Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Cơ chế tạo hàm ý trong truyện Tây Bắc của Tô Hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.84 KB, 25 trang )

PHÂN TÍCH CÁC CƠ CHẾ TẠO HÀM Ý TRONG
TRUYỆN TÂY BẮC CỦA TƠ HỒI

TIỂU LUẬN CUỐI KÌ I
NGỮ DỤNG HỌC

Đà Nẵng, tháng 12/2021


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong cuộc sống, chúng ta phải ln trao đổi, giao tiếp, nói chuyện với
mọi người để tạo lập nên mối quan hệ thân thiết, gắn bó lâu dài với mọi người
xung quanh. Tuy nhiên, khơng phải lúc nào người nói(phát ngơn) cũng có thể
“nói thẳng”, “nói trắng”, “nói toạc”...ra những suy nghĩ của mình. Nhiều khi
người ta buộc phải dùng cách nói có hàm ý để tạo ra hiệu quả biểu đạt sâu sắc,
thể hiện sự tế nhị, khéo léo trong giao tiếp để giữ phép lịch sự và tôn trọng thể
diện của người đối thoại. Những trường hợp như thế thì cách mà người thực
hiện giao tiếp sử dụng khi đó là một cách nói gián tiếp, nhiều nhà ngơn ngữ học
Việt Nam đã gọi cách này bằng nhiều cái tên khác nhau như: hàm ẩn, hàm
ngơn… tức là khơng nói ra những từ trực tiếp liên quan đến vấn đề mà mình
đang nói đến. Để có thể hiểu được những ý nghĩa đó thì người tiếp nhận buộc
phải suy luận “giải mã” vấn đề đang được nói đến. Lối nói hàm ẩn cũng được
các nhà văn áp dụng thông qua các lời thoại của từng nhân vật trong tác phẩm
của mình. Muốn hiểu, muốn nắm bắt được những hàm ý phức tạp, sâu sắc
trong tác phẩm văn học nghệ thuật hiển nhiên phải có sự hiểu biết về ngơn ngữ,
kinh nghiệm trong cuộc sống và rèn luyện tư duy nghệ thuật. Trong quá trình
tìm hiểu về hàm ý và cơ chế tạo hàm ý trong tác phẩm văn học hiện đại, chúng
tôi nhận thấy được nhà văn Tơ Hồi là một trong những nhà văn đã thể hiện
được những điều ngầm ẩn như thế trong tác phẩm của mình. Ơng đã vơ cùng
tinh tế khi vận dụng yếu tố hàm ngôn trong truyện ngắn của mình, đặc biệt là


trong Tập “ Truyện Tây Bắc” gắn liền với lời ăn tiếng nói hằng ngày của người
dân lao động miền núi Tây Bắc.
Vì vậy, việc tìm hiểu về cơ chế tạo hàm ý trong truyện ngắn Vợ chồng A
Phủ là một việc hết sức cần thiết và bổ ích cho những ai muốn tìm hiểu ngữ
dụng học nói chung và cơ chế tạo hàm ý nói riêng trong Truyện Tây Bắc, khơng
những thế việc nghiên cứu cơ chế tạo hàm ý trong Truyện Tây Bắc sẽ góp phần
giúp cho học sinh có ai nhìn sâu sắc hơn về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm,
cũng như là chức năng hàm ý của người Việt.
Chính vì những lý do trên, chúng tơi lựa chọn nhận thấy đề tài “Nghiên
cứu các cơ chế tạo hàm ý trong Truyện Tây Bắc của Tơ Hồi” là đề tài mang
tính thiết thực và thú vị. Hi vọng với đề tài này, chúng tơi sẽ có một cái nhìn rõ
hơn về cơ chế tạo hàm ý, đồng thời cũng cho thấy được giá trị sử dụng hàm ý
trong tác phẩm văn học hiện đại nói chung và Truyện Tây Bắc nói riêng.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Các cơng trình nghiên cứu về “cơ chế tạo hàm ý” vẫn còn mới mẻ và ít
được được quan tâm. Đặc biệt là các tài liệu mang tính ứng dụng về “cơ chế tạo


hàm ý” trong lĩnh vực cụ thể rất hiếm, chỉ có vài cơng trình nghiên cứu liên
quan như:
Phạm Minh Ln(2012), “Cơ chế tạo hàm ý hội thoại trong truyện cười
dân gian Việt Nam”, Luận văn tốt nghiệp Ngữ văn, Đại học Cần Thơ, khi tác
giả tập trung nghiên cứu về chức năng nói của người Việt và cách thức nói
năng ẩn ý của người Việt, đồng thời tác giả còn nêu lên được giá trị nội dung
của các cơ chế tạo hàm ý trong truyện cười dân gian.
Nguyễn Thị Tú Anh(2012), “Hàm ngôn trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp”,Luận văn Thạc sĩ ngôn ngữ học, Trường đại học sư phạm thành phố Hồ
Chí Minh. Tác giả tiến hành cơng trình nghiên nghiên cứu khi đi sâu vào việc
miêu tả và phân loại các cơ chế tạo hàm ngôn và chức năng hàm ngơn trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp qua đó xác lập sự đóng góp của tác giả về

phong cách thể loại.
Đỗ Hữu Châu(2007) trong Đại cương ngôn ngữ học- Tập 2 đã nêu ra cơ
chế tạo ra hàm ẩn không tự nhiên. Ông đã gọi thuật ngữ hàm ý bằng tên gọi
khác là hàm ngôn và phân chúng thành hai loại hàm ngôn: Hàm ngôn ngữ
nghĩa và hàm ngôn ngữ dụng.
Trong Tiếng Việt: Mấy vấn đề về ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa của Cao
Xuân Hạo(2017) nói hàm ý là hàm ẩn và ông tiến hành chia hàm ẩn thành hai
loại: hàm ý của từ và hàm ý trong câu. Và ông cũng nêu ra một số quy tắc và sự
vi phạm của quy tắc ấy trong hàm ý.
Tuy chưa có sự thống nhất về cách gọi tên chung của hàm ý thế nhưng
các tác giả cũng nêu lên được quan điểm của bản thân về hàm ý, cũng như là đi
sâu vào cơng trình nghiên cứu về cơ chế tạo hàm ý. Mặc dù các cơng trình
nghiên cứu vẫn cịn ít biết đến thế nhưng phần nào cũng đã hình thành cho
người đọc có cái nhìn rõ hơn về hàm ý và cơ chế tạo hàm ý.
Ở đề tài “Phân tích các cơ chế tạo hàm ý trong Truyện Tây Bắc của Tơ
Hồi”, chúng tơi mong rằng sẽ góp phần nào vào cơng trình nghiên cứu ở
mảng hàm ý , trên cơ sở kế thừa thành tựu các công trình đi trước, tiểu luận này
sẽ xem xét vấn đề cơ chế tạo hàm ý trong Truyện Tây Bắc.
3. Mục đích nghiên cứu
Ở đề tài :“Phân tích các cơ chế tạo hàm ý trong Truyện Tây Bắc của Tơ
Hồi”. Chúng tơi tiến hành khảo sát, tìm hiểu sâu vào các cơ chế tạo hàm ý
trong tập Truyện Tây Bắc của Tơ Hồi, từ đó làm rõ các cơ chế tạo hàm ý trong
tác phẩm văn học. Trên cơ sở lí thuyết của tác giả GS. TS. Đỗ Hữu Châu trong
công trình nghiên cứu Đại cương ngơn ngữ học, tập 2, Ngữ dụng học. Qua đó,
khẳng định tài năng của Tơ Hồi. Tìm hiểu các cơ chế tạo hàm ý để thấy được
sự tinh tế của nhà văn trong cách xây dựng tình huống truyện. Đồng thời thấy


được tư tưởng, thái độ của nhà văn Tơ Hồi được phản ánh trong Tập Truyện
Tây Bắc qua sự vi phạm các quy tắc ngữ dụng học.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Truyện Tây Bắc của Tơ Hồi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Các cơ chế tạo hàm ý trong Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hồi.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp phân tích- tổng hợp
5.2. Phương pháp diễn dịch- qui nạp
6. Bố cục
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung của tiểu
luận gồm có hai chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận liên quan đến đề tài.
Chương 2: Cơ chế hàm ý trong Tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tơ
Hồi.


