Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Nguồn gốc chữ i và chữ y trong tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.86 KB, 8 trang )

Nguồn gốc chữ i và chữ y trong chữ việt

Lời nói đầu:
Trong cuốn Tự Điển Tiếng Việt do Viện Ngôn Ngữ Học biên soạn và do nhà xuất bản Đà
Nẵng xuất bản và phát hành năm 2002, ở chương "Nội dung và cấu tạo của quyển tự
điển", tiết 4, trang XIII có đoạn ghi:

«Chính tả trong quyển tự điển này theo đúng các Quy định về chính tả tiếng Việt và về
thuật ngữ tiếng Việt trong các sách giáo khoa, được ban hành theo Quyết định số 240/QĐ
ngày 5-3-1984 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục.

Nguyên âm "-i" cuối âm tiết được viết bằng –i (viết hi, ki, li, mi, ti thay cho hy, ky, ly,
my, ty) trừ "-uy" (/-wi/) vẫn viết –uy (luy, tuy, ...) để phân biệt với –ui (so sánh: sui –
suy, tui – tuy) và giữ sự thống nhất với –uyên, -uyêt, -uyt. Những từ đa tiết mượn của
tiếng nước ngoài bằng phiên âm nói chung được viết liền các âm tiết và không đánh dấu
thanh điệu (trừ trường hợp có dấu hiệu về hình thức là đã được Việt hoá hoàn toàn về ngữ
âm, chẳng hạn như có các thanh điệu Huyền: xà phòng, hoặc Sắc: phó mát, v.v...).»]

Rồi

[«gần đây một nhà văn bày tỏ thêm ý kiến như sau:

"Việt Nam Tự Điển" của hội Khai Trí Tiến Đức, do nhà xuất bản Trung Bắc Tân Văn ấn
hành tại Hà Nội năm 1931 phân biệt khá rõ rệt trường hợp nào viết với chữ I và trường
hợp nào viết với chữ Y.

Những hội nghị về chữ quốc ngữ tại Saigon, điển hình là "Hội Nghị Thống Nhất Ngôn
Ngữ" (1956) hay những ủy ban chuyên môn nghiên cứu về chữ quốc ngữ để nêu ra
nguyên tắc chính tả, như "Ủy Ban Điển chế Văn tự" (1973) đều nhấn mạnh cần sử dụng
bộ "Việt Nam Tự Điển" của hội Khai Trí Tiến Đức làm tiêu chuẩn. Tiếc là không mấy ai
chú ý đến những lời khuyến cáo này.



Để rồi vẫn viết sai nhiều chữ mà tưởng là mình viết đúng. Trong đó có trường hợp lẫn lộn
giữa chữ I và chữ Y. Lâu dần, sự sai lầm đó trở nên phổ quát hầu như không thể nào sửa
lại được nữa cho những người quen dùng.

Nay chúng tôi biên soạn bộ sách giáo khoa "Chúng Em Cùng Học". Ban Tu Thư của
trường Việt Ngữ Văn Lang San Jose dựa theo nguyên tắc chính tả trong bộ tự điển của
hội Khai Trí Tiến Đức để giúp các em bớt khó khăn khi ráp vần và viết chính tả với chữ I
và chữ Y.

Xin nêu ra đây những nhận định tiêu biểu :

I. Về chữ i.

Chỉ viết chữ i khi i ngắn là nguyên âm duy nhất trong một tiếng hay một từ như:

Trước kia viết: Nay sẽ viết:

lý do............................ lí do
địa lý........................... địa lí
đi tỵ nạn ..................... đi tị nạn
một tỷ đồng................. một tỉ đồng
v. v. . .
II. Về chữ y.

Chỉ viết chữ y dài trong những trường hợp sau đây :

1. Tự nó (chữ y) là một tiếng có đủ nghĩa như :
chú ý ngồi ỳ
ý kiến y phục

ỷ lại v. v. . .

