu ruộng từ nguồn tiền bạc quyên
góp được. Ruộng nhà chùa là một loại ruộng rất
đa dạng, thuộc nhiều hình thái sở hữu và quan hệ
sản xuất trong thiết chế kinh tế xã hội phong kiến,
đánh dấu sự hưng thịnh của Phật giáo và có tác
dụng duy trì các chùa ở làng xã Đại Việt.
Nhà Lý áp dụng chính sách “ngụ binh ư nơng”,
cho binh lính thay nhau về làm ruộng, có tác dụng
phát triển sản xuất nông nghiệp, sức lao động
không bị thiếu, binh sĩ được quyền thay nhau nghỉ
1 tháng 1 lần về cày ruộng tự cấp. Ngồi ra, nhà
Lý cịn chú trọng việc trị thủy, đắp đê, nhất là vùng
châu thổ sông Hồng. Năm 1077 và 1103, Lý Nhân
Tông ra lệnh đắp đê sông Như Nguyệt dài 67.380
bộ. Năm 1108, triều đình tổ chức đắp đê Cư Xá
(sơng Hồng) từ Yên Phụ đến Lương Yên. Ngoài
Thăng Long, đê điều cũng được tu tạo. Các cơng
trình thủy lợi tiêu biểu thời Lý là việc đào sơng
Đản Nãi (Thanh Hóa) năm 1029, đào kênh Lãm

TẠP CHÍ QUẢN LÝ VÀ CƠNG NGHỆ - Số 19 Quý 4/2021


QUẢN LÝ KINH TẾ
(Ninh Bình) năm 1051, khơi sâu sơng Lãnh Kinh
năm 1089 và sông Tô Lịch năm 1192. Nhờ sự quan
tâm phát triển nông nghiệp và làm thủy lợi của nhà
Lý, nước Đại Việt có thế đứng và phát triển khá
vững chắc, đời sống nhân dân tương đối ổn định.

Sử sách ghi nhận những năm được mùa lớn như:
1016, 1030, 1044, 1079, 1092, 1111, 1120, 1123,
1131, 1139, 1140.
2.2. Về thủ công nghiệp
Thủ công nghiệp thời Lý là bộ phận kết hợp với
nông nghiệp trong nền kinh tế phong kiến, được
làm trong các hộ gia đình, chủ yếu đáp ứng nhu
cầu của sản xuất tiểu nông. Thủ công nghiệp thời
Lý gồm hai bộ phận, thủ công nghiệp Nhà nước và
thủ công nghiệp nhân dân.
a) Thủ công nghiệp Nhà nước
Những người thợ thủ cơng lao động cho triều
đình gọi là thợ bách tác. Sản phẩm họ làm ra để
phục vụ hoàng cung. Họ thực hiện việc đúc tiền,
chế tạo binh khí, chiến thuyền và các đồ tơ lụa,
quần áo cho vua quan. Nguồn gốc thợ bách tác
chủ yếu từ các tù binh, nhiều nhất là người Chiêm
Thành, các tội nhân và các thợ thủ công được trưng
tập về làm cho các quan xưởng.
Năm 1040, vua Lý “đã dạy cung nữ dệt được
gấm vóc”, dùng thay cho gấm Tống. Triều đình đã
trưng tập các thợ khéo tay về làm trong các quan
xưởng, gọi là thợ bách tác. Bên cạnh đó, triều đình
cũng đứng ra phát tiền mua nguyên vật liệu, thuê
thợ trong các việc tô tượng, đúc chuông, xây dựng
chùa chiền.
b) Thủ công nghiệp nhân dân
Người dân làm đồ thủ công nhằm phục vụ đời
sống thường nhật hoặc để bán ở chợ theo nhu cầu
thị trường. Họ là những người nông dân kiêm thợ

thủ công hoặc thợ thủ công kiêm thương nhân.
Thợ thủ công dân gian chuyên sản xuất và buôn
bán trong các phường, phố ở kinh thành và các
làng xã thôn quê, các ngành nghề tiêu biểu
Nghề dệt: Dệt là nghề thủ cơng truyền thống
phổ biến trong nhân dân, có nguồn thu rất lớn,
nhất là dệt tơ lụa. Ở kinh thành, nghề dệt có ở các
phường Nhược Cơng (Thành Cơng, với sự tích
nàng La), thơn Nghi Tàm (bà tổ nghề là cơng chúa
Quỳnh Hoa, con vua Lý Thái Tơng), thơn Trích