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Hàm ý và các thuật ngữ liên quan
1.1.1. Khái niệm về nghĩa tường minh và hàm ẩn(hàm ý)
Khái niệm về nghĩa tường minh (implication) và hàm ẩn (explication)
trong tiếng Việt nhìn chung đã có một cái nhìn thống nhất như trong sách Ngữ
văn lớp 9, tập 2 (2007),Nxb Giáo dục định nghĩa: “Hàm ý (hàm ngôn) là phần
thông báo tuy không được diễn đạt trực tiếp bằng từ ngữ trong câu nhưng có
thể suy ra từ những từ ngữ ấy. Nghĩa tường minh(nghĩa hiển ngôn) là phần
thông báo được diễn đạt trực tiếp bằng từ ngữ trong câu”[5,tr.75].
Theo Đỗ Hữu Châu(2007), Đại cương ngôn ngữ học, Tập 2, Nxb Giáo
dục, “ ý nghĩa trực tiếp do các yếu tố ngôn ngữ đem lại được gọi là ý nghĩa
tường minh, có tác giả gọi là hiển ngơn. Các ý nghĩa nhờ suy ý mới nắm bắt
được gọi là ý nghĩa hàm ẩn(hàm ẩn)”.[1,tr.359].
Theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), hàm ngơn là “điều người

nói khơng diễn đạt trực tiếp, người nghe phải tự suy ra mà hiểu; phân biệt với
hiển ngôn.” [4, tr.418]. Hiển ngôn là “điều người nói diễn đạt trực tiếp, rõ ràng;
phân biệt với hàm ngơn.” [4, tr.437]. Như vậy theo Hồng Phê hàm ngơn là
điều nói gián tiếp, cịn hiển ngơn là điều nói trực tiếp.
Từ những ý kiến trên ta có thể hiểu, nghĩa tường minh (hay cịn gọi là
hiển ngơn) là nghĩa được thể hiện trực tiếp bằng các từ ngữ trên bề mặt của
phát ngôn. Hàm ẩn (hàm ý) là nghĩa nhờ suy ý dựa vào ngữ cảnh, vào các quy
tắc điều khiển hành động, ngôn ngữ điều khiển lập luận, điều khiển hội thoại,
… mới nắm được. Hàm ẩn là phần thông báo tuy không được diễn đạt trực tiếp
bằng từ ngữ trong câu nhưng có thể suy ra từ những từ ngữ ấy (cịn gọi là hàm
ngơn hoặc hàm ý).
Ví dụ:
(1) “Cái kim trong bọc lâu ngày cũng lịi ra”
Nghĩa tường minh: Cây kim trong bọc thì lâu ngày nó cũng sẽ lịi ra
(Nghĩa hiển thị trực tiếp bằng từ ngữ trên bề mặt của phát ngôn).
Hàm ý: Thời gian sẽ chứng minh bản chất thật của con người.( Nghĩa
được suy ra từ phát ngôn thể hiện trong từ ngữ)
(2)

“Bao giờ chạch đẻ ngọn đa,
Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình”


Phần nghĩa tường minh ở câu ca dao là: Bao giờ cá chạch đẻ ở trên ngọn
cây đa, chim sáo đẻ trứng à dưới nước thì ta sẽ lấy mình ( Nghĩa thể hiện trực
tiếp bằng từ ngữ của phát ngơn).
Cịn phần hàm ý: Khơng bao giờ có chuyện ta lấy mình (Nghĩa được suy
ra: bởi vì việc cá chạch đẻ trên ngọn cây đa, chim sáo đẻ trứng dưới nước đó là
việc khơng bao giờ có thể xảy ra, vậy nên ta khơng thể lấy mình).
1.1.2. Phân loại tổng quát nghĩa hàm ẩn

Nghĩa của hàm ẩn được chia thành hai loại: Tiền giả định (presuppstionkí hiệu pp’) và hàm ngơn (implicature, implicitation- kí hiệu imp). Ta có, tiền
giả định là những căn cứ cần thiết để người nói tạo ra ý nghĩa tường minh trong
phát ngơn của mình. Tiền giả định gồm có: Tiền giả định nghĩa học và tiền giả
định dụng học.
Hàm ngôn là tất cả những nội dung có thể suy ra từ một phát ngơn cụ
thể nào đó; từ ý nghĩa tường minh (ý nghĩa theo câu chữ) cùng với tiền giả định
của nó. Hàm ngơn gồm có: hàm ngơn nghĩa học và hàm ngơn dụng học.
Ví dụ 1: Phát ngơn sau đây có tiền giả định và hàm ngôn:
- Vũ hội làm cho chúng ta quên rằng bây giờ đã 12 giờ đêm rồi.
Nghĩa tường minh của câu: Vũ hội đã kéo dài đến 12 giờ đêm.
Các nghĩa hàm ẩn là:
Tiền giả định:
pp’1: Có một cuộc vũ hội.
pp’2: Vũ hội tổ chức vào ban đem
pp’3: Vào ban đêm cần nhớ không nên thức quá khuya
pp’4:12 giờ đêm dã là quá trễ trong sinh hoạt của người Việt.
Hàm ngôn:
imp 1: Chúng ta cần phải giải tán buổi vũ hội
imp 2: Vũ hội diễn ra rất thành cơng, bởi vì mọi người đã qn thời gian
giờ đã là 12 giờ.
Ví dụ 2: Một hãng nước hoa đã có đăng quảng cáo:
- Đàn ơng thật dễ tìm nhưng khó giữ. Hãy giữ họ bằng nước hoa
Marique.
Nghĩa tường minh: Hãy giữ người đàn ơng của mình bằng nước hoa
Marique.


Nghĩa hàm ẩn:
Tiền giả định: Những người phụ nữ đều muốn người đàn ơng chung
thủy với mình.

Hàm ngơn: Nước hoa Marique rất tuyệt vời và có sức quyến rũ đàn ông.
1.1.3. Hàm ngôn và tiền giả định
Việc phân biệt tiền giả định và hàm ngơn cho đến nay vẫn cịn là một
vấn đề khó giải quyết đối với ngữ dụng học. Dưới đây là một số đặc điểm có
thể dựa vào đó mà chúng ta có thể phân biệt tiền giả định và hàm ngôn:
1.1.3.1. Quan hệ với nghĩa tường minh
Tiền giả định là “những hiểu biết được xem là bất tất phải bàn cãi, bất
tất phải đặt lại vấn đề, đã được các nhân vật giao tiếp mặc nhiên thừa nhận, dựa
vào chúng mà người nói tạo nên ý nghĩa tường minh trong phát ngơn của
mình”[1,tr.366].
Ví dụ 1: Anh ta đi lấy thuốc cho vợ
Tiền giả định: pp’: Anh ta đã có vợ rồi
Như vậy, “Anh ta đã có vợ rồi” được xem là không thể bàn cãi nữa, có
nó thì người nói mới có phát ngơn “Anh ta đi lấy thuốc cho vợ”. Đặc điểm này
có thể hiểu có thể được hiểu là: tiền giả định ln ln đúng. Tuy nhiên, trong
giao tiếp hàng ngày, không phải không có những trường hợp mà người nói tạo
ra một phát ngôn mà ý nghĩa tường minh dựa trên một tiền giả định sai, bịa đặt.
Lúc này vấn đề tranh cãi sẽ rơi vào chính tiền giả định đó. Ví dụ 2:
Sp1: Bao giờ thì cậu trả tiền cho tơi?
Phát ngơn này có tiền giả định(pp’): Cậu vay tiền của tơi. Người nghe B
có thể cãi lại tiền giả định đó:
Sp2: Tôi vay tiền của cậu khi nào mà trả? (Nếu như trong trường hợp B
không vay tiền của A).
Hàm ngôn là “những hiểu biết hàm ẩn có thể suy ra từ ý nghĩa tường
minh và tiền giả định của của ý nghĩa tường minh. Nếu khơng có ý nghĩa tường
minh và tiền giả định của nó thì khơng thể suy ra được hàm ngơn thích
hợp”[1,tr.367].
Ví dụ 1: “Sáng hơm nay lại mưa!”
Nghĩa tường minh: Sáng hôm nay mưa.
Tiền giả định (pp’): Những ngày hơm trước cũng có mưa.



