Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.43 KB, 5 trang )
Viêm gan và thai nghén
Nhiễm virut viêm gan, đặc biệt là nhiễm virut viêm gan B (HBV) là một
vấn đề mang tính toàn cầu. Trên thế giới có hơn 2 tỷ người nhiễm HBV, hơn 350
triệu người mang HBV mạn tính, trong đó 69 triệu người chết vì ung thư gan
nguyên phát và 45 triệu chết vì xơ gan. Những người mang HBV mạn tính, khả
năng bị ung thư nguyên phát cao gấp 200 lần so với người không mang HBV.
Có nhiều loại virut gây viêm gan. Đến nay, người ta phát hiện được 6 loại
virut gây tổn thương chủ yếu ở gan, đó là virut viêm gan A, B, C, D, E và G.
Việt Nam là một nước đang phát triển, nơi có tỷ lệ viêm gan virut (VGVR)
lưu hành cao. Ở những thai phụ bị VGVR, đặc biệt với các sản phụ chuyển dạ đẻ
có rất nhiều tai biến cho cả mẹ và con. Tử vong mẹ cao do chảy máu sau đẻ và hôn
mê gan.
Tỷ lệ các sản phụ bị VGVR là 2,3% - 3%, tỷ lệ này dao động trong khoảng
từ 0,14% - 0,3% trong các nghiên cứu khác nhau. Thai nghén không làm thay đổi
các triệu chứng lâm sàng, xét nghiệm kinh điển cũng như tiên lượng của VGVR
týp A, B, C, D, ngoại trừ viêm gan E sẽ làm tăng tử vong mẹ và con nhưng ở các
nước kém phát triển, nếu bệnh nhân bị VGVR trong thời gian mang thai, tỷ lệ biến
chứng viêm gan tối cấp sẽ tăng lên làm tăng tỷ lệ tử vong.
VGVR có thể xuất hiện ở bất cứ giai đoạn nào của thai nghén, nếu viêm
gan xảy ra vào 3 tháng đầu, nhất là nếu xảy ra vào những ngày đầu hoặc tuần đầu
mới mang thai sẽ gây sảy thai, tỷ lệ đẻ non ở các bệnh nhân có thai 3 tháng giữa và
3 tháng cuối dao động từ 22-38,5%, ngoài ra bệnh nhân VGVR sẽ có từ 5% -15%
thai bị chết lưu. Hậu quả của VGVR đối với thai cũng như trẻ sơ sinh phụ thuộc và
sự kéo dài, mức độ trầm trọng của bệnh ở mẹ.
Tỷ lệ thai bị chết trong chuyển dạ là 9,2%. Nguy cơ xuất hiện trầm trọng
lúc sổ thai do rối loạn đông máu ở các sản phụ bị viêm gan có suy giảm chức năng
gan.