Sài (sự tích nàng Phan Thị Ngọc Đơ). Do xây
dựng nhiều chùa chiền, các nghề mộc, nề, khắc
chạm, sơn thếp cũng được đẩy mạnh.
Nghề đất nung và gốm sứ: Gốm là ngành nghề
thủ công rất phổ biến, với nhiều loại hạng như đất
nung, sành, sứ; có loại được tráng men ngọc nổi
tiếng, màu xanh nhạt. Gốm đàn gồm các sản phẩm
thạp, thố, chậu, bát, đĩa,… có xương rắn chắc, lớp
men màu xanh mát, trong bóng như thủy tinh.
Gạch, ngói được sản xuất với số lượng lớn để phục
vụ cho việc xây thành qch và chùa chiền, bảo
tháp. Gạch thời Lý có kích thước lớn, nhiều hình
dạng phong phú. Hoa văn chủ yếu lá rồng, tượng
Phật, hoa sen, hoa cúc.
Nghề khai thác vàng và đúc đồng: Khai thác
vàng cũng khá phát triển. Hình thức khai thác chủ
yếu là đãi vàng lộ thiên, nhất là ở vùng biên giới
với Trung Quốc. Tại đây có nhiều người Tống
sang làm thuê việc đãi vàng. Nghề đúc đồng nổi

tiếng với những tác phẩm lớn mang tính chất Phật
giáo (An Nam tứ khí). Tương truyền có vị tổ nghề
được tôn vinh là nhà sư Nguyễn Minh Không.
Đồng được sử dụng khá rộng rãi, hiện vật phong
phú như tượng, chng, tiền, vũ khí và làm đồ
dùng sinh hoạt. Theo ghi chép trong Việt sử lược,
triều đình đã tổ chức việc khai thác mỏ đồng ở
Lạng châu năm 1198. Một số ngành nghề khác,
bao gồm in khắc gỗ, xây dựng, làm bia đá, nghề
mộc, làm đồ mỹ nghệ, điêu khắc.
2.3. Về thương nghiệp
Nội thương và ngoại thương thời Lý khá phát
triển, các vua Lý đều cho đúc tiền đồng để lưu
thơng rộng rãi, có dùng thêm cả tiền đồng Trung
Quốc thời Đường - Tống. Mạng lưới chợ có mặt ở
cả làng xã và phố phường. Các địa phương trong
nước, kể cả các vùng biên giới, cũng có trao đổi
hàng hóa với nhau. Lúc này, Thăng Long trở thành
trung tâm kinh tế của cả nước, với các chợ nổi tiếng
như chợ Hoàng Hoa (Ngọc Hà), chợ Bạch Mã
(Hàng Buồm)…Ngoại thương thời Lý khá phồn
thịnh và tự do. Đại Việt buôn bán với Champa,
mua đặc sản trầm hương. Các chợ biên giới ViệtTrung nhộn nhịp qua các “bạc dịch trường’’ Hoành
Sơn và Vĩnh Bình. Đặc biệt, bn bán đường biển
với Trung Quốc và các nước Đơng Nam Á (ngày

TẠP CHÍ QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ - Số 19 Quý 4/2021

33



QUẢN LÝ KINH TẾ
nay là Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia) rất tấp nập
ở đảo Vân Đồn (vùng đảo Vân Hải ngoài vịnh Bắc
Bộ, lúc đó gọi là trang Vân Đồn) và vùng bờ biển
Diễn Châu (Nghệ An). Các đối tác chủ yếu của Đại
Việt là Trung Quốc, Chiêm Thành, Trảo Oa (đảo
Java), Lộ Lạc (vương quốc Lavo, Xiêm La), quốc
gia vùng Mê Nam và Tam Phật Tề (Srivijaya  ở
đảo Sumatra). Tại vùng biên giới, những người
dân tộc thiểu số cũng qua lại buôn bán với nhau.
Cảng Vân Đồn  có vị trí rất quan trọng cho hoạt
động ngoại thương, nằm trên trục hàng hải từ
Trung Quốc xuống các nước Đơng Nam Á. Ngồi
Vân Đồn, vùng biển Diễn châu cũng là nơi có hoạt
động ngoại thương phát triển.
Hàng hóa xuất khẩu của  Đại Việt  chủ yếu là
thổ sản; hàng nhập khẩu bao gồm giấy, bút, tơ, vải,
gấm. Các thương nhân Đại Việt thường mua trầm
hương của Chiêm Thành để bán lại cho thương
nhân người Tống. Hoạt động buôn bán trong nước
được tạo điều kiện khá thuận lợi. Tuy nhiên, đối
với ngoại thương, để bảo vệ an ninh quốc gia, nhà
Lý chỉ cho phép thương nhân nước ngồi bn bán
ở một số điểm nhất định, chịu sự kiểm soát của
triều đình, chính sách này tương tự như chính sách
của nhà Tống.
Đại Việt sử ký toàn thư cho thấy tiền đã được
sử dụng và phát hành nhiều trong thời Lý Thái Tổ.
Cả lương bổng lẫn tơ thuế đều có thể trả bằng tiền.