Từ tiền giả định và nghĩa tường minh thì ta có thể suy ra hàm ngơn của
người nói, ví dụ: “ Hôm nay cũng thể đi chơi được” hoặc “Sáng nay không thể
phơi quần áo”... Điều này phụ thuộc rất nhiều vào ngữ cảnh giao tiếp, vào ngơn
cảnh, ta có thể hiểu: tiền giả định nói chung ít lệ thuộc vào ngữ cảnh giao tiếp
cịn hàm ngơn lệ thuộc sâu vào ngữ cảnh giao tiếp.
Ví dụ 2:
Sp1: Sao hơm nay Nam không đi học?
Sp2: Hôm nay là chủ mà.
Hàm ý trong câu của sp2 là: Hôm nay được nghỉ và Nam đã đi chơi
cùng bạn. Kết luận được hình thành từ một “lẽ thường”: Ngày chủ nhật thì mọi
người thường đi chơi cùng bạn bạn bè.
Cũng cùng hoàn cảnh giao tiếp như trên nhưng nếu Sp1 phàn nàn rằng:
Hôm nào cũng chơi, chẳng lo học hành gì hết! thì sp2: Không phải đâu, cả
tuần nay trừ ngày chủ nhật, hôm nào bạn ấy cũng học bài.
Hàm ý: Nam chỉ đi chơi vào ngày chủ nhật. Hàm ngôn này là luận cứ
của kết luận trong “lẽ thường” nói trên.
1.1.3.2. Quan hệ với hình thức ngơn ngữ tạo nên phát ngơn
Một phát ngơn có thể có nhiều tiền giả định nhưng chỉ có một hoặc một
số dính líu đến (quan yếu với) nghĩa tường minh của phát ngơn. Tiền giả định
do có tính chất “bất tất phải bàn cãi của nó” nên phải có quan hệ với các yếu tố
ngơn ngữ cấu thành phát ngơn, phải có những dấu hiệu ngơn ngữ đánh dấu nó.
Ví dụ các phát ngơn:
(1) - Anh ta đang lo đám tang cho bà mẹ vợ khó tính của anh ta.
(2) - Anh ta đã cai thuốc lá rồi.
Ta có: (1) có các pp’:
Pp’1: Anh ta có mẹ vợ
Pp’2: Mẹ vợ anh ta là một người khó tính
Pp’3: Mẹ vợ của anh ta vừa mới chết.

Các tiền giả định 1, 2, 3 liên quan với phát ngôn (1) và được đánh dấu
với các yếu tố ngôn ngữ “bà mẹ vợ”, “khó tính”, “đang”, “đám tang”.
(2) có tiền giả định: Trước đây anh ta hút thuốc lá. Được đánh dấu bằng
từ “cai thuốc”.
Do đặc điểm này mà tiền giả định tương đối ít lệ thuộc vào ngữ cảnh.


Hàm ngôn, trái lại không tất yếu phải được đánh dấu bởi các dấu hiệu
ngơn ngữ”. Ví dụ phát ngơn (1) nói trên có thể có hàm ngơn “anh ta đang gặp
khó khăn về tiền nong”, “anh ta rất ghét mẹ vợ của mình” hoặc “Anh ta đang
mừng thầm”. Những hàm ngôn trên không được báo trước bằng một dấu hiệu
ngôn ngữ nào trong phát ngôn tường minh. Như thế cũng có nghĩa là hàm ngơn
lệ thuộc sâu sắc vào ngữ cảnh như chúng ta nêu ra ở mục trước. Tuy không trực
tiếp nằm trong phát ngôn tường minh và nằm trong ngôn cảnh là chủ đề, hướng
lập luận, các hành động ở lời (chủ hướng, dẫn nhập và hồi đáp...) cũng cần thiết
để chúng ta xác định hàm ngôn nào là hàm ngơn dính líu, quan yếu nằm trong ý
định truyền báo của người nói.
1.1.3.3. Lượng tin và tính năng động hội thoại
Tiền giả định là những hiểu biết mà người nói và người nghe có chung,
dựa vào đó mà tạo nên ý nghĩa tường minh và hàm ngôn, cho nên nó khơng
phải là cái mới, do đó có lượng tin thấp. Trong một văn bản, những điều nói ở
tiền ngôn được xem là tiền giả định cho những phát ngôn sau, bởi vậy thông tin
mà tiền giả định cung cấp đã là quan yếu ở tiền ngôn, không cịn có thể quan
yếu đối với phát ngơn đang xem xét.
Xét trong một phát ngơn, tiền giả định khơng có hiệu quả thơng tin
nhưng vẫn có lượng tin, lượng tin này tuy không quan yếu đối với hiệu quả
thông tin của phát ngôn đang xem xét nhưng vẫn là cần thiết để lí giải hiệu quả
thơng tin của phát ngơn. Mặt khác, tiền giả định không phải bao giờ cũng có
hiệu quả thơng tin. Trong trường hợp hàm ẩn cố ý( Khơng tự nhiên) rơi vào
tiền giả định thì chính tiền giả định lại có hiệu quả thơng tin cao hơn là nghĩa

tường minh và hàm ngôn.
Vậy nên, nghĩa tường minh và hàm ngơn có tính năng động hội thoại
cao hơn là tiền giả định, có nghĩa là nghĩa tường minh và hàm ngôn (nằm trong
ý định truyền báo của phát ngôn) là một giai đoạn trong hội thoại (nguyên tắc
cộng tác của Grice), từ giai đoạn này mà hội thoại tiến lên bước mới. Ở ví dụ
(2) như trên, ta có: - Anh ta đã cai thuốc lá. Cuộc hội thoại có thể tiếp tục như
sau:
Sp2: Thế à? Anh ta cai thuốc có vất vả khơng?
Sp1: Cũng khá vất vả. Dằn vặt, thẫn thờ hằng tháng mới trở lại cuộc
sống bình thường được.
Như thế cuộc hội thoại tiến lên dựa vào nghĩa tường minh của phát ngơn
đó.
Cuộc hội thoại cũng có thể diễn biến như sau:
Sp1: Vậy anh ta có cịn vay tiền mọi người nữa khơng?


Sp2: Cũng vậy, giờ anh ta chuyển sang nghiện rượu.
Như thế cuộc hội thoại tiến lên dựa vào hàm ý: Anh ta vẫn còn vay
mượn tiền mọi người.
Tiền giả định thì khác. Tiền giả định, kể cả trường hợp tiền giả định là ý
nghĩa hàm ẩn khơng tự nhiên, có thể là một bước để tiếp tục hội thoại. Nhưng
nếu tiếp tục hội thoại dựa vào tiền giả định thì cuộc hội thoại sẽ “giật lùi”, đôi
khi luẩn quẩn, thậm chí gây ra cuộc “cãi nhau to” làm hỏng cả cuộc thoại.
Nói tóm lại, đối với một hướng hội thoại đã cho, hàm ngơn có tính năng
động hội thoại cao, nó là một bước thúc đẩy cuộc thoại tiến lên đạt đến đích,
cịn tiền giả định có tính năng động hội thoại thấp, thậm chí cản trở cuộc hội
thoại tiến lên theo đích đã cho.
1.1.3.4. Phản ứng với các dạng phát ngơn
Thứ nhất: Tính chất kháng phủ định. Tiền giả định giữ nguyên khi phát
ngôn chuyển từ dạng khẳng định sang dạng phủ định. Nó chống lại phủ định

(kháng phủ định). Tính chất kháng phủ định được xem là một phép thử tiền giả
định. Ví dụ: “Lan đã có em” là tiền giả định của câu khẳng định:
- Lan đi đón em ở trường mẫu giáo.
Tiền giả định này vẫn giữ nguyên khi phát ngôn trên bị phủ định:
- Lan khơng đi đón em ở trường mẫu giáo.
Thứ hai, tính chất bất biến khi phát ngôn thay đổi về hành động ngơn
ngữ tạo ra nó. Tiền giả định của phát ngơn xác tín vẫn giữ ngun khi phát
ngơn này chuyển sang phát ngơn hỏi, mệnh lệnh... Ví dụ, tiền giả định “Lan đã
có em” của phát ngơn xác tín khẳng định hoặc phủ định “Lan khơng đi đón em
ở trường mẫu giáo” khơng đổi nếu nói: - Lan đi đón em ở trường mẫu giáo
phải khơng?
Thứ ba, tính chất khơng thể khử bỏ. Bởi tiền giả định là điều đã được
xem là “bất tất phải bàn cãi” cho nên nó không thể loại bỏ ngay trong cùng một
phát ngôn bởi cùng một người nói ra. Khơng thể khử tiền giả định “Lan đã có
em” trong cùng phát ngơn. Ví dụ khơng thể nói: “Lan đi đón em ở trường mẫu
giáo nhưng mà Lan khơng có em”…Việc khử tiền giả định bằng những kết tử
lập luận nghịch hướng sẽ dẫn tới sự vơ nghĩa hoặc mâu thuẫn.
Đi cùng với tính chất này là tính chất khơng thể nối kết phát ngơn có
nghĩa tường minh với tiền giả định của nó. Ví dụ khơng thể nói: - Lan đi đón
em ở trường mẫu giáo và Lan đã có em. Điều này khiến cho những phát ngôn
trùng lặp, luẩn quẩn về ý nghĩa.


