Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Ths CTH đánh giá thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất sản xuất ở tỉnh bắc ninh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.13 KB, 88 trang )

MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ TẠO VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN
BỊ THU HỒI ĐẤT SẢN XUẤT

1.1. Một số vấn đề lý luận về chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho nông
dân bị thu hồi đất sản xuất
1.2. Đánh giá thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho nông dân
bị thu hồi đất sản xuất

8
8
19

Chương 2: ĐÁNH GIÁ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ TẠO
VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT SẢN
XUẤT Ở TỈNH BẮC NINH GIAI ĐOẠN 2010 - 2015. THỰC
TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY

2.1. Những nhân tố tác động đến việc thực hiện chính sách tạo việc
làm cho nông dân bị thu hồi đất sản xuất ở tỉnh Bắc Ninh
2.2. Thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi
đất sản xuất ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2010 - 2015
2.3. Một số đánh giá về thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho
nông dân bị thu hồi đất sản xuất ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay
2.4. Những vấn đề đặt ra hiện nay



30
30
40
46
55

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM ĐẢM BẢO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ TẠO VIỆC
LÀM CHO NÔNG DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT SẢN XUẤT Ở
TỈNH BẮC NINH GIAI ĐOẠN 2016 - 2020

3.1. Dự báo về đất đai bị thu hồi ở tỉnh Bắc Ninh và tác động của nó
đối với vấn đề lao động, việc làm trong thời gian tới
3.2. Quan điểm chủ đạo về thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc làm
cho người dân bị thu hồi đất sản xuất trong thời gian tới
3.3. Những giải pháp chủ yếu nhằm đảm bảo hiệu quả thực hiện
chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất sản
xuất ở tỉnh Bắc Ninh
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

59
59
62

67
82
84



1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lao động, việc làm là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá
sự phát triển kinh tế. Phân tích động thái thay đổi của việc làm cho phép đánh
giá tác động của chuyển đổi kinh tế và đề xuất các chính sách việc làm phù
hợp tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội của một địa phương, một
quốc gia. Giải quyết việc làm cho người lao động là biện pháp trung tâm của
mọi quốc gia, nó cho phép không chỉ giải quyết được các vấn đề kinh tế mà
cả các vấn đề xã hội.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 đã được thơng qua tại Đại hội đại
biểu tồn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định:
Thực hiện tốt các chính sách về lao động, việc làm, tiền lương, thu
nhập nhằm khuyến khích và phát huy cao nhất năng lực của người
lao động. Bảo đảm quan hệ lao động hài hồ, cải thiện mơi trường
và điều kiện lao động. Đẩy mạnh dạy nghề và tạo việc làm. Nâng
cao chất lượng và hiệu quả hoạt động đưa người lao động Việt Nam
đi làm việc ở nước ngoài. Hỗ trợ học nghề và tạo việc làm cho các
đối tượng chính sách, người nghèo, lao động nơng thơn và vùng đơ
thị hố [14, tr.76].
Q trình cơng nghiệp hóa, đơ thị hóa đất nước tất yếu sẽ dẫn đến quá
trình chuyển đổi mục đích sử dụng một phần diện tích đất nơng nghiệp sang
phục vụ q trình phát triển đơ thị và các khu kinh tế, khu - cụm cơng nghiệp.
Vì vậy, có hàng vạn hộ gia đình nơng nghiệp, nơng thơn phải hy sinh những
quyền lợi cơ bản của mình là nhường đất - tư liệu sản xuất quan trọng nhất
của người nơng dân cho các dự án, dẫn đến sẽ có hàng triệu lao động nông


2

nghiệp buộc phải chuyển đổi nghề. Điều đó đã tác động đến toàn bộ hoạt
động kinh tế - xã hội của đối tượng thuộc diện bị thu hồi đất, nhiều nông dân
rơi vào trạng thái bị động và thiếu các điều kiện đảm bảo cuộc sống khi họ bị
mất việc làm, buộc phải chuyển đổi nghề từ sản xuất nông nghiệp sang các
ngành nghề khác. Bên cạnh đó việc thực hiện các dự án phục vụ q trình
cơng nghiệp hóa, đơ thị hóa thời gian qua cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề
như: Diện tích đất nơng nghiệp bị thu hẹp; lao động nông nghiệp mất việc làm
truyền thống và khó chuyển đổi ngành nghề; phương thức đền bù giải phóng
mặt bằng cịn tồn tại nhiều bất cập dẫn đến tình trạng khiếu kiện của người
dân và tiến độ thực hiện dự án kéo dài; ô nhiễm môi trường; tệ nạn xã hội;…
trong đó, vấn đề tạo việc làm để ổn định đời sống cho người lao động sau khi
bị thu hồi đất nông nghiệp nổi lên như một vấn đề vừa mang tính khách quan
của q trình cơng nghiệp hóa, đơ thị hóa, vừa mang tính đặc thù của một
nước nông nghiệp như nước ta hiện nay.
Bắc Ninh là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, thuộc vùng ven Hà
Nội, đất chật, người đông, mật độ dân số rất cao. Quá trình phát triển kinh tế xã hội ở đây đã và đang diễn ra mạnh mẽ gắn liền với yêu cầu phải chuyển
đổi đất nông nghiệp sang mục đích khác như: xây dựng khu cơng nghiệp, cụm
cơng nghiệp làng nghề, trung tâm thương mại - dịch vụ và cơ sở hạ tầng đô
thị, giao thông, trường học, nhà ở... dẫn đến quỹ đất nông nghiệp trên địa
bàn tỉnh ngày càng giảm. Điều đó đã tác động tiêu cực đến công ăn, việc
làm của người lao động và đời sống của các hộ gia đình có đất nơng nghiệp
bị thu hồi. Có nhiều lao động bị mất việc làm hoặc thiếu việc làm, dẫn đến
thu nhập thấp, đời sống hết sức khó khăn, nhiều tệ nạn xã hội nảy sinh,
khiến cho cơng tác giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội ngày
càng gặp nhiều khó khăn, thách thức. Thực tiễn trên đòi hỏi các cấp chính