2. Tuy y và i đồng âm nhưng khác nghĩa khi ráp vần. Cho nên vần mà có nguyên âm y
dài phải được sử dụng chính xác, không thể viết lẫn lộn với nguyên âm i ngắn được như :

• Từ có vần:

- nước chảy (ay) không thể viết nước chải (ai)
- ngày nay (ay) không thể viết ngài nai (ai)
- say túy lúy (uy) không thể viết say túi lúi (ui)
- cô Thúy (uy) không thể viết cô Thúi (ui)
- v. v. . .

3. Với y dài hay i ngắn của danh từ riêng về người, về địa danh v. v. . . trước sau không
thay đổi như :

Nguyễn Ngu Í (tên nhà văn)
Lý Thường Kiệt (tên một danh tướng)
Mỹ Tho (tên một tỉnh)
Mỹ Quốc (tên một nước)
v . v . . .

Chúng tôi hi vọng con em chúng ta sẽ không còn bối rối khi nào viết i ngắn và khi nào
viết y dài.»]
Nguồn: Trích từ bộ sách “Chúng Em Cùng Học” của Trung Tâm Việt Ngữ
Văn Lang – San Jose ()

Nguồn gốc hai chữ I và Y trong quốc âm

Nhân hai tài liệu trên đây, tôi lục trong tủ sách gia đình, tìm ra tài liệu liên quan - rất thú

vị - đến nguồn gốc hai chữ I và Y trong Việt ngữ, gõ lại nguyên văn đăng lên đây cùng
chia xẻ với các bạn. Tài liệu này do LM Nguyễn Khắc Xuyên biên soạn, đăng trong Văn
Hoá Nguyệt San số 61, trang 519-526, Sàigòn tháng 6 năm 1961. (người gõ bài: Hàn Lệ
Nhân)

[«Đã nhiều lần, khi tìm hiểu nguồn gốc hai chữ I và Y, chúng tôi đã tự hỏi: Tại sao ở chỗ
này không viết chữ I, hoặc ở chỗ nọ lại viết chữ Y, bởi vì nếu nhiều trường hợp bó buộc
phải viết một trong hai chữ, thì cũng có nhiều hoàn cảnh rất có thể và rất nên viết chữ I
thay vì chữ Y. Dựa theo nguyên tắc, mỗi ký hiệu mỗi công dụng, mỗi chữ một biểu hiệu,
chúng tôi đã nhiều lần muốn cải tổ.

Hơn nữa, hình như, trong thực tế và dưới óc sáng kiến của nhiều người, chữ Y chiếm
được thiện cảm và được sử dụng trong khá nhiều trường hợp, mặc dù rất ít căn bản. Có
người viện lý do thẩm mỹ, bởi vì chữ Y dễ coi hơn, đẹp hơn, đường nét uyển chuyển hơn,
nhất là khi đứng ở cuối một tiếng; có người khác đã đưa ra những lý do hầu như thuộc
chủ quan: trong trường hợp có thể viết được cả hai chữ, hoặc Y hay I, thì người ta dã
chọn chữ Y khi tiếng đó có ý nghĩa trang trọng, cao sang.

Vậy để soi sáng vấn đề, chúng tôi thử tìm hiểu nguồn gốc hai chữ đó và việc sử dụng
chúng trong âm vận Việt ngữ.

Trước hết, chúng tôi trình bày mấy giòng trích trong cuốn Việt ngữ Khái luận, thường gọi
là quyển Văn phạm Việt nam của giáo sĩ Đắc-lộ, in bằng tiếng La-tinh tại Rôma năm
1651. Bởi vì tài liệu này là văn kiện in đầu tiên bàn giải về Việt ngữ và sự thành lập chữ
mà chúng ta gọi là quốc ngữ, nên nó có một địa vị và một giá trị đặc biệt.

Đoạn nói về chữ I, tác giả đã viết:

«Chữ I chỉ dùng làm nguyên âm mà thôi, bởi vì tất cả công dụng của J phụ âm thì đều lấy
ở chữ G, còn nguyên âm thì như trong tiếng của chúng ta.


Song để tránh sự lẫn lộn thì chúng tôi chỉ dùng nguyên âm ở giữa và ở cuối một tiếng, ở
giữa thí dụ:
biết và ở cuối thí dụ: bí.

Tuy nhiên, nên biết rằng, chúng tôi sẽ dùng chữ Y vào cuối một tiếng, khi nguyên âm
ghép tách ra, thí dụ ấy, còn khi chúng tôi viết với nguyên âm I thì là dấu không tách biệt
ra, thí dụ: ai.

Chúng tôi không dùng hai chấm trên nguyên âm để tránh nhiều dấu quá.

Chúng tôi nhắc lại một lần là đủ, I ở cuối và ssau một nguyên âm khác thì không làm
thành một âm khác tách biệt, song khi viết Y Hy-lạp thì bấy giờ sẽ tách biệt âm, thí dụ:
Cai, Cây.

Còn ở đầu nhất là trước nguyên âm khác, thì chúng tôi dùng chữ Y Hy-lạp kẻo có người
coi như phụ âm, thí dụ: Yếu, Yả.» (1)

Để cặn kẽ bàn giải về vấn đề nguồn gốc hai chữ Y và I chúng tôi không làm gì hơn là chú
giải bản văn 1651.

Tại sao I vừa là phụ âm vừa là nguyên âm?

Trước hết, chúng ta nên nhớ lại điểm này, là trong vấn đề thàng lập chữ quốc ngữ theo
cha Đắc-lộ, tiếng La-tinh có một địa vị quan trọng hơn các tiếng khác. Giáo sĩ Đắc-lộ
thường nại tới La-ngữ và đã có lần coi Việt ngữ, về cách đọc, gần La-ngữ hơn cả. Bởi
vậy khi tác giả phân biệt I vừa là phụ âm, vừa là nguyên âm thì ngài đã đối chiếu với La-
ngữ. Nhưng trong La-ngữ chúng ta thấy gì ? Các tự điển cũng như văn phạm La-ngữ đều
nói rằng: La-ngữ không phân biệt I với J và thường lẫn I phụ âm với I nguyên âm ( coi:
G. Cayrou, Grammaire latine, Armand Colin, Paris 1952, trang 1 số 3; F. Gaffiot,

Dictionnaire illustré Latin-Français, Hachette, Paris 1934, trang 865). Trong các sách
bằng tiếng La-tinh, có sách người ta chép rõ rệt, nghĩa là khi là phụ âm thì viết là J, còn
khi là nguyên âm thì viết là I, thí dụ: Judicare, juger, xét xử; Justitia, justice, sự công
bằng; Indicare, indiquer, chỉ; Implorare, implorer, kêu cầu... Song cũng có nhiều sách,
nhất là theo khuynh hướng hiện đại (một phần nào) người ta hình như bỏ chữ J mà chỉ
giữ có chữ I. Như vậy chữ I vừa là phụ âm vừa là nguyên âm, thí dụ lấy ở trên: Iudicare
thay vì Judicare, Iustitia thay vì Justitia, hoặc người ta viết Iniustitia injustice, thay vì
Injustitia. Tự điển của Albert Blaise, Dictionnaite Latin-Français des auteurs chrétiens,
chez l'auteur, 119 Bld St Germain, Paris 1954 đã bỏ hẳn chữ J và chỉ có chữ I thay cho cả
nguyên âm lẫn phụ âm. Như vậy, chúng ta có thể phỏng đoán, giáo sĩ Đắc-lộ và có lẽ thế
kỷ XVII người ta theo một cách viết nghĩa là dùng chữ I cho cả hai nguyên âm và phụ
âm. Bởi đó tác giả cuốn Khái luận Việt ngữ mới bắt đầu bàn về chữ I bằng một tôn chỉ
như trên chúng ta đã thấy. Điểm này rất mực quan trọng, có thể như làm nền tảng cho
việc phân biệt I hay Y của chúng ta sau này.

Vậy theo giaó sĩ Đắc-lộ thì ngài bãi bỏ hẳn chữ J – do đó trong vần quốc âm, chúng
ta không dùng chữ J. Nhưng để thay thế, vẫn theo tác giả, chúng ta dùng chữ G như đã
thấy trong mục nói về chữ G này. Hậu quả là khi trong vần Việt ngữ, chúng ta viết chữ I
thì chỉ hiểu về nguyên âm mà thôi, và không dính dáng gì với phụ âm như trong vần La-
ngữ.

Một tôn chỉ: Dùng chữ I ở đâu?

Giáo sĩ Đắc-lộ, sau khi đã phân biệt như trên, đã nêu lên một tôn chỉ, đó là dùng chữ I ở
giữa và ở sau một tiếng và tác giả ra thí dụ: như chữ biết, chữ bí. Thực ra tôn chỉ này
không tuyệt đối như chúng ta thấy sau.

-
Dùng ở giữa một tiếng: Chúng ta được biết rằng có nhiều tiếng phải dùng với Y
chứ không I vì luật phát âm bó buộc, thí dụ chúng ta không thể viết Thuiền, nhưng

Thuyền; huiền, nhưng Huyền. Trong cuốn Khái luận Việt ngữ, chính tác giả đã phải
đính chính thuiền ra thuyền. Thực ra, trừ trường hợp do luật phát âm đòi hỏi, thì
chúng ta dùng I chứ không Y
.

- Dùng ở cuối một tiếng: Nguyên tắc này cũng không tuyệt đối, bởi vì có một định
luật về phát âm thúc bách không thể cưỡng lại được. Bởi vậy, chính tác giả, tiếp ngay đó
đã phải đặt ra một nguyên tắc khác về việc sử dụng I hay Y ở cuối một tiếng. Nguyên tắc
ấy tóm tắt như sau: Vẫn theo tác giả, khi "nguyên âm ghép tách ra" thì phải viết Y, thí dụ
ay, ấy, còn khi "không tách ra" thì viết I, thí dụ ai, vai... Như vậy, cần phải viết Y để
phân biệt với những tiếng khác , thí dụ:

- vai và vay

- quai và quay

- cai và cay

- mai và may...

cũng như phân biệt:

- hui và huy

- hủi và hủy

- ủi và ủy

- thụi và thụy...


(Thực ra, người ta có thể viết
ấi thay vì ấy, đấi thay vì đấy bởi vì không sợ lẫn với tiếng
nào khác. Tuy nhiên ở đây hẳn có một luật phát âm nào chi phối chăng?)

Một sự cải cách: Không dùng hai chấm

Trong một ít tài liệu viết tay cổ vào những năm 1645, 1654, 1659, người ta thấy các soạn
giả viết chữ I hai chấm (ï) thay cho Y thí dụ
Mầï thay vì Mầy, Vậï thay vì Vậy, Lậï thay
vì Lậy... Trái lại trong nhiều chữ không cần Y mà lại dùng Y, thí dụ Ngôy thay vì Ngôi,
Blờy thay vì Blời, có bản còn viết Ngôÿ, Blờÿ... Tựu trung, viết hai chấm ở trên chữ I ở
cuối một chữ như vậy, phải chăng là để phân biệt một âm khác, nghĩa là đọc tách ra như
thể ký hiệu hai chấm vẫn có nghĩa ấy khi đặt trên một nguyên âm La-tinh nào, thí dụ
Aër,
air = không khí. Lý do của giáo sĩ Đắc-lộ khi tuyên bố không dùng hai chấm, đó là để
tránh sự phiền phức về vấn đề các dấu đã khá phiền toái trong việc phiên âm Việt ngữ.
Như vậy, vẫn theo ý tác giả thì chữ Y thay cho hoặc có thể thay cho I hai chấm, nghĩa là
dùng Y như vậy thì có thể tránh được hai chấm.

Nguồn gốc chữ Y ở đâu?

Ngày nay, một cách phổ thông và bình dân, chúng ta gọi Y là I dài để phân biệt với I là I
ngắn. Nhưng có thể gọi như đã có người và có thời kỳ người ta gọi theo người "Âu-
Mỹ" là Y gờ-rét hoặc Y gờ-rếch, không dè rằng "gờ-rét" hay " gờ-rếch" có nghĩa là
Hy-lạp, bởi chữ Pháp "grec". Nhưng một điều kỳ lạ, đó là trong tiếng Hy-lạp, thực

×