Đối chiếu với tiền giả định, các hàm ngôn không có những đặc điểm nói
trên:
Thứ nhất, hàm ngơn khơng giữ nguyên khi phát ngôn chuyển từ khẳng
định sang phủ định. Ví dụ với hàm ý: “anh ta khỏe ra” của phát ngôn khẳng
định “Anh ta đã cai thuốc lá” sẽ khơng cịn giữ ngun khi nói “anh ta khơng
cai thuốc lá”. Cịn hàm ngơn có thể đúng mà cũng có thể sai khi nghĩa tường
minh chuyển từ sai sang đúng (hoặc ngược lại). Hàm ngơn “anh ta khỏe ra” có

thể sai khi phát ngôn“Anh ta không cia thuốc lá” mà vẫn có thể đúng: “tuy anh
ta khơng cai thuốc lá nhưng anh ta vẫn khỏe ra”.
Thứ hai, hàm ngôn cũng không giữ nguyên khi hành động ngôn ngữ
thay đổi với ý nghĩa tường minh. Ví dụ, hàm ngơn: “ Đã trễ rồi” tồn tại trong
câu khẳng định : “Đã mười hai giờ trưa rồi” nhưng hàm ngôn sẽ mất đi đối với
câu hỏi “Đã mười hai giờ trưa rồi à?”.
Thứ ba, hàm ngơn có thể khử một cách dễ dàng nhờ kết tử đối nghịch.
Ví dụ, ta có thể nói một cách hoàn toàn tự nhiên: Anh ta đã cai thuốc lá nhưng
anh ta không khỏe ra”. Các kết tử “tuy ... nhưng”, “mặc dầu ... nhưng” chủ yếu
là để khử các hàm ngôn của một luận cứ (hay kết luận) được đưa vào phát ngơn
thành nghĩa tường minh. Tính chất này cũng dẫn tới tính chất có thể tường
minh hóa hàm ngơn cùng với nghĩa tường minh ngay trong cùng một phát ngơn
do cùng một người nói ra. Ví dụ:
Những tính chất này giúp chúng ta có thể phân biệt tiền giả định và hàm
ngôn. Trong thực tế chỉ áp dụng cho các tiền giả định và hàm ngôn nghĩa học,
không áp dụng cho các nghĩa hàm ẩn ngữ dụng học.
1.2. Cơ chế tạo hàm ý
Trong cuốn Đại cương ngôn ngữ học (tập 2), Đỗ Hữu Châu đã gọi “ý
nghĩa hàm ẩn là ý nghĩa hàm ẩn không tự nhiên, vì theo tác giả ý nghĩa hàm ẩn
khơng tự nhiên mới có giá trị hội thoại” [1;tr.377]. Và các ý nghĩa hàm ẩn
không tự nhiên được tạo ra dựa vào tất cả các quy tắc ngữ dụng từ quy tắc
chiếu vật chỉ xuất, quy tắc chi phối các hành vi ngôn ngữ, quy tắc lập luận cho
đến các quy tắc hội thoại [1;tr.377]
Theo tác giả, muốn tạo ra được ý nghĩa hàm ẩn không tự nhiên (cơ chế
tạo hàm ý) thì người nói một mặt phải tơn trọng các quy tắc này và giả định
rằng cũng biết và tôn trọng chúng, mặt khác lại cố ý vi phạm chúng và giả định
rằng người nghe cũng ý thức được chỗ vi phạm đó của mình [1;tr.377]. Ý nghĩa
hàm ẩn khơng tự nhiên xuất hiện và được lí giải chính ở chỗ vi phạm đó.
Theo đó, tác giả đã đưa ra năm cơ chế tạo ra ý nghĩa hàm ẩn: vi phạm
quy tắc chiếu vật và chỉ xuất; vi phạm các quy tắc lập luận; các hành vi ngôn

ngữ gián tiếp; vi phạm các qui tắc hội thoại; cộng tác hội thoại của Grice.


1.2.1. Sự vi phạm các qui tắc chiếu vật và chỉ xuất
Trong tiếng Việt, hệ thống các từ xưng hô trong hội thoại thì hết sức
phức tạp và tế nhị. Trong q trình giao tiếp thì cặp từ xưng hơ này phải được
giữ từ đầu đến cuối. Nếu xuất hiện một cặp hay một từ xưng hơ nào khác thì
cuộc hội thoại ấy đã có vấn đề.
Khi thực hiện hành vi chiếu vật, người nói phải cịn ý định chiếu vật và
có niềm tin chiếu vật, tin rằng người nghe có khả năng suy ý từ biểu thức
chiếu vật của mình. Nếu đốn rằng người nghe khơng suy ý được thì người nói
tìm phương thức chiếu vật khác. Cịn người nghe, trước từ ngữ của người nói
cũng phải nghĩ rằng người này đang có ý định chiếu vật, để từ đó tìm ra nghĩa
chiếu vật phù hợp.
Việc thay đổi sự chiếu vật này có hai ngun do chính: Người dùng đã
cố ý dùng sai để tạo hàm ý trong hội thoại.
Ví dụ: Trong các cuộc cãi lộn giữa vợ chồng khơng ít trường hợp người
vợ (hoặc chồng) đột ngột chuyển từ xưng hô anh/em sang anh tôi, cuối cùng là
mày/tao. Sự thay đổi cách xưng hô như vậy tỏ ra rằng có sự thay đổi trong mối
quan hệ giữa hai người mà khơng cần tun bố “tường minh” nó ra.
1.2.2. Sự vi phạm các qui tắc lập luận
Theo Đỗ Hữu Châu, cấu trúc của lập luận được biểu diễn như sau:
P – 3R
P: lí lẽ hay luận cứ
Trong đó:
3: quan hệ định hướng lập luận.
R: kết luận.
(Tùy thuộc vào hoàn cảnh giao tiếp cụ thể mà P, R có thể có cấu trúc đơn giản
hay phức tạp.)
Ví dụ:

- Cơ ta là một cô gái xinh đẹp, thông minh lại giàu có (P) vì thế cơ ta có
rất nhiều người săn đón (R).
Cũng có một vài trường hợp khi diễn ngơn, phát ngơn thì ta chỉ thấy có
phần lí lẽ hoặc kết luận, cịn phần kia thì người tiếp nhận tự rút ra. Những
trường hợp này đã vi phạm quy tắc lập luận. Chính sự vi phạm này đã tạo ra
hàm ý.
Ví dụ:


Sp1: Tối nay mình đi xem phim nhé.
Sp2: Sáng mai mình thi mà giờ mình chưa học bài nữa.
Khi nghe Sp2 trả lời như vậy thì Sp1 đã biết mình bị từ chối. Trong câu
trả lời của Sp1 ta thấy chỉ có phần luận cứ mất đi phần kết luận. Phần kết luận
trong trường hợp này người nghe phải tự rút ra.
Ngoài ra, cố ý kết hợp bất thường các thành tố lập luận và không dựa
trên cơ sở lẽ thường, sử dụng nghịch thường tác tử, kết tử lập luận cũng là cách
tạo hàm ý.
1.2.3. Sự vi phạm các qui tắc hội thoại
Ví dụ trong cuộc hội thoại sau:
Sp1: Cháu có nhìn thấy bé Lan nhà bác ở đâu khơng?
Sp2: Lúc nãy cháu có nhìn thấy chiếc xe đạp màu hồng của Lan ở quán
nét ạ.
Ở cuộc hội thoại trên, sp2 thay vì trả lời trực tiếp sp1 thì lại dùng câu
miêu tả, sp2 đã cố tình vi phạm qui tắc hội thoại chi phối chức năng ở lời của
các hành vi trong cặp hội thoại, đồng thời cũng ngầm (hàm ý) trả lời cho sp1 về
việc có nhìn thấy Lan ở quán nét.
1.2.4. Các hành động ngôn ngữ gián tiếp
Trong q trình giao tiếp, một phát ngơn khơng chỉ có một mục đích tại
lời mà có thể đồng thời hướng đến nhiều mục đích tại lời khác nhau (hành động
ngôn ngữ gián tiếp). Hành động ngôn ngữ mà trên bề mặt của ngôn từ, người

giao tiếp sử dụng cấu trúc của một hành động tại lời này nhưng lại nhằm vào
hiệu quả của một hành động tại lời khác.
Ví dụ: Khi con đi chơi tối muộn mới về nhà, người mẹ hỏi:
- Biết mấy giờ rồi không?
Rõ ràng đây là một câu hỏi nhưng câu nói của người mẹ của là hành
động khiển trách, chứ không phải là một câu hỏi về thời gian mà nghĩa trên bề
mặt ngôn từ đã thể hiện. Trong trường hợp này, người con ấy trước tiên phải
xin lỗi mẹ của mình rồi sau đó đưa ra lí do mình về muộn và hứa sẽ không tái
phạm.
1.2.5. Cộng tác hội thoại của Grice
Xuất hiện khi mà cuộc hội thoại trong diễn ngơn “có vẻ khơng bình
thường nhưng lại rất bình thường” qua diễn ngơn địi hỏi người nghe phải suy
ý thì mới hiểu được ý nghĩa thực sự của chúng, từ đó mà hồi đáp một cách ổn
thỏa đáng.


1.2.5.1. Vi phạm phương châm về chất
Phương châm này yêu cầu người nói phải nói đúng sự thật, khơng được
nói những điều mà mình tin rằng khơng đúng. Tuy nhiên, đơi khi người ta vẫn
cố tình vi phạm phương châm này để thực hiện một mục đích sâu xa nào đấy.
Xét cuộc hội thoại trong truyện cười Quả bí khổng lồ:
Hai chàng đi qua một khu vườn trồng bí. Một anh thấy một quả bí to,
kêu lên:
- Chà ! Quả bí kia to thật!
Anh bạn có tính hay nói khốc, cười mà bảo rằng:
- Thế thì đã lấy làm gì to. Tơi đã từng thấy những quả bí to hơn nhiều.
Có một lần, tơi tận mắt trơng thấy một quả bí to bằng cả cái nhà đằng kia kìa.
Anh kia nói ngay:
- Thế thì đã lấy gì làm lạ. Tơi cịn nhớ, một bận tơi trơng thấy một cái
nồi đồng to bằng cả cái đình làng ta.

Anh nói khốc ngạc nhiên hỏi:
- Cái nồi ấy dùng để làm gì mà to vậy ?
Anh kia giải thích:
- Cái nồi ấy dùng để luộc quả bí anh vừa nói ấy mà.
Anh nói khốc biết bạn chế nhạo mình bèn nói sang chuyện khác.
( Truyện cười dân gian Việt Nam)
Trong cuộc hội thoại này ta thấy, thơng tin mà hai anh nói: “quả bí to
bằng cả cái nhà và cái nồi đồng to bằng cả cái đình làng” đã cố tình vi phạm
phương châm về chất khi nói đến sự việc khơng có thực, vơ lí, thiếu tính xác
thực. Thế nhưng, ta có thể rằng anh chàng nói “cái nồi đồng to bằng cả cái đình
làng” cố tình vi phạm phương châm về chất nhằm mục địch là chế nhạo cái
tính nói khốc của bạn mình.
1.2.5.2. Vi phạm phương châm về lượng
Phương châm về lượng là cách nói đủ thơng tin, khơng thừa khơng
thiếu. Trong giao tiếp, cần nói cho có nội dung, nội dung của lời nói phải đáp
ứng được đúng yêu cầu của cuộc giao tiếp, khơng thừa, khơng thiếu. Vì khi nói
những câu nói như vậy chúng ta đã vơ tình xem thường đối tượng mà chúng ta
giao tiếp.
Với câu trả lời “Đất nước của những đồng lúa bạt ngàn, con người thân
thiện và tà áo dài thướt tha” của câu hỏi “Bạn có biết Việt Nam khơng?”, ta


thấy rằng người trả lời câu hỏi này đã đưa ra câu trả lời dài dòng hơn. Đáng lẽ
với câu hỏi này chúng ta chỉ cần trả lời có hoặc không. Với câu trả lời này,
chúng ta vẫn biết rằng người được hỏi biết Việt Nam và còn biết rất rõ nữa.
Ta còn thấy, phương châm về lượng còn yêu cầu người ta phải nói đầy
đủ sự thật, khơng được bỏ qua những chi tiết cốt lõi. Khi nghe một phát ngơn
“Hơm nay A khơng say rượu” thì chắc chắn mọi người sẽ rút ra tiền giả định là:
A vẫn thường say rượu. Nhưng nghĩa tường minh của câu này là “Hơm nay A
khơng có uống rượu”. Do chúng ta quá chú ý đến tiền giả định của câu này mà

bỏ qua nghĩa tường minh. Trường hợp như vậy, chúng ta đã vi phạm phương
châm về lượng.
1.2.5.3. Vi phạm phương châm quan hệ
Một quy tắc quan trọng khác của hội thoại nữa là nói vào đề. Trong q
trình giao tiếp, cần tập trung vào chủ đề giao tiếp, tuyệt đối khơng nói lạc đề,
lạc hướng… khi người phát ngơn nói ngoài chủ đề là vi phạm phương châm về
quan hệ. Tuy nhiên trong thực tế, vì một lí do nào đó, người nói cố ý khơng nói
vào đề mà cứ vịng vo, nói những câu dường như chẳng ăn nhập gì với vấn đề
đang diễn ra. Ví dụ như đoạn hội thoại sau:
Một vị giám khảo trong cuộc thi tìm kiếm tài năng về ca hát đã nhận xét
về một thí sinh:
- Vũ đạo của bạn rất sơi động.
Câu nhận xét của vị giám khảo ấy không phù hợp với một cuộc thi tìm
kiếm tài năng về ca hát. Ta thấy rằng, vị giám khảo ấy đã cố tình lảng tránh,
khơng nhận xét về giọng ca của thí sinh. Khi nghe nhận xét này, người nghe sẽ
phải suy ra hàm ý của vị giám khảo này rằng: giọng ca chẳng mấy gì làm tốt,
thí sinh ấy sẽ thích hợp cuộc thi về nhảy nhót hơn. Vị giám khảo này đã thể
hiện sự tế nhị trong cách nhận xét của mình về thí sinh.
1.2.5.4. Vi phạm phương châm cách thức
Yêu cầu của quy tắc cách thức là hãy nói ngắn gọn, có trật tự, tránh lối
nói tối nghĩa, nói mập mờ, mơ hồ nghĩa. Có những trường hợp chúng ta khơng
thể nói ra một cách trực tiếp, chỉ đích xác một vấn đề. Trong những trường hợp
đó người ta chọn cách nói dơng dài, lấp lửng, nói nước đơi để nhằm thực hiện
hàm ý của mình. Trong đoạn hội thoại sau:
Trong giờ giải bài tập trắc nghiệm. Cô giáo hỏi:
- Câu nào đúng?
Một học sinh trả lời: - Dê cô.


Câu trả lời của học sinh này không rõ ràng. Đúng ra phải nói đầy đủ là

“Thưa cơ là câu dê ạ” . Chính sự thiếu rõ ràng như vậy đã tạo nên một trận cười
cho các bạn trong lớp học.
1.3. Đơi nét về tác giả Tơ Hồi và Tập Truyện Tây Bắc
1.3.1. Tơ Hồi- cây đại thụ của văn học Việt Nam hiện đại
Tơ Hồi có tên khai sinh là Nguyễn Sen, sinh ngày 27 tháng 9 năm 1920
mất ngày 6 tháng 7 năm 2014. Ông sinh ra và lớn lên tại quê mẹ làng Nghĩa
Đô, Từ Liêm thuộc phủ Hồi Đức xưa (nay là phường Nghĩa Đơ, Hà Nội).
Ngồi bút danh là Tơ Hồi, ơng cịn dùng thêm nhiều bút danh khác như Vũ
Đột Kích, Mai Trang, Mắt Biển, Thái n, Hồng Hoa và Phạm Hịa. Năm
1943,Tơ Hồi gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc, bắt đầu tham gia vào các phong
trào kháng chiến chống thực dân Pháp. Từ đây, ông hoạt động chủ yếu trong
lĩnh vực báo chí, văn hố văn nghệ và đạt rất nhiều thành tựu xuất sắc. Năm
1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tơ Hồi
là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại, ông viết đủ
các thể loại: từ tiểu thuyết, truyện vừa, bút ký, ký sự, truyện ngắn, hồi ký, tự
truyện, tiểu luận phê bình, truyện viết cho thiếu nhi, cho đến cả các bài báo
ngắn, các bài điểm sách chỉ bằng một... bàn tay trẻ con. Thành công nhất của
Tơ Hồi là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống, con người vùng Tây
Bắc. Trong đó, Truyện Tây Bắc đã thể hiện nổi bật những hình ảnh đó, ngịi bút
sắc sảo và tâm hồn mến u da diết của nhà văn đã giúp ông cần mẫn trên
mảnh đất văn chương miền núi, nơi thường ít được chú ý.
Một số tác phẩm tiêu biểu: Dế Mèn phiêu lưu ký (truyện dài, 1941);
Truyện Tây Bắc (tập truyện, 1953); Tự truyện (1978);Quê nhà (tiểu thuyết,
1981); Cát bụi chân ai (hồi ký, 1992); Chuyện cũ Hà Nội (ký sự, 2010)...
1.3.2. Vài nét về tập Truyện Tây Bắc
Tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tơ Hồi được tặng giải Nhất- Giải
thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955. Với tập Truyện Tây Bắc(1953), Tơ
Hồi đã khắc họa chi tiết những nỗi đau thương, khổ nhục của những người
dân miền núi trước và trong thời kỳ cách mạng chống Pháp và áp bức nặng nề
của thực dân phong kiến.

Cả tập truyện gồm có 3 phần: Mường Giơn, Cứu đất cứu mường, Vợ
chồng A Phủ. Truyện là sản phẩm của chuyến thâm nhập thực tế, “cùng ăn,
cùng ở, cùng gắn bó” với đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc. Những trang
viết dạt dào cảm xúc, đầy ắp nỗi đau thương của chiến tranh, của áp bức mà
vẫn ngời sáng lấp lánh tia nắng của hi vọng, của tình người, tình yêu và của sự
giác ngộ. “Truyện Vợ chồng A Phủ cũng như tập Truyện Tây Bắc đã bộc lộ rõ
nét phong cách của nhà văn Tơ Hồi: màu sắc dân tộc đậm đà; chất thơ, chất


trữ tình đầm thắm; lời văn giàu tính tạo hình”- Phó giáo sư, Tiến sĩ Lê Tiến
Dũng trong Truyện Tây Bắc. “Đọc Truyện Tây Bắc, chúng ta có cảm tưởng đó
vừa là bản cáo trạng, vừa là một khúc tình ca: cáo trạng đối với phong kiến
miền núi và thực dân, tình ca ngợi khen cảnh đẹp, tập quán hay, tinh thần cách
mạng, quan hệ giữa người và người Tây bắc, như bản tình ca viết với bút pháp
trữ tình nồng đượm và nên thơ”- Giáo sư Huỳnh Lý trong Truyện tây Bắc.
Có thể nói Truyện Tây Bắc đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong
con đường sáng tạo nghệ thuật, và bộc lộ sự nhận thức đúng đắn của Tơ Hồi
về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cách mạng.

CHƯƠNG 2: CƠ CHẾ HÀM Ý TRONG TRUYỆN TÂY BẮC CỦA NHÀ
VĂN TƠ HỒI


2.1. Cơ chế của lối nói hàm ý trong tác phẩm của nhà văn Tơ Hồi
2.1.1. Sự vi phạm các quy tắc chiếu vật và chỉ xuất
Trong thực tế giao tiếp, hệ thống các từ xưng hô trong hội thoại hết sức
phức tạp, tế nhị và phong phú. Mỗi cặp từ xưng hô đều tiền giả định những
kiểu quan hệ vị thế hội thoại nhất định và sử dụng cặp từ xưng hô nào sẽ quy
định quan hệ giao tiếp cần phải giữ trong suốt cuộc hội thoại. Khi thay đổi cách
xưng hơ, tức là người nói tiền giả định một quan hệ khác thường. Đấy chính là

cách người nói cố tình tạo hàm ngơn hay nói cách khác hàm ngôn hội thoại
thường được nảy sinh khi ta thay đổi cách xưng hô.
Trong hội thoại giữa A Phủ và Cán bộ Châu, sau khi biết người lạ vào
trong nhà mình là cán bộ vào thì A Phủ ngay lập tức có sự thay đổi trong mối
quan hệ xưng hơ:
Rồi A Phủ đột nhiên hăng lên, nhảy lại trước mặt người lạ, kêu:
-Pá chính
Người lạ ấy vẫn điềm tĩnh cầm bát bột ngô. A Phủ trợn mắt:
- Tao thù mày![3,tr.198]
Ngay từ đầu, theo quan hệ giữa A Phủ và vị cán bộ, ngay từ đầu A Phủ
xưng là “ta” đầy chân chất và thiện cảm “Ăn cơm chưa? Ăn cơm hà ta
đi”[3,tr.197]. Thế nhưng ngay sau khi nhận ra người vị người lạ lại là cán bộ thì
A Phủ lại xưng “tao” gọi vị cán bộ là “mày”. Với cách xưng hơ như vậy, A Phủ
đã cốt tình vi phạm quy tắc chiếu vật chỉ xuất để ngầm ý xem vị cán bộ Châu là
kẻ thù của mình, đáng để mình thù địch và thù ghét, bởi lẽ chính cán bộ là
nguyên nhân dẫn đến A Phủ bị đánh và cướp mất lợn. Mặc dù đây là cuộc gặp
đầu tiên giữa hai người, và vị cán bộ vẫn chưa làm ra hành động xấu để bị A
Phủ lên án.
Tương tự, trong Cứu đất cứu mường sự vi phạm các quy tắc chiếu vật và
chỉ xuất còn thể hiện ở đoạn hội thoại sau:
Lúc ấy người châu đoàn từ ngoài vào, cất tiếng hỏi:
-Nói cho thật, con mẹ già kia! Nhà mày ở đâu? Thóc lúa chúng mày để
những đâu quanh cái nương này?...Con già Mường này nói rồ à? [3,tr.33].
Xét theo vị thế và quan hệ, đáng lẽ người châu đoàn phải xưng là” cháu”
và gọi “bà” hoặc là xưng “tôi” gọi “bà” khi cả hai đều là người lạ và chỉ là mới
gặp nhau. Thế những nhân vật người châu đồn đã cố tình vi phạm vi qui tắc
chiếu vật bằng cách gọi bà Ảng là “mày” và “con mẹ già” rồi đến “ con già
Mường”. Nhằm thể hiện thái độ coi khinh và hách dịch và không tôn trọng đối
với bà Ảng.