3
quyền tỉnh Bắc Ninh phải làm tốt vai trò của mình trong hỗ trợ tạo việc làm
cho người dân bị thu hồi đất sản xuất nhằm ổn định và từng bước nâng cao

đời sống của người dân bị thu hồi đất sản xuất, góp phần đưa tỉnh Bắc Ninh
trở thành thành phố trực thuộc Trung ương vào những năm 20 của thế kỉ
XXI theo hướng văn minh hiện đại như Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần
thứ XIX đã xác định.
Do vậy, đánh giá việc thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho
nông dân bị thu hồi đất sản xuất ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay là một địi hỏi cấp
bách. Với lý do đó, đề tài: “Đánh giá thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc
làm cho nông dân bị thu hồi đất sản xuất ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay” có ý
nghĩa thiết thực cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất là một vấn đề được
nhiều nhà khoa học, hoạch định chính sách quan tâm nghiên cứu ở các góc độ
và mức độ khác nhau. Có thể kể ra một số cơng trình sau:
- “Chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam” của Nguyễn Hữu Dũng,
Trần Hữu Trung [8] đã trình bày tổng quát về phương pháp luận và phương
pháp tiếp cận chính sách việc làm, phân tích thực trạng việc làm ở Việt Nam
hiện nay, từ đó đưa ra một số chính sách cụ thể về việc làm trong cơng cuộc
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- “Thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi để xây
dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, các
cơng trình cơng cộng phục vụ lợi ích quốc gia” của Lê Du Phong [24] đã
nghiên cứu các vấn đề lý luận có liên quan, phân tích, đánh giá thực trạng về
thu nhập, đời sống, việc làm của người dân có đất bị thu hồi trong thời gian
qua ở nước ta, đưa ra những quan điểm, giải pháp và kiến nghị nhằm giải


4
quyết việc làm, đảm bảo thu nhập và đời sống của người dân có đất bị thu hồi
trong thời gian tới.
- “Phát triển các khu công nghiệp tập trung trên địa bàn Hà Nội và

vấn đề việc làm cho các lao động có đất bị thu hồi” của Lê Thu Hoa [19] đã
nghiên cứu tác động của phát triển các khu công nghiệp tập trung tại Hà Nôị
đối với việc làm của người dân bị thu hồi đất, phân tích thực trạng giải quyết
việc làm cho người nông dân bị thu hồi đất do phát triển các khu công nghiệp
ở Hà Nội
- “Lao động và việc làm của nông dân bị thu hồi đất sản xuất nông
nghiệp tại huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh” của Nguyễn Phúc Thọ, Trần Tất
Nhật [34] đã nghiên cứu tình hình chuyển đổi mục đích sử dụng đất, tác động
của thu hồi đất sản xuất nông nghiệp đến lao động, việc của nông dân huyện
Yên Phong, Bắc Ninh, đưa ra một số giải pháp giải quyết việc làm nâng cao
thu nhập cho nông dân địa phương này. Cũng ở số tạp chí này, bài viết “Giải
quyết việc làm cho người dân có đất bị thu hồi tại cụm công nghiệp Phú
Ngãi, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây” của Nguyễn Bá Long, Nguyễn Thị
Hảo [20] đã phân tích thực trạng giải quyết việc làm và các yếu tố ảnh hưởng
đến giải quyết việc làm cho người dân bị thu hồi đất tại địa bàn trên.
- “Việc làm trong q trình cơng nghiệp hóa ở Bắc Ninh” của Vũ Bá
Hải [17] đã phân tích, đánh giá thực trạng vấn đề việc làm ở Bắc Ninh từ
1997 - 2007, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp một số biện pháp để sử
dụng hợp lý nguồn lao động trong q trình cơng nghiệp hóa ở tỉnh Bắc Ninh.
- “Việc làm của nơng dân trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa vùng đồng bằng sơng Hồng đến 2010” của Trần Thị Minh Ngọc [23] đã
phân tích thực trạng việc làm của nông dân đồng bằng sông Hồng dưới tác
động của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn 2000-2007, trong đó có vấn


5
đề việc làm của nông dân bị thu hồi đất; đề xuất một số giải pháp tạo việc
làm, tăng thu nhập cho nông dân vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2020,
trong đó có giải pháp tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất.
- “Tác động của đô thị hóa đối với lao động việc làm ở nơng thôn

ngoại thành Hà Nội” của Nguyễn Thị Hải Vân [41] đã tập trung nghiên cứu
cơ sở lý luận và thực tiễn tác động của q trình đơ thị hóa tới lao động, việc
làm nơng thơn nói chung, phân tích và đánh giá thực trạng tác động của đơ thị
hóa tới lao động, việc làm nông thôn ngoại thành Hà Nội và các giải pháp cơ
bản cho vấn đề này.
Các công trình nêu trên với những cách tiếp cận khác nhau nhưng nhìn
chung đều đề cập tới thực trạng việc làm, thu nhập và đời sống của người nông
dân bị thu hồi đất cho cơng nghiệp hóa, đơ thị hóa, đồng thời đề xuất các giải
pháp nhằm giải quyết việc làm cho lực lượng lao động này. Nhưng cho tới nay
chưa có chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách chuyên biệt, đầy đủ, cụ
thể về vấn đề việc làm cho nông dân bị thu hồi đất ở tỉnh Bắc Ninh dưới góc độ
khoa học chính trị. Mặc dù vậy, các cơng trình khoa học trên sẽ là nguồn tài
liệu khoa học quý giá để tác giả tham khảo và tiếp thu trong q trình viết luận
văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho nông dân bị thu
hồi đất sản xuất ở Bắc Ninh hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp
nhằm thực hiện tốt hơn chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi
đất sản xuất ở Bắc Ninh trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về đánh giá chính sách nói chung và đánh giá
thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất sản xuất.


6
- Đánh giá thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho nông dân bị thu
hồi đất sản xuất ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2010 - 2015.
- Đề xuất quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt hơn chính
sách hỗ trợ tạo việc làm cho nơng dân bị thu hồi đất sản xuất ở tỉnh Bắc Ninh

giai đoạn 2016 - 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đánh giá thực hiện chính sách hỗ
trợ tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất sản xuất ở tỉnh Bắc Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận văn chủ yếu tập trung vào vấn đề đánh giá chính
sách hỗ trợ tạo việc làm cho nông dân trong độ tuổi lao động bị thu hồi đất
sản xuất ở tỉnh Bắc Ninh.
- Về thời gian: Từ năm 2010 đến 2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, các quan
điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và những kiến thức của
chính trị học hiện đại về tạo việc làm cho người dân bị thu hồi đất sản xuất.
Ngồi ra, luận văn cịn kế thừa kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa
học liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn sử dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời để thực hiện mục tiêu và nhiệm
vụ nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân
tích - tổng hợp, lôgic - lịch sử, so sánh, thống kê, phỏng vấn chuyên gia… để


7
làm rõ vấn đề lý luận và thực tiễn về tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất
sản xuất ở tỉnh Bắc Ninh.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về chính
sách hỗ trợ tạo việc làm cho nơng dân bị thu hồi đất sản xuất ở địa bàn cấp

tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
- Trên cơ sở đánh giá thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho nơng
dân bị thu hồi đất sản xuất ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2010 - 2015, tác giả chỉ
rõ những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế trong q trình
thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất sản xuất
ở tỉnh Bắc Ninh.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt hơn chính sách hỗ
trợ việc làm cho nông dân bị thu hồi đất sản xuất ở tỉnh Bắc Ninh trong thời
gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương, 9 tiết.


8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ TẠO VIỆC LÀM CHO NƠNG DÂN BỊ
THU HỒI ĐẤT SẢN XUẤT

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ TẠO VIỆC
LÀM CHO NÔNG DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT SẢN XUẤT

1.1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1.1. Khái niệm chính sách cơng
Chính sách cơng là những hoạt động mà chính quyền chọn làm và
khơng làm. Theo cách tiếp cận này thì các hoạt động mà chính quyền làm
hoặc khơng làm phải có tác động, ảnh hưởng lâu dài và sâu sắc đến nhân dân
thì mới là chính sách cơng. Như vậy khơng phải tất cả những việc mà chính
quyền làm hoặc khơng làm đều là chính sách cơng. Ví dụ: chủ trương cho

người lao động nghỉ làm vào các ngày lễ, tết là chính sách cơng vì đó là việc
chính quyền làm và có tác động, ảnh hưởng lâu dài, sâu sắc đến người dân;
còn tổ chức thực hiện việc nghỉ lễ, tết thế nào cho hợp lý (làm bù hay nghỉ bù)
không phải chính sách cơng mà là thực hiện chính sách cơng (tuy nhiên chính
quyền vẫn phải có quyết định về việc này).
Chính sách cơng là tồn bộ các hoạt động của chính quyền trực tiếp hay
gián tiếp tác động đến cuộc sống của mọi người. Từ hướng tiếp cận này, trở
lại với ví dụ nêu trên ta thấy: cả việc chủ trương nghỉ lễ, tết và thực hiện việc
nghỉ lễ, tết đều là chính sách cơng vì cả hai việc đều tác động, ảnh hưởng đến
cuộc sống của mọi người. So với quan niệm trên, quan niệm này mở hơn,
rộng hơn ở việc xem cả xây dựng, ban hành và thực hiện chính sách của chính
quyền đều là chính sách công. Nhưng lại hẹp hơn ở chỗ không coi những việc


9
chính quyền khơng làm là chính sách cơng (thực tế phát triển ở các nước cho
thấy chính quyền khơng thể và không nhất thiết phải làm tất cả mọi việc đối
với xã hội).
1.1.1.2. Khái niệm việc làm và chính sách giải quyết việc làm
Việc làm đối với mỗi người lao động, là được làm việc gắn với từng
công việc cụ thể, khơng chỉ để tồn tại mà cịn là sự hoàn thiện bản thân. Đối
với xã hội, việc làm tạo ra của cải vật chất và các dịch vụ cho tăng trưởng
kinh tế và phát triển xã hội. Việc làm là mối quan tâm số một của người lao
động, và giải quyết việc làm là nhiệm vụ quan trọng của tất cả các quốc gia.
Cuộc sống của bản thân và gia đình người lao động phụ thuộc rất lớn vào việc
làm của họ. Sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia cũng gắn liền với tính
hiệu quả của chính sách giải quyết việc làm của quốc gia ấy.
Việc làm được hiểu là sự kết hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất
nhằm biến đổi đối tượng lao động theo mục đích của con người.
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), việc làm là những hoạt động lao

động được trả công bằng tiền hoặc bằng hiện vật.
Ở nước ta, Bộ Luật Lao động (2012), tại khoản 1, điều 9, chương 2 đã
quy định rõ: “Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị
pháp luật cấm” [25].
Các hoạt động lao động được được xác định là việc làm bao gồm:
- Làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật
(việc làm được trả công).
- Làm những công việc tự làm hoặc làm các cơng việc gia đình để
thu lợi nhuận cho bản thân hoặc tạo ra thu nhập cho gia đình nhưng khơng
được trả cơng bằng tiền hoặc hiện vật cho cơng việc đó (việc làm khơng
được trả công).


10
Từ những khái niệm trên, có thể thấy rằng, một hoạt động được coi là
việc làm cần thỏa mãn các điều kiện: Một là, hoạt động lao động của con
người; là hoạt động lao động có ích, nhằm mục đích tạo ra thu nhập; Hai là,
người lao động được tự do hành nghề, hoạt động lao động đó khơng bị pháp
luật ngăn cấm.
Như vậy có thể thấy, việc làm phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội
của mỗi quốc gia trong các giai đoạn phát triển khác nhau. Việc mở rộng hay
thu hẹp việc làm, phát huy hay kìm hãm năng lực tạo việc làm phụ thuộc rất
nhiều vào các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia, địa phương và
doanh nghiệp.
Ở nước ta, nhận thức về việc làm đã có sự thay đổi và phát triển. Điều
đó dẫn đến các thay đổi về tư tưởng, chính sách và biện pháp giải quyết việc
làm. Từ chỗ coi giải quyết việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, và chỉ khi
làm việc trong khu vực Nhà nước mới được coi là có việc làm, đã chuyển
sang nhận thức mới, đó là: Mọi hoạt động lao động xã hội tạo ra thu nhập mà
không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm. Chính sách giải

quyết việc làm là quá trình tạo ra điều kiện và mơi trường bảo đảm cho mọi
người có khả năng lao động đều có cơ hội làm việc. Tham gia vào q trình
trình này có nhiều thành phần kinh tế: Nhà nước, các doanh nghiệp, các đoàn
thể và các cá nhân trong tồn xã hội. Người lao động khơng thụ động chờ đợi
Nhà nước bố trí việc làm mà chủ động tự tạo việc làm cho mình và cho người
khác trong môi trường kinh tế - xã hội, luật pháp thuận lợi do Nhà nước đặt ra.
Trách nhiệm của Nhà nước đã chuyển từ vị trí độc tơn trong giải quyết việc
làm trước đây sang ban hành cơ chế, chính sách, luật pháp, đảm bảo cho
người lao động tự do hành nghề, các đơn vị sản xuất kinh doanh được quyền
tự do th mướn lao động… Vì vậy, chính sách giải quyết việc làm là tổng thể


11
các biện pháp, chính sách kinh tế, xã hội từ vi mô đến vĩ mô mà Nhà nước ban
hành nhằm tạo ra việc làm cho người lao động.
1.1.1.3. Khái niệm chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho nơng dân bị
thu hồi đất sản xuất
Chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất sản xuất
là các chủ trương chính sách, chương trình và các giải pháp của Nhà nước
nhằm trợ giúp người nông dân và các thành viên trong gia đình họ (thuộc
đối tượng nêu trên) ứng phó với tình trạng giảm thu nhập, mức sống, mất
hoặc thiếu việc làm và những khó khăn khác do bị thu hồi đất sản xuất để
giúp họ ổn định cuộc sống trước mắt và lâu dài.
1.1.2. Mục đích, nguyên tắc và ý nghĩa của chính sách hỗ trợ tạo
việc làm cho nông dân bị thu hồi đất sản xuất
1.1.2.1. Mục đích của chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho nông dân bị
thu hồi đất
- Hỗ trợ tạo việc làm cho người dân bị thu hồi đất sản xuất nhằm giúp
cho người dân có khả năng tự tạo được việc làm, tự tìm kiếm việc làm.
Những biện pháp hỗ trợ từ phía Nhà nước nhằm giúp cho người nơng

dân bị thu hồi đất sản xuất có tiền vốn để tiến hành đầu tư vào những ngành
nghề mới ngoài lĩnh vực sản xuất nông nghiệp (như phát triển các cơ sở sản
xuất công nghiệp hoặc kinh doanh thương mại, dịch vụ). Việc tạo điều kiện
cho họ được tham gia học tập nâng cao trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn
kỹ thuật nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Từ đó, người nơng
dân bị thu hồi đất sản xuất có cơ hội tham gia vào đội ngũ người lao động
trong các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc có đủ trình độ
chun mơn kỹ thuật để thâm canh tăng vụ trên diện tích đất nơng nghiệp cịn
lại, nâng cao hiệu quả sử dụng đất canh tác.


12
- Thông qua việc hỗ trợ tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất sản
xuất nhằm đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội.
Sự hỗ trợ tạo việc làm của Nhà nước giúp cho người nơng dân bị thu
hồi đất có việc làm và thu nhập ổn định để nâng cao chất lượng cuộc sống,
góp phần phát triển nơng nghiệp và xây dựng nơng thôn, đưa nông nghiệp và
kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn. Đây là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng trong
trước mắt và lâu dài, là cơ sở để ổn định tình hình kinh tế - xã hội - chính trị,
củng cố an ninh - quốc phịng, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Hỗ trợ tạo việc làm cho người nơng dân bị thu hồi đất sản xuất nhằm
góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.
Sự hỗ trợ nhằm giúp người nơng dân chuyển đổi nghề nghiệp, góp phần
đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gắn phát triển nông nghiệp với công
nghiệp chế biến, gắn sản xuất với thị trường để hình thành liên kết nơng
nghiệp - cơng nghiệp - dịch vụ ở địa bàn nông thôn và trên phạm vi cả nước;
gắn phát triển nông nghiệp với xây dựng nơng thơn mới, đồng thời gắn cơng
nghiệp hóa với thực hiện dân chủ hóa và nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực ở
nông thôn, tạo ra sự phân cơng lao động mới. Qua đó, góp phần nâng cao đời

sống, xóa đói giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách về mức sống giữa thành thị và
nông thôn, thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Vấn đề hỗ trợ tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất sản xuất là
nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và xã hội nhằm xây dựng xã hội nông thơn
ổn định, hịa thuận, dân chủ, tạo động lực cho phát triển nông nghiệp và xây
dựng nông thôn mới, không ngừng nâng cao đời sống vất chất và tinh thần
của người nông dân nhằm thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.


13
1.1.2.2. Nguyên tắc của chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho nơng dân
bị thu hồi đất
Một là, chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất
sản xuất phải đảm bảo thực hiện nhất quán các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế, xã hội nói chung, phát triển nơng
nghiệp, nơng dân và nơng thơn nói riêng. Các nội dung, chương trình hỗ
trợ tạo việc làm cho người nơng dân phải phù hợp với mục tiêu, chiến lược,
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, của quốc gia đã được
phê duyệt.
Hai là, thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi
đất sản xuất phải đảm bảo sự bình đẳng, công khai và minh bạch. Hỗ trợ phải
đảm bảo không có sự phân biệt đối xử giữa các tầng lớp nông dân, giữa nông
dân các địa phương thuộc đối tượng Nhà nước thu hồi đất sản xuất. Đồng thời
phải được cơng khai hóa, phải cung cấp đầy đủ thơng tin liên quan về chính
sách hỗ trợ cũng như lộ trình thực hiện để các địa phương cũng như người
nông dân xây dựng kế hoạch phù hợp, đảm bảo khả năng giám sát và kiểm
sốt q trình thực hiện.
Ba là, các chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho nơng dân bị thu hồi đất
sản xuất phải phù hợp với tình hình thực tế, đó là:

- Việc hỗ trợ tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất sản xuất phải
được thực hiện theo chiều hướng giảm dần sự bảo hộ, phát huy tính tự lập,
tính tự chủ của họ.
- Các chương trình, nội dung hỗ trợ phải rõ ràng, phù hợp với quy định
của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế.


14
- Hỗ trợ phải được thực hiện theo hướng tăng cường các biện pháp hỗ
trợ gián tiếp, giảm dần các biện pháp hỗ trợ trực tiếp đối với người dân có đất
sản xuất bị thu hồi.
Bốn là, chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất sản
xuất phải được thực hiện theo phương châm tích cực và bền vững. Theo đó,
chính sách hỗ trợ khơng có nghĩa là làm thay mà phải dựa trền nền tảng là
khuyến khích sự năng động, sáng tạo, chủ động của bản thân người nông dân,
tôn trọng quyền tự do làm chủ của người nông dân, tôn trọng bản sắc và
truyền thống văn hóa của dân tộc, đồng thời giúp họ thích nghi với điều kiện
lao động mới nhằm đảm bảo nâng cao về số lượng, chất lượng nguồn nhân
lực và nâng cao hiệu quả kinh tế.
1.1.2.3. Ý nghĩa của chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho nơng dân bị
thu hồi đất
Tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất có ý nghĩa rất lớn đến sự phát
triển kinh tế. Vì sự phát triển kinh tế phụ thuộc vào hiệu quả sử dụng các
nguồn lực như tài nguyên thiên nhiên, vốn, lao động, trong đó việc sử dụng
lao động có vai trị quan trọng và quyết định đến sự phát triển. Tạo việc làm
cho lao động nói chung và nơng dân bị thu hồi đất sản xuất nói riêng có ý
nghĩa quan trọng khơng chỉ đối với kinh tế - xã hội mà còn đối với doanh
nghiệp và bản thân người lao động. Cụ thể là:
* Đối với xã hội
Cơng nghiệp hóa, đơ thị hóa là xu hướng phát triển tất yếu của các

quốc gia muốn thoát khỏi tình trạng kinh tế nơng nghiệp lạc hậu, năng suất
thấp, mức sống thấp sang nền kinh tế công nghiệp với năng suất cao. Trong
q trình đó sẽ dẫn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, kéo theo sự chuyển
dịch cơ cấu lao động. Hoạt động sản xuất mới ra đời, hoạt động sản xuất cũ


15
mất đi, thất nghiệp phát sinh. Cho nên tạo việc làm cho người lao động
nhất là nông dân bị thu hồi đất là rất cần thiết nhằm giảm thất nghiệp. Đồng
thời tạo việc làm góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, hạn chế tiêu cực
xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo và bình ổn xã hội. Tạo việc làm cho
người lao động nhất là đối tượng lao động bị thu hồi đất sản xuất là biện
pháp trung tâm của mọi quốc gia, nó cho phép giải quyết các vấn đề kinh
tế, chính trị, xã hội.
* Đối với doanh nghiệp
Tạo việc làm là trách nhiệm của doanh nghiệp như trong Điều 13, Bộ
Luật Lao động nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2012 đã quy
định. Tạo việc làm cho người lao động chính là duy trì sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp. Người lao động là một trong những yếu tố cấu thành nên
doanh nghiệp. Tạo việc làm đầy đủ cho người lao động sẽ làm tăng thu nhập,
tăng sức mua tiêu dùng, thúc đẩy sản xuất phát triển. Một doanh nghiệp
không thể tồn tại chỉ với những cỗ máy mà nó phải được vận hành bởi con
người, có sự tác động của con người. Đặc biệt trong điều kiện của nước ta
hiện nay, doanh nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, ít vốn, sản xuất
chủ yếu phải sử dụng nhiều lao động.
* Đối với người lao động
Tạo việc làm cho người lao động, đáp ứng quyền lợi của người lao
động, quyền có việc làm và nghĩa vụ phải làm việc của người trong độ tuổi
lao động, có khả năng lao động như Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2013 đã ghi nhận.

Có việc làm đồng nghĩa với có thu nhập, từ đó nâng cao vị thế của
người lao động trong gia đình và xã hội. Nếu khơng có việc làm sẽ khơng có