Tiền do triều đình nhà Lý đúc ra khơng đáp ứng
đủ nhu cầu lưu thơng hàng hóa. Nhiều đồng tiền
nhà Tống và thậm chí thời Đường vẫn được lưu
hành trong nước. Sách sử Việt Nam khơng nói rõ
quan hệ giữa các đơn vị tiền vào thời kỳ này và
không phản ánh quan hệ giá trị giữa tiền Việt và
tiền Tống lưu hành khi đó. Như vây, sự phát triển
của thủ công nghiệp và thương nghiệp thời Lý
góp phần ổn định đời sống nhân dân, củng cố sức
mạnh của Đại Việt.
2.4. Tiền tệ
Do thương mại phát triển, nhu cầu trao đổi
hàng hóa trong nước tăng cao, nên tiền đã được sử
dụng và phát hành nhiều trong thời Lý, nhất là thời
Vua Lý Thái Tổ. Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại,
cả lương bổng lẫn tơ thuế đều có thể trả bằng tiền.
Nhà Lý đúc tiền bằng hợp kim đồng (giống như

34

tiền lưu hành ở vùng Đơng Nam Trung Quốc khi
đó). Các đồng tiền nhà Lý bao gồm: Thuận Thiên
đại bảo, Minh Đạo thông bảo, Càn Phù nguyên
bảo, Thiên Phù nguyên bảo, Thiên Cảm thông bảo
và Thiên Tư thơng bảo.
Tuy nhiên, tiền do triều đình nhà Lý đúc ra
không đáp ứng đủ nhu cầu lưu thơng hàng hóa.
Nhiều đồng tiền nhà Tống và thậm chí thời Đường
vẫn được lưu hành trong nước.
Với quan điểm trọng nơng ức thương, sách sử

Việt Nam rất ít đề cập đến vấn đề tiền tệ, cũng
khơng nói rõ quan hệ giữa các đơn vị tiền vào thời
kỳ này và không phản ánh quan hệ giá trị giữa tiền
Việt và tiền Tống lưu hành khi đó.
3. Kết luận
Triều Lý là một triều đại hưng thịnh trong lịch
sử chế độ phong kiến Việt Nam. Với chiến lược
phát triển kinh tế đất nước lấy nền tảng là nông
nghiệp, nên trong suốt thời gian tồn tại, các vua Lý
luôn quan tâm đến vấn đề bảo vệ đê điều và phát
triển nông nghiệp. Bên cạnh đó, triều đình quan
tâm phát triển các ngành nghề thủ cơng, vì vậy,
nhà Lý đã tạo được thế đứng vững chắc trong hàng
trăm năm tồn tại, đời sống người dân ấm no, quốc
gia hùng mạnh.
Việc tìm hiểu nền kinh tế dưới thời Lý tương
đối phức tạp, do cịn có nhiều luồng quan điểm
khác nhau, nhưng qua những nội dung đã trình bày
ở trên, phần nào chúng ta có thể định hình được
những nét cơ bản, từ đó, có thể xác định tính chất
và mức độ phát triển của chế độ phong kiến Việt
Nam giai đoạn này.
Tài liệu tham khảo
1. Trần Bá Đệ (2002), Một số chuyên đề Việt
Nam, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội
2. Nguyễn Quang Ngọc (2011), Tiến trình lịch
sử Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội
3. Phan Huy Lê (1960, 1961), Lịch sử chế độ
phong kiến Việt Nam, tập 2,3. NXB Giáo dục, Hà
Nội

4. Trần Quốc Vượng (1960), Lịch sử chế độ
phong kiến, tập 1,  NXB Giáo dục. Hà Nội.
5. Trương Hữu Quýnh (1999), Đại cương Lịch
sử Việt Nam, tập 2, NXB Giáo Dục, Hà Nội.

TẠP CHÍ QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ - Số 19 Quý 4/2021



×