Tải bản đầy đủ (.doc) (164 trang)

Hàm ý và phương thức biểu thị hàm ý trong tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (668.33 KB, 164 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Tất cả
những vấn đề được trình bày và giải quyết; những kết luận trong luận án
đều chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
NGUYỄN THỊ TỐ NINH
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
MỞ ĐẦU
0.1. Lý do chọn đề tài
Khái niệm hàm ý cùng lý thuyết hàm ngôn hội thoại của H.P. Grice
được đánh giá là một bước tiến quan trọng của ngôn ngữ học, mới ra đời
cách đây non nửa thế kỷ. Tuy nhiên, việc sử dụng hàm ý để chuyển tải
những thông tin mà vì một số lý do nhất định, người ta không tiện hoặc
không nên nói thẳng ra là một hiện tượng bình thường trong thực tế, hẳn đã
có ngay từ những cuộc giao tiếp đầu tiên trong xã hội văn minh. Trong các
công trình của mình, H.P. Grice nhận xét: trong giao tiếp, nhiều khi chúng
ta “nói điều này nhưng thật ra muốn nói một điều khác”. Đồng tình với ý
kiến này, Hoàng Phê – người đầu tiên giới thiệu và vận dụng lý thuyết của
H.P. Grice vào nghiên cứu tiếng Việt, bổ sung: “Hằng ngày sử dụng ngôn
ngữ, lắm khi chúng ta nói một điều này, nhưng lại muốn cho người nghe từ
đó hiểu ra một điều khác, hoặc hiểu thêm một điều khác nữa” [58, 93].
Thậm chí, ông cho rằng: “Khi một lời nói có hàm ngôn thì ý hàm ngôn
thường là quan trọng, thậm chí, có khi hiển ngôn chỉ là dùng để nói hàm
ngôn, ý hàm ngôn là ý chính” [58, 93]. W.A. Davis (2005) cũng khẳng
định vai trò của việc nghiên cứu loại nghĩa hàm ẩn này trong ngôn ngữ học:
“Hàm ngôn hội thoại đã trở thành một trong những chủ đề chính của ngữ
dụng học.”
Không chỉ có tác dụng trong giao tiếp hằng ngày, hàm ý còn có giá trị
sử dụng rất lớn trong các hoạt động chính trị, ngoại giao và sáng tác văn
học. Bởi vậy, từ khi có những phát hiện của H.P. Grice, đặc biệt là từ sau


khi ông hoàn thiện và công bố chúng trong tập bài giảng ở Đại học Harvard
(1967), cuốn Logic và hội thoại (1975) và bài báo Ghi chú thêm về logic và
hội thoại (1978), giới nghiên cứu đã tập trung khai thác rất nhiều vấn đề
xung quanh khái niệm hàm ý, các loại hàm ý và phương thức biểu thị hàm
ý. Tuy nhiên, vấn đề phân loại hàm ý chưa đạt được sự thống nhất cao giữa
các nhà nghiên cứu, việc xem xét phương thức biểu thị hàm ý chủ yếu giới
hạn ở việc sử dụng một số biểu thức ngôn ngữ (tạo hàm ý ngôn ngữ) và
một số biện pháp vi phạm phương châm giao tiếp (tạo hàm ý hội thoại).
Đặc biệt, việc nghiên cứu hàm ý trong sáng tác văn học chưa được đầu tư
thỏa đáng nên kết quả chưa có chiều sâu. Phần lớn các nhà văn, nhà nghiên
1
cứu, phê bình văn học mới dừng ở việc khai thác các chi tiết, hình tượng
nghệ thuật từ kinh nghiệm cá nhân. Ngược lại, phần lớn các nhà ngôn ngữ
học tự bằng lòng giới hạn nghiên cứu của mình trong phạm vi ngôn ngữ
học đơn thuần, chưa làm rõ được mối quan hệ giữa những kiến giải của lý
thuyết hàm ngôn hội thoại với lĩnh vực văn học.
Tình hình trên đòi hỏi phải tiếp tục làm rõ hơn những vấn đề chưa có sự
thống nhất cao, chưa có điều kiện đi sâu để góp phần phát triển nhận thức
chung về hàm ý, phương thức biểu thị hàm ý và khả năng ứng dụng những
kiến giải này vào thực tế. Đó là lý do thúc đẩy chúng tôi thực hiện đề tài
luận án Hàm ý và phương thúc biểu thị hàm ý trong tiếng Việt.
0.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
0.2.1. Về khái niệm hàm ý
Khái niệm “hàm ngôn hội thoại” được Herbert Paul Grice “thai
nghén” từ cuối những năm 50 của thế kỷ XX rồi hoàn thiện trong phác thảo
thuyết hàm ngôn mà ông đưa vào tập bài giảng William James khi đang
giảng dạy tại Đại học Harvard năm 1967. Ngay từ đầu, các vấn đề về hàm
ngôn trong tập bài giảng William James đã có ảnh hưởng rất lớn nhưng có
lẽ phải một thời gian, sau khi cuốn Logic và hội thoại (1975) và bài báo
Ghi chú thêm về logic và hội thoại (1978) ra đời thì thuyết hàm ngôn hội