16
thu nhập và khơng có điều kiện thỏa mãn các nhu cầu chính đáng về vật chất
và tinh thần của người lao động, chất lượng cuộc sống giảm sút, nảy sinh
những hành động, suy nghĩ tiêu cực, gia tăng các tệ nạn xã hội, kìm hãm sự
phát triển đất nước.
Đối với nơng dân nói riêng: đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng của
người nông dân. Với nông dân, có đất coi như là đã sống vì ít nhất họ cũng đủ
cơm ăn từ những thửa ruộng của mình. Giờ đây, khi đất canh tác của người
nông dân bị quy hoạch các khu công nghiệp, khu đô thị làm cho nơng dân rơi
vào tình trạng tư liệu sản xuất bị mất hoặc giảm đi. Ngoài việc cày cấy ra họ
khơng biết làm gì, khơng nghề nghiệp, khơng trình độ. Người thì bỏ đi làm ăn
xa, lao động trẻ thì bỏ đi cầu thực nơi xa, chỉ còn phụ nữ, người già, trẻ nhỏ ở
lại. Trong khi họ là những người rất dễ bị tổn thương trước sự chi phối của
quy luật thị trường. Cùng với tâm lý lo sợ rủi ro, lối tư duy “ăn chắc, mặc
bền”, sản xuất nhỏ lẻ, manh mún càng làm cho cơ hội tìm kiếm việc làm của
người nơng dân càng trở nên khó khăn. Tình cảnh “nghèo thì nghèo thêm,
giàu thì giàu hơn” đang là tác nhân chính gây nên hố sâu ngăn cách giàu
nghèo ngày càng thêm rộng. Do đó, tạo việc làm cho nông dân là rất cần
thiết nhất là với nông dân bị thu hồi đất sản xuất. Nông dân là cái nền của
xã hội. Xã hội sẽ không yên nếu cái nền không vững, mọi sự phát triển,
mọi bước đi sẽ trở nên chông chênh. Không thể đền bù với mức giá thấp
như hiện nay rồi bỏ mặc nông dân trong vịng xốy của thất nghiệp, thiếu
việc làm. Điều này liên quan đến một loạt chính sách về giáo dục, đào tạo,
đặc biệt là đối với thanh niên, bởi đây là lực lượng lao động nòng cốt, là
xương sống của kinh tế nơng thơn, duy trì bản sắc dân tộc. Nông thôn đang
mất đi một lực lượng lao động quan trọng, khiến cho sự phát triển khu vực



17
này bị kìm hãm. Nếu đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, đơ thị hóa gắn liền với
quyền lợi và cơng ăn việc làm của nông dân bị thu hồi đất sản xuất sẽ tạo
nên sự mất ổn định và tạo nên sự chậm chạp trong tiến trình phát triển. Giải
quyết việc làm cho nông dân, nhất là nông dân bị thu hồi đất sản xuất là
hướng đi để phát triển nông thơn bền vững.
1.1.3. Nội dung cơ bản của chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho nông
dân bị thu hồi đất sản xuất
Có thể thấy, q trình CNH, HĐH đang làm cho diện tích đất sản xuất
nơng nghiệp đang bị thu hẹp một cách đáng kể để nhường đất cho phát triển
cơng nghiệp và dịch vụ. Q trình này diễn ra ngày càng lớn cả về quy mô và
phạm vi trong những năm gần đây. Cũng chính từ đó, nhà nước đã phải sử
dụng nhiều nguồn lực để thực hiện quá trình chuyển đổi này, nhằm bù đắp
những thiệt hại cho người dân khi bị thu hồi đất cũng như giúp họ có được thu
nhập ổn định và bền vững.
Tùy từng giai đoạn cụ thể, chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho nơng dân
bị thu hồi đất có những điều chỉnh thích hợp. Cho đến nay, chính sách này
thường bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- Khuyến khích đầu tư, tăng cầu về lao động ở khu vực nông thôn.
- Hỗ trợ chuyển đổi, đào tạo nghề cho người lao động bị mất đất ở nông
thôn.
- Hỗ trợ người nông dân tự tạo việc làm.
- Phát triển các trung tâm giới thiệu việc làm, sàn giao dịch việc làm ở
những khu vực mà người công dân bị thu hồi đất sản xuất.
- Đẩy mạnh xuất khẩu lao động.
Ngày 10/12/2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
63/2015/QĐ-TTg quy định về chính sách hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết



18
việc làm cho người lao động bị thu hồi đất (Quyết định 63). Quyết định 63
được áp dụng đối với người lao động thuộc hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản
xuất nông nghiệp theo quy định tại Nghị định số 47/2014 ngày 15/5/2014 của
Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất (trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân là cán bộ, công nhân viên của nông
trường quốc doanh, lâm trường quốc doanh đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức lao
động, thôi việc được hưởng trợ cấp) khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà
được bồi thường bằng tiền đối với diện tích đất nơng nghiệp thu hồi; người
lao động thuộc hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất ở kết hợp kinh
doanh, dịch vụ mà phải di chuyển chỗ ở.
Các đối tượng trên sẽ được Nhà nước hỗ trợ đào tạo nghề, giải quyết
việc làm khi có nhu cầu đào tạo nghề, giải quyết việc làm và phải trong độ
tuổi lao động, cụ thể như sau:
Về hỗ trợ đào tạo nghề: Người lao động bị thu hồi đất tham gia đào tạo
trình độ sơ cấp, đào tạo dưới 3 tháng được hỗ trợ theo quy định tại Quyết định
số 46/2015/QĐ-TTg ngày 28/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ; đào tạo trình
độ trung cấp, cao đẳng thì được hỗ trợ học phí cho một khóa học. Mức học
phí được hỗ trợ bằng mức thu học phí thực tế của cơ sở giáo dục nghề nghiệp
nhưng tối đa không quá mức trần học phí đối với cơ sở giáo dục cơng lập theo
quy định của pháp luật. Ngồi ra, người lao động bị thu hồi đất còn được vay
vốn theo quy định của chính sách tín dụng đối với học sinh, sinh viên.
Về hỗ trợ giải quyết việc làm trong nước: Quyết định 63 quy định
người lao động bị thu hồi đất được hỗ trợ tư vấn, định hướng nghề nghiệp và
giới thiệu việc làm miễn phí tại các trung tâm dịch vụ việc làm; được vay vốn
ưu đãi từ quỹ quốc gia về việc làm theo quy định của pháp luật.


19

Về hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng: Người lao động bị
thu hồi đất nông nghiệp đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng được hỗ trợ
theo quy định tại Nghị định số 61/2015/NĐ-CP ngày 09/7/2015 của Chính
phủ; người lao động bị thu hồi đất kinh doanh đi làm việc ở nước ngoài theo
hợp đồng được hỗ trợ như người lao động bị thu hồi đất nơng nghiệp.
Bên cạnh đó, người lao động bị thu hồi đất còn được vay vốn ưu đãi đi
làm việc ở nước ngồi theo hợp đồng từ Ngân hàng Chính sách xã hội. Người
lao động bị thu hồi đất thuộc huyện nghèo được hỗ trợ đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng theo quy định của chính sách hỗ trợ các huyện nghèo.
1.2. ĐÁNH GIÁ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ TẠO VIỆC LÀM
CHO NÔNG DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT SẢN XUẤT

1.2.1. Khái niệm thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho nông
dân bị thu hồi đất sản xuất
Thực hiện chính sách là khâu hợp thành chu trình chính sách, là tồn bộ
q trình chuyển hóa ý chí của chủ thể trong chính sách thành hiện thực với
các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu định hướng. Tổ chức thực hiện
chính sách là trung tâm kết nối các bước trong chu trình chính sách thành một
hệ thống, nhất là với hoạch định chính sách và đánh giá chính sách.
Như vậy, có thể hiểu: Thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho
nông dân bị thu hồi đất sản xuất là q trình hiện thực hóa các chủ trương
chính sách, chương trình và các giải pháp của Nhà nước liên quan đến thực
hiện mục tiêu hỗ trợ tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất sản xuất thành
những kết quả trên thực tế thông qua các hoạt động có tổ chức trong bộ máy
nhà nước nhằm hiện thực hóa mục tiêu đã đề ra.
So với các khâu trong chu trình chính sách thì tổ chức thực hiện chính
sách có vị trí đặc biệt quan trọng, vì đây là bước hiện thực hóa chính sách


20

trong đời sống xã hội. Việc tổ chức thực hiện tốt một chính sách khơng những
mang lại lợi ích lớn cho nhóm đối tượng thụ hưởng, mà cịn góp phần làm tăng
uy tín của Nhà nước trong q trình quản lý xã hội. Để có được một chính sách
tốt, các nhà hoạch định chính sách phải trải qua một quá trình nghiên cứu, tìm
kiếm rất cơng phu. Nhưng dù tốt đến đâu thì chính sách cũng trở thành vơ nghĩa
nếu khơng được đưa ra vào thực hiện. Thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc làm
cho nông dân bị thu hồi đất sản xuất nhằm mục đích giúp người nơng dân tìm
kiếm được việc làm, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nơng dân, góp
phần thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế. Chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất sản
xuất ban hành đã nhận được sự đồng tình ủng hộ và tích cực hưởng ứng của
người dân, đặc biệt là người dân diện bị thu hồi đất sản xuất, nhưng chính sách
ấy chỉ thực sự phát huy tác dụng khi nó được đưa vào thực hiện và được xem
xét, đánh giá, kiểm định tính đúng đắn trong thực tiễn.
1.2.2. Khái niệm đánh giá thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc làm
cho nông dân bị thu hồi đất sản xuất
Đánh giá thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho nông dân bị thu
hồi đất sản xuất là quá trình xem xét, làm rõ những kết quả đã đạt được và
chưa đạt được trong thực hiện mục tiêu chính sách, đánh giá việc chỉ đạo,
điều hành và chấp hành chính sách của các đối tượng thực hiện chính sách.
1.2.3. Nội dung đánh giá thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc làm
cho nông dân bị thu hồi đất sản xuất
Đánh giá thực hiện chính sách là cơ sở quan trọng cho việc nâng cao
tính hiệu quả thực thi chính sách, giúp điều chỉnh chính sách cho phù hợp với
thực tiễn. Đối với chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất
sản xuất, việc đánh giá thực hiện chính sách dựa trên những nội dung sau:


21
1.2.3.1. Hỗ trợ tạo việc làm thông qua các chương trình mục tiêu

quốc gia
Các chương trình mục tiêu quốc gia là chính sách của Nhà nước ban
hành nhằm hỗ trợ người lao động tham gia vào quá trình phát triển kinh tế xã hội góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập, xóa đói, giảm nghèo. Nội dung
các chương trình được xây dựng trên cơ sở gắn với nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước, của địa phương trong từng giai đoạn, phù hợp với
từng vùng, địa phương và từng nhóm đối tượng lao động cụ thể.
Ngày 04 tháng 6 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định số
800/QĐ-TTg về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông
thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 với mục tiêu chung là:
Xây dựng nông thơn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng
bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp
lý, gắn nơng nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn
phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân
chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; mơi trường sinh thái
được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và
tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; theo định hướng
xã hội chủ nghĩa [36].
Ngày 31 tháng 8 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ có quyết định số
1201/QĐ-TTg về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia việc làm và dạy
nghề giai đoạn 2012 - 2015, với 6 dự án thành phần, trong đó có 3 dự án liên
quan trực tiếp đến tạo việc làm cho người lao động nông thôn là: Đào tạo
nghề cho lao động nông thôn; Vay vốn tạo việc làm từ Quỹ quốc gia về việc
làm; Hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Trong số các mục tiêu cụ thể của chương trình có mục tiêu: hỗ trợ đào tạo


22
nghề, ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho lao động thuộc hộ bị thu
hồi đất sản xuất đi làm việc ở nước ngoài.
Theo Báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, năm 2013

hơn 1,543 triệu lao động được giải quyết việc làm (đạt 96,45% kế hoạch)/
Trong đó, giải quyết việc làm trong nước cho khoảng 1,4 triệu lao động,
xuất khẩu lao động 88.155 người. Hơn 1,7 triệu người được dạy nghề (đạt
91,15% kế hoạch), trong đó dạy nghề cho khoảng 450.000 lao động nơng
thơn (tăng khoảng 10,2% so với năm 2012). Năm 2015, tạo việc làm cho
khoảng 1,6 triệu người, trong đó tạo việc làm trong nước khoảng 1,5 triệu
người, xuất khẩu lao động 87 nghìn người; tuyển mới dạy nghề 1,7 triệu
người [5].
Có thể thấy, các chính sách điều tiết vĩ mơ của Chính phủ thơng qua các
Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy nghề đã góp phần tạo việc
làm cho người lao động, trong đó có một phần lớn lao động là nông dân bị thu
hồi đất sản xuất. Qua các chương trình này đã giúp các hộ cá thể và người lao
động tham gia vào các hoạt động kinh tế, mở rộng sản xuất, nâng cao thu
nhập, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các điều kiện cơ bản trong Chương trình
mục tiêu quốc gia tác động đến tạo việc làm cho người lao động, trong đó có
nơng dân bị thu hồi đất sản xuất là: tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi; tiếp thu
kiến thức cơ bản về phát triển kinh doanh; chuyển đổi ngành nghề; về học
nghề… Phương thức chuyển tải vốn vay ưu đãi chủ yếu thông qua các dự án
và hỗ trợ trực tiếp để người lao động tự tạo việc làm giúp đỡ nhau trong lao
động, sản xuất kinh doanh. Thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, nghề
nghiệp như: Liên đồn Lao động, Hội Nơng dân, Hội phụ nữ, Hội Cựu chiến
binh,… nhân rộng mơ hình, dự án hiệu quả để tạo việc làm cho nông dân.


23
1.2.3.2. Hỗ trợ tạo việc làm thông qua các trung tâm giới thiệu việc
làm và cơ sở dạy nghề
Mục tiêu chung của Chương trình mục tiêu quốc gia việc làm và dạy
nghề giai đoạn 2012 – 2015 là: “Hỗ trợ đào tạo nghề, tạo việc làm tăng cường
xuất khẩu lao động và phát triển thị trường lao động đáng ứng yêu cầu xây

dựng, phát triển và hộ nhập kinh tế quốc tế, nhất là ở khu vực nông thôn. Để
thực hiện được mục tiêu đó, một trong những phương pháp tạo việc làm cho
lao động nông thôn là phát triển hệ thống cơ sở dạy nghề tại các địa phương.
Thông qua các chương trình đào tạo của các trung tâm, cơ sở dạy nghề sẽ tạo
điều kiện cho người lao động được học các nghề phù hợp và nâng cao tay
nghề, mở ra nhiều cơ hội tìm và tạo việc làm. Ở nước ta, sự hoàn thiện của Bộ
luật Lao động (sửa đổi năm 2012), Luật Việc làm và Luật dạy nghề là căn cứ
pháp lý quan trọng cho việc hình thành và phát triển hệ thống dạy nghề, giới
thiệu việc làm trong cả nước. Hệ thống cơ sở dạy nghề đã có sự phát triển và
chuyển dịch mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Theo báo cáo của Tổng
cục Dạy nghề, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tính đến cuối năm 2015
cả nước có 1.339 cơ sở dạy nghề trong đó: 162 trường Cao đẳng nghề (106
trường công lập, 15 trường thuộc doanh nghiệp nhà nước, 41 trường tư thục);
302 trường Trung cấp nghề (trong đó có 181 trường cơng lập, 21 trường thuộc
doanh nghiệp nhà nước, 100 trương tư thục); 875 trung tâm dạy nghề (trong
đó có 406 trung tâm dạy nghề cấp quận, huyện). Các cơ sở dạy nghề ngoài
việc đào tạo tập trung dài hạn và đào tạo từ đầu còn hướng vào đào tạo lại để
nâng cao, cập nhật trình độ cho người lao động phù hợp với yêu cầu và tính
chất cơng việc [37].
Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nơng thơn đến năm 2020” được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009,


24
thực hiện trong giai đoạn 2010 - 2020. Sau 5 năm thực hiện Đề án 1956 (giai
đoạn 2010 - 2014), cả nước đã có gần 3,2 triệu lao động nơng thôn được học
nghề, đạt 70,8% mục tiêu Đề án; dạy nghề cho 4,5 triệu người; đặt hàng dạy
nghề trình độ cao đẳng, trung cấp cho 10.534 người thuộc diện hộ nghèo,
người dân tộc thiểu số, lao động nông thôn bị thu hồi đất canh tác có khó
khăn về kinh tế [37].

Số lao động nông thôn được hỗ trợ học nghề đạt 90,4% kế hoạch cả
giai đoạn 2010 - 2014. Trong số hơn 1,9 triệu lao động nông thôn được hỗ trợ
học nghề xong, có hơn 1,5 triệu người có việc làm sau học nghề, đạt 78,7%,
cao hơn 8,7% so với mục tiêu tối thiểu của Đề án là 70% số lao động nơng
thơn có việc làm sau học nghề… Năm 2015 dạy nghề cho khoảng 950 nghìn
lao động nơng thơn, trong đó 550.000 lao động nơng thơn được hỗ trợ học
nghề theo chính sách Đề án 1956. Tỷ lệ lao động nơng thơn có việc làm sau
học nghề đạt trên 70%. Mục tiêu dạy nghề giai đoạn 2016 - 2020: Đào tạo
nghề cho khoảng 5,5 triệu lao động nông thôn, trong đó, hỗ trợ đào tạo trình
độ sơ cấp và đào tạo dưới 3 tháng cho khoảng 3,2 triệu người. Sau đào tạo, có
từ 80% số người học có việc làm mới hoặc tiếp tục làm nghề cũ nhưng có
năng suất, thu nhập cao hơn [37].
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì cơng tác đào tạo nghề
ở nước ta trong những năm qua vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được
u cầu của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn
trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Có những nơi cơng tác triển
khai cịn chậm, thiếu đồng bộ, chưa phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng
ngành kinh tế, cịn mang nặng tính hình thức và thành tích; thiếu định hướng
dài hạn, chưa gắn với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy
hoạch nông thơn mới. Một số nơi dạy nghề cịn chạy theo số lượng, chất


×