Hay trong tác phẩm Mường Giơn, ta có hội thoại sau:
Có tiếng giằng, xé, tiếng kêu, tiếng giày xơ xát ngồi rặng mần tang.
Rồi mấy thằng Tây và lính ngụy xơ chạy vào, trong khi cịn tiếng nhộn nhạo ú
ớ khác chạy ra xa.
Một bọn trèo lên nhà:
- À ông tạo bản. chỉ có hai con này thơi à?
Một mũi giày đá văng cái lồng gà ra cửa.
- Thằng tạo bản chết toi. Muốn đi Việt Minh hết à? Cu li đâu? Thằng
già này ngồi làm gì? Bắt nó đi cu li. Cút ngay, muốn sống thì cút ngay.[3,tr.75]
Ở đây tốn lính Tây và lính ngụy đã vi phạm phương châm chiếu vật và
chỉ xuất khi ngay từ đầu họ xưng ông Tạo On là “ông tạo bản” thế những ngay
sau đó họ lại thay đổi cách xưng hơ khác “Thằng tạo bản”, “thằng già” và cuối
cùng là “nó”,sự thay đổi của các xưng hô theo được đánh giá theo mức độ thiện
cảm từ cao xuống thấp một cách ác liệt và hung dữ hơn khi chỉ nhìn thấy hai
con gà trong chiếc lông sắt của ông Tạo On. Sự thay đổi cách xưng này dẫn
đến vị thế của ông Tạo On đối với chúng cũng trở nên thấp dần từ “ơng” xuống
cịn “nó”. Sự thay đổi về xưng hơ như vậy thể hiện thái độ coi thường và khinh
bỉ.
Trong Vợ chồng A Phủ, câu hỏi của A Sử khi thấy Mỵ đang chuẩn bị đi
chơi Tết “Mày muốn đi chơi à?”[3,tr.177] đã khiến cho người đọc nhận thấy rõ
được thái độ và mối quan hệ giữa hai nhân vật Mỵ và A Sử. Xét trong mối quan
hệ và vị thế thì Mỵ là con dâu trong nhà nhà thống lí Pá Trá và A Sử lại là
chồng của cơ, như vậy đáng lẽ ra A Sử nên xưng “anh” và gọi Mỵ là “em”( thể
hiện thái độ tôn trọng, tình cảm cảm vợ chồng). Thế nhưng ở đây, A Sử lại gọi
Mỵ là “mày” ngầm tiết lộ là cả hai người không phải là vợ chồng mà là mối hệ
giữa người ở và chủ, thể hiện thái độ của người trên đối với kẻ dưới.
2.1.2.Sự vi phạm các qui tắc lập luận
Như chúng ta đã biết, một lập luận đầy đủ bao gồm có luận cứ và kết luận.
Tuy nhiên trong quá trình giao tiếp do một vài nguyên nhân nào đó mà người

nói cố tình lược bớt đi một phần để người nghe tự rút ra, nói theo cách này thì
người nói đã tạo ra hàm ý. Bên cạnh đó, việc kết hợp bất thường về nghĩa giữa
các thành tố lập luận cũng là cách tạo được hàm ý độc đáo. Trong tác phẩm của
mình, Tơ Hồi đã vận dụng một cách linh hoạt quy tắc này để tạo ra hàng loạt
câu văn mang hàm ý.
Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, có đoạn thống lí Pá Tra đến nhà Mỵ và
muốn bố của Mỵ đem Mỵ làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí. Thì ngay lập
tức Mỵ đã nói:


“- Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô trả nợ
thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”.[3,tr.171].
Khi nghe mình phải sang nhà thống lí Pá Tra làm con dâu gạt nợ thì Mỵ
ngay lập tức đưa ra luận cứ “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải
làm nương ngô trả nợ thay cho bố” điều này dựa trên cơ sở lẽ thường là giờ con
đã lớn, có thể giúp bố làm nương làm ngô, giúp bố trả nợ vậy nên cuối cùng
Mỵ kết luận “Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Câu kết luận khơng được nói ra
một cách tường minh, đòi hỏi người nghe phải căn cứ vào luận cứ để rút ra kết
luận ngầm ẩn. Kết luận đó thể hiện hàm ý của câu nói là “Con khơng muốn làm
dâu nhà thống lí Pá Tra” thể hiện thái độ thẳng thừng của Mỵ.
2.1.3. Vi phạm qui tắc cộng tác hội thoại
2.1.3.1. Vi phạm phương châm về lượng
Như chúng ta đã biết, phương châm lượng yêu cầu: “hãy nói sao cho có
nội dung đáng nói, đừng nói nhiều hơn cái nội dung đáng nói” và phải cung cấp
cho người nghe những thông tin mới mẻ. Tuy nhiên, trong quá trình giao tiếp,
vì một mục đích nào đó mà cả người nói cố tình đưa lượng thơng tin nhiều hơn
hoặc ít hơn cần thiết để truyền tải ý của mình và làm cho người nghe phải suy ý
mới có thể nắm bắt một cách hồn tồn và chính xác. Khi người nói cố ý vi
phạm điều này để tạo ra một loại ý nghĩa mới ta gọi đó là hàm ý. Trong tác
phẩm của mình, Tơ Hồi đã vi phạm phương châm lượng theo dạng vừa thừa

vừa thiếu thông tin, nhằm nhấn mạnh hàm ý tố cáo sự tàn bạo, khốc liệt của chế
độ cường quyền ở vùng núi Tây Bắc.
Về đến nhà, A Phủ lẳng vai ném nửa con bó xuống gốc đào trước cửa,
Pá Tra bước ra hỏi:
-Mất mấy con bị?
A Phủ trả lời tự nhiên:
-Tơi về lấy súng thế nào cũng bắn được con hổ này to lắm.
Pá Tra hất tay, nói:
-Qn ăn cướp làm mất bị tao. A Sử! Đem súng đi lấy con hổ về.
[Vợ chồng A Phủ,tr.187]
Lời đáp của A Phủ đã vi phạm phương châm về lượng, khi trả lời thiếu
thông tin cần thiết nhất của câu hỏi: Số lượng bò bị mất “mất mấy con bò?” của
Pá Tra. A Phủ đã lờ yêu cầu của Pá Tra. Lời đáp có chủ ý thừa thông tin so với
yêu cầu của hỏi: A Phủ khơng nói về số bị bị mất mà nói đến cơng việc dự
định và niềm tin của mình “Tơi về lấy súng thế nào cũng bắn được con hổ này
to lắm”. Cách trả lời của A Phủ có độ khơn khéo ngầm thừa nhận với hàm ý


thừa nhận việc mình để mất bị vì bị con hổ ăn mất. Bên cạnh đó, A Phủ cịn
nói đến dự định của mình “ Cho tơi đi. Được con hổ cịn nhiều tiền hơn con
bị” nhằm “lấy cơng chuộc tội”. Cách nói hịng chuộc tội, làm giảm cơn giận dữ
của Pá Tra. Câu trả lời của A Phủ chứa nhiều hàm ý, nhằm mục đích hướng Pá
Tra đến lợi ích lớn hơn con bò bị mất, lợi ích ấy A Phủ có thể mang lại để lấy
cơng chuộc tội.
Trong Mường Giơn, Mát hỏi Sạ:
-Tưởng anh lên núi săn sơn dương?
-Trời xuống sương thế này thì mai đi tìm nai chắc được hơn.[3,tr.47]
Sạ không trực tiếp trả lời câu hỏi của Mát mà trả lời “Trời xuống sương
thế này thì mai đi tìm nai chắc được hơn”, chứng tỏ Sạ cố tình vi phạm phương
châm về lượng khi nói lượng thông tin nhiều hơn so với yêu cầu. Thế những

người nghe vẫn có thể hiểu được hàm ý của Sạ là “mai anh sẽ đi săn nai” thông
qua luận cứ “ Hôm nay trời xuống sương” nên không thể săn nai.
2.1.4. Vi phạm hành động ngôn ngữ gián tiếp
Hành động ngôn ngữgián tiếp là những câu thực hiện hành động ngoài
lời một cách gián tiếp bằng một hành động khác.
Trong tác phẩm Mường Giơn, trước những câu hỏi ngay thơ Ính về việc
những người góa khơng có thóc ăn và không kiện quan mường, Mát và Sạ
không trực tiếp trả lời mà:
Bây giờ Mát mới nói:
Mày thử về hỏi người già xem sao?
Sa cười:
Không được!Việc này phải hỏi bộ đội. Phải đi hỏi bộ đội xem làm sao
các quan Mường lại để khổ người ở góa thế?[3,tr.49]
“Phải đi hỏi bộ đội xem làm sao các quan Mường lại để khổ người ở
góa thế?” của Sạ có hình thức là một câu hỏi nhưng mục đích khơng phải bảo
Ính hỏi bộ đội mà là hành động trêu chọc của Sạ dành cho cơ em vợ của mình.
Điều này dựa vào tiền đề là bản thân Ính từng nói “phải đi hỏi bộ đội. Em thấy
nhiều người nói cái gì khơng biết, cứ đi hỏi bộ đội thì biết hết”[3,tr.47]. Trước
lời trêu đùa của Sạ thì “ tự dưng Ính cứ cười giịn tan”[3,tr.49], chứng tỏ Ính
cũng đã hiểu được hàm ý mà Sạ muốn thể nói.
2.2. Tác dụng của các cơ chế tạo hàm ý trong tập Truyện Tây Bắc
2.2.1. Thể hiện thái độ của nhà văn


Tơ Hồi khơng trực tiếp phát ngơn đi những truyền ngơn của mình về
cuộc sống, về văn chương nghệ thuật,... nhưng ẩn kín đằng sau những lời thoại
đầy dằn vặt, đau đớn của các nhân vật là quan niệm, thái độ là nỗi đau của tác
giả. Chẳng hạn như lời tâm sự đầy đau đớn và nước mắt của nhân vật Sạ lúc
nghĩ tới làng Dao ở bờ suối bị Pháp hủy diệt trong khi Mường Giơn đã trở lại
cảnh thái bình “Chẳng cịn một bóng người Dao ở làng Phàng Chải ra suối

kiếm cá. Làng Phàng Chải chỉ còn sót lại có một cây hoa mai ở lưng núi…
Những nhà Dao và Xá ở ven suối thiếu ăn quanh năm, nhưng lúc nào cũng miệt
mài chở đò, đi giao thông, đưa cán bộ đi giấu…Cây hoa mai trắng tinh trên
sườn núi chỉ biết đứng yên. Nó như cái cây mặc quần áo trắng tang để trở bố
mẹ. Cánh hoa là nước mắt, nước mắt bảo người sống trả thù cho nó”[3,tr.221].
Hàm ý trong câu thể hiện nỗi đau, mất mát của Sạ trước cảnh mất nhà mất
nương, mất đi người thân từ đó nhà văn đồng cảm với số phận của người dân
Tây Bắc- nơi vùng núi đẹp hoang sơ nhưng lại phải chịu cảnh áp bức bóc lột
đến tận cùng. Thái độ căm ghét với chế độ phong kiến và thực dân Pháp của Tơ
Hồi góp phần tạo nên giá trị cho tác phẩm.
2.2.2. Tăng tính tạo hình cho lời văn
Cơ chế tạo hàm ý trong lời thoại của nhân vật trong tập Truyện Tây Bắc
đã diễn tả lại cuộc sống của người lao động nghèo miền núi Tây Bắc hết sức
tinh tế và trau chuốt từng cảnh sinh hoạt, thói quen truyền thống của người dân
lao động nới đây. Tơ Hồi rất chủ động với ngịi bút của mình, sử dụng nó một
cách thành thạo. Khi miêu tả cảnh đẹp, một cuộc vui, khơng khí gia đình ấm áp
thì ơng khơng ngại nói nhiều,kết cùng với lối nói hàm ý trong từng lời văn tự
sự và hội thoại của nhân vật , ông đã đưa mà sắc, hình ảnh, âm thanh của tiếng
trống, tiếng kèn, tiếng sáo vào khiến cho đoạn văn trởn nên một bức tranh đầy
thơ giàu chất trữ tình nhưng cũng kém phần sâu sắc. Khi miêu tả tâm lí , ơng
thành thạo phân tích. Khi nói về khơng khí nổi dậy chống bọn lính thục dân,
phong kiến thì lời văn khúc chiết, dồn dập.

KẾT LUẬN


Tóm lại với các cơ chế tạo hàm ý trên, tác giả đã vẽ ra trước người đọc
hiện thực cuộc sống miền núi Tây Bắc đầy sinh động. Bằng một ngịi bút tả
chân độc đáo ơng đã phản ánh thực trạng một xã hội bị áp bức, con người khát
vọng thay đổi cuộc sống, họ vùng lên bảo vệ quê hương của chính mình . Tơ

Hồi là một tài năng độc đáo trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông đã để
lại cho đời một di sản văn học vô cùng đồ sộ và phong phú với tất cả các thể
loại từ thiếu nhi cho đến những chuyến hành trình thực tế của mình trong q
trình ơng đi cơng tác ở Tây Bắc.
Nhờ việc khảo sát các cơ chế tạo hàm ý trong tác phẩm của ông mà
chúng tôi hiểu được một cách đầy đủ về tư tưởng, cách sống của những nhân
vật sâu sắc hơn và hiểu tác phẩm tồn diện hơn. Và thơng qua đề tài này, chúng
tơi thấy được tấm lịng địng cảm, cuộc sống khổ đau của đồng bào miền núi
dưới ách của bọn thực dân và tay sai phong kiến của nhà văn Tô Hồi. Có thể
nói, chỉ có đến với tác phẩm Tơ Hồi thì người đọc mới tìm thấy được hiện
thực đầy sinh động với phong tục tập quán làng quê Tây Bắc. Tơ Hồi xứng
đáng là cây đại thụ của nền văn học hiện đại Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Đỗ Hữu Châu(2007), Đại cương ngôn ngữ học, Tập 2, Nhà xuất bản giáo
dục.
2. Đỗ Hữu Châu(2003), Giáo trình cơ sở ngữ dụng học- Tập 1,Nhà xuất bản
giáo dục.
3. Tơ Hồi(2020),Truyện Tây Bắc, Nhà xuất bản Kim Đồng.
4. Hồng Phê( chủ biên)(2017), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Hồng Đức.
5. Nguyễn Khắc Phi( Tổng chủ biên)(2011),Ngữ văn 9-Tập 2, Nhà xuất bản
giáo dục Việt Nam.
6. Nguyễn Thị Bảo Trinh(2012), “Cơ chế tạo hàm ý trong tác phẩm của Vũ
Trọng Phụng”,Luận văn tốt nghiệp nghành đại học,Trường Đại học Cần Thơ.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................ 1
1. Lí do chọn đề tài................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu................................................................................1

3. Mục đích nghiên cứu.........................................................................................2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................3
6. Bố cục................................................................................................................. 3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI.............................4
1.1. Hàm ý và các thuật ngữ liên quan.................................................................4
1.1.1. Khái niệm về nghĩa tường minh và hàm ẩn(hàm ý)................................4
1.1.2. Phân loại tổng quát nghĩa hàm ẩn...........................................................5
1.1.3. Hàm ngôn và tiền giả định.......................................................................6
1.2. Cơ chế tạo hàm ý..........................................................................................10
1.2.1. Sự vi phạm các qui tắc chiếu vật và chỉ xuất.........................................11
1.2.2. Sự vi phạm các qui tắc lập luận.............................................................11
1.2.3. Sự vi phạm các qui tắc hội thoại............................................................12
1.2.4. Các hành động ngôn ngữ gián tiếp........................................................12
1.2.5. Cộng tác hội thoại của Grice..................................................................12
1.3. Đơi nét về tác giả Tơ Hồi và Tập Truyện Tây Bắc....................................15
1.3.1. Tơ Hồi- cây đại thụ của văn học Việt Nam hiện đại............................15
1.3.2. Vài nét về tập Truyện Tây Bắc................................................................15


CHƯƠNG 2: CƠ CHẾ HÀM Ý TRONG TRUYỆN TÂY BẮC CỦA NHÀ
VĂN TƠ HỒI....................................................................................................17
2.1. Cơ chế của lối nói hàm ý trong tác phẩm của nhà văn Tơ Hồi...............17
2.1.1. Sự vi phạm các quy tắc chiếu vật và chỉ xuất........................................17
2.1.2.Sự vi phạm các qui tắc lập luận..............................................................18
2.1.3. Vi phạm qui tắc cộng tác hội thoại.........................................................19
2.1.4. Vi phạm hành động ngôn ngữ gián tiếp.................................................20
2.2. Tác dụng của các cơ chế tạo hàm ý trong tập Truyện Tây Bắc...................20
2.2.1. Thể hiện thái độ của nhà văn................................................................21
2.2.2. Tăng tính tạo hình cho lời văn...............................................................21

KẾT LUẬN..........................................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................23


×