thoại của Grice mới thực sự trở thành “một trong những chuyên luận kinh
điển” của ngữ dụng học.
Phần lớn công trình Logic và hội thoại của Grice tập trung vào việc
làm rõ sự khác biệt (về mặt trực giác) giữa “cái được diễn tả bằng lời”
trong câu nói và “cái được gợi ý” (hoặc nói bóng gió) trong câu nói. Để chỉ
“cái được gợi ý” này, Grice (1975; 1978) đã sử dụng các thuật ngữ mới là
“hàm ý” (implicate) và “hàm ngôn” (implicature); đồng thời, ông xem phần
được mã hóa ngôn ngữ của phát ngôn là “cái được nói đến”. Ông cho rằng,
tổng số “cái được nói đến trong câu” và “cái được hàm ý” trong cùng một
câu nói đó được gọi là “các ý nghĩa biểu hiện của một phát ngôn” [96].
Phát hiện của Grice đã mở ra một trào lưu mới trong nghiên cứu ngôn
ngữ. W.A. Davis (2005) khẳng định: “Hàm ngôn hội thoại đã trở thành một
trong những chủ đề chính của ngữ dụng học.”
Cho đến nay, có thể nói các công trình nghiên cứu ngữ dụng học đã
đạt được quan niệm thống nhất về hàm ý như sau:
2
(1) Hàm ý là phần nghĩa hàm ẩn (nghĩa hàm ngôn) không được thể
hiện trên bề mặt câu chữ của phát ngôn nhưng được suy ra từ nghĩa tường
minh (nghĩa hiển ngôn) và hoàn cảnh giao tiếp.
Quan niệm này không chỉ được thể hiện trong các tác phẩm của Grice
mà còn được thể hiện rõ trong những tài liệu vận dụng lý thuyết của ông
như các công trình của O. Ducrot (1972), G. Yule (1997), Hoàng Phê
(1989), Nguyễn Đức Dân (1996), Hồ Lê (1996), Cao Xuân Hạo (1998),
Nguyễn Thiện Giáp (2000), Đỗ Hữu Châu (2005),… Chẳng hạn, O. Ducrot
quan niệm: “Thực chất của hàm ngôn là nói mà coi như không nói, nghĩa là
nói một cái gì đó mà không vì thế nhận trách nhiệm là đã có nói, có nghĩa
là vừa có hiệu lực nói năng vừa có sự vô can trong im lặng” (Dẫn theo [58;
98 – 100]); Hồ Lê (1996) viết: “Hàm ý là tất cả những ý nghĩa, tình thái
hàm ẩn mà người phát ngôn ký thác vào phát ngôn nhưng nằm ngoài ý
nghĩa hiển hiện của phát ngôn, trong đó có việc biểu thị những sở chỉ khác

với những sở chỉ mà hiển nghĩa của phát ngôn biểu thị” [44; 335]; Nguyễn
Thiện Giáp (2000) thì giải thích: “Hàm ý chính là những gì người nghe
phải tự suy ra qua phát ngôn, để hiểu đúng và đầy đủ ý nghĩa của phát ngôn
đó” [19; 136].
(2) Hàm ý là phần có giá trị thông tin thuộc nghĩa hàm ẩn, đối lập với
tiền giả định (TGĐ) là phần không có giá trị thông tin.
H.P.Grice (1975) phân biệt nghĩa hàm ẩn tự nhiên (natural meaning)
với nghĩa hàm ẩn không tự nhiên (non-natural meaning). O. Ducrot thống
nhất với quan niệm của Grice nhưng thể hiện sự phân biệt đó bằng các
thuật ngữ “hàm ngôn” và “tiền giả định” (TGĐ). Ông coi TGĐ là một hình
thức hàm ngôn quan trọng, là hàm ngôn nằm trực tiếp trong bản thân
“nghĩa từ ngữ” của lời (Dẫn theo [58; 98]).
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu đều có chung quan niệm: TGĐ là
loại nghĩa hàm ẩn nhưng là nghĩa hàm ẩn không có giá trị thông báo [10];
[12]; [26]; [58]. Theo các tác giả, sự đối lập giữa “cái đã biết” và “cái mới”
theo phân đoạn thực tại câu sẽ cho phép vạch ra một sự đối lập khác, rộng
hơn, trong cấu trúc ngữ nghĩa của lời; đó là sự đối lập giữa phần không có
giá trị thông báo (gồm có TGĐ và cái đã biết trong hiển ngôn) và phần có
giá trị thông báo (gồm cái mới trong hiển ngôn cùng với hàm ngôn). Vì
vậy, nếu coi TGĐ là hàm ngôn (tức là phần có giá trị thông báo) sẽ “không
3
thể thấy được mối quan hệ có tính quy luật hết sức quan trọng giữa TGĐ,
hiển ngôn và hàm ngôn, mối quan hệ chi phối nội dung của hàm ngôn” [58;
99].
Mặc dù đã đạt được sự thống nhất cơ bản như trên, giữa các nhà
nghiên cứu vẫn còn những khác biệt tương đối lớn và có thể coi đây là
những điểm chưa rõ trong lý thuyết hàm ngôn hội thoại, cần được tiếp tục
nghiên cứu thêm.
Sự khác nhau trước hết là cách dùng thuật ngữ. Khi nghiên cứu thuyết
hàm ngôn hội thoại của Grice cũng như vận dụng nó vào việc tìm hiểu một

vấn đề ngôn ngữ cụ thể, hầu hết các nhà nghiên cứu đều sử dụng thống
nhất thuật ngữ “hàm ý” (implicate) với tư cách động từ và thuật ngữ “hàm
ngôn” (implicature) với tư cách danh từ. Có thể thấy rõ điều này qua một
số phân tích, nhận xét, đánh giá và kết quả nghiên cứu của các nhà ngữ
dụng học như: Harnish (1976), Leech (1983), J. Lyons(1995) W.A. Davis
(1998), (2005), Kent Bach (2005),… Chẳng hạn, trong một nghiên cứu về
hàm ngôn, Harnish (1976) cho rằng câu Bill và Tom di chuyển cái đàn
“hàm ý” (implicates) một cách chung chung rằng “Bill và Tom chuyển cái
đàn cùng với nhau”. Tương tự, Leech (1983: 91) “lưu ý rằng John làm đứt
tay ai đó hàm ý “John không tự cắt vào tay mình” […] Nhưng một lời
khẳng định tương tự như John làm gãy tay thì không thể hàm ý sai (fails to
implicate) là “John không làm gãy tay mình”. Ngược lại, nó hàm ý rằng
“John đã làm gãy tay mình” (Dẫn theo[96]).
Ngoài các thuật ngữ trên, nhiều nhà nghiên cứu còn dùng động từ to
imply thay cho implicate (hàm ý). Chẳng hạn, Jenny Thomas (1995), đã
chứng minh phần nào “sự năng động” giữa hai động từ này: “Học thuyết
của Grice được xây dựng nhằm giải thích quá trình mà bằng cách nào đó,
người nghe đi từ lớp ý 1 đến lớp ý 2, từ điều được nói tới điều được hàm ý
(what is implied)” [144; 60]; hay: “Có hai điều mà chúng ta cần ghi nhớ.
Thứ nhất là, người nói có thể hàm ý (imply) điều mà người ấy biết là không
đúng và người nghe có thể hiểu chính xác điều người nói hàm ý (what a
speaker has implied) mà không nhất thiết tin vào nó. Thứ hai là, thuyết của
Grice cố gắng lý giải quá trình người ta đi từ lớp ý được diễn đạt tới lớp ý
được hàm ý (implied). Nhiều người hiểu lầm công trình của Grice do thực
tế là người ta cứ cho rằng ông đang lý giải cách thức hình thành suy luận,
4
hơn là việc hàm ngôn được tạo ra và hiểu như thế nào” [144; 61). Khi đặt
vấn đề phân biệt các khái niệm “muốn nói”, “nói” và “hàm ý”, các tác giả
Adrian Akmajian, Richard A. Demers, Ann K. Farmer và Robert M.
Harnish (1997) đã viết: “Như chúng ta đã thấy, người nói có thể muốn

truyền đạt nhiều hơn cái mà họ nói. Một loại giao tiếp đặc biệt và thú vị đã
được khảo sát bởi Grice dưới tên gọi hàm ngôn hội thoại (conversational
implicature), gọi như thế là do cái được ám chỉ (what is implied) hay như
Grice thích nói là được hàm ý (implicated)) đã được hàm ý nhờ vào sự việc
người nói và người nghe đang hợp tác đóng góp vào cuộc đàm thoại ” [93;
381).
Trong một số công trình, kể cả công trình của Grice (1975), “hàm ý”
còn được dùng như một danh từ, với hai biến thể “implicating” và
“implication”, trong đó “implication” được sử dụng nhiều hơn cả.
Ở Việt Nam, trong các công trình ngữ dụng học, có tình trạng cùng
một hiện tượng được gọi bằng những thuật ngữ khác nhau và ngược lại,
cùng một thuật ngữ lại được hiểu theo những nội dung khác nhau, phản ảnh
quan niệm rộng, hẹp khác nhau ở mỗi nhà nghiên cứu. Chẳng hạn, thuật
ngữ “hàm ý” được dịch và hiểu tương đương với thuật ngữ “hàm ngôn”
trong ngôn ngữ học nước ngoài nhưng trong nghiên cứu, mỗi tác giả lại đặt
cho loại nghĩa hàm ẩn này một tên gọi khác nhau như: “hàm ngôn”, “ẩn ý”,
“ngụ ý”, “dụng ý”, “hiểu ngầm”, “ám chỉ”,… Có thể thấy rõ điều này qua
các công trình của các tác giả tiên phong trong lĩnh vực ngữ dụng học ở
Việt Nam như Nguyễn Đức Dân (1987), Hoàng Phê (1989), Đỗ Hữu Châu
(2003),…
Cùng với những khác biệt trong sử dụng thuật ngữ, các nhà nghiên
cứu ngữ dụng học còn thể hiện quan niệm khác nhau về phạm vi của hàm
ý. Phần đông các tác giả có xu hướng giới hạn hàm ý ở nghĩa miêu tả
(nghĩa mệnh đề) [10]; [12]; [19]; [26]; [58], chỉ có một số ít tác giả cho
rằng nghĩa tình thái cũng có thể là hàm ý ([31]; [44]).
H.P.Grice và nhiều tác giả nước ngoài theo học thuyết của ông như
Horn (1989), Levinson (1983; 1987b; 2000), George Yule (1997),… hay
một số tác giả theo lý thuyết về tính quan yếu như D. Sperber& D. Wilson
(1995), Carston (2002) và các nhà nghiên cứu ở Việt Nam như Hoàng Phê,
Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Đức Dân,… đều thống nhất dựa vào mức độ phụ

5
thuộc vào hoàn cảnh giao tiếp để phân biệt hai loại hàm ý là hàm ý quy ước
và hàm ý hội thoại. Tuy nhiên, theo cách phân loại này, ranh giới giữa
TGĐ, dẫn ý với hàm ý quy ước cũng vẫn còn là vấn đề gây tranh luận trong
các thuyết giao tiếp Hậu Grice và Tân Grice [96]; [130]; [133],… Bên cạnh
đó, sự phân biệt hàm ý quy ước với hàm ý hội thoại tuy rất quan trọng
nhưng vẫn chưa phản ánh được đầy đủ các khía cạnh rất phong phú của
hiện tượng hàm ý trong hoạt động giao tiếp ngôn ngữ của con người. Một
tác giả Việt Nam là Hồ Lê đã đề xuất phân loại hàm ý theo khu vực tình
thái mà người nói ký gửi vào phát ngôn [44; 139 – 143], nhưng theo chúng
tôi, ranh giới của các loại hàm ý trong cách phân loại này rất mờ nhạt,
khiến người học khó nhận diện đối tượng.
0.2.2. Về phương thức biểu thị hàm ý
Theo nhiều công trình nghiên cứu ngữ dụng học, hàm ý được biểu thị
bằng hai phương thức sau:
a) Vi phạm quy tắc ngữ dụng hay quy tắc hội thoại
Hầu hết, các nhà nghiên cứu đều dựa vào các quy tắc ngữ dụng (quy
tắc chiếu vật, chỉ xuất, quy tắc chi phối các hành vi ngôn ngữ…) và các quy
tắc hội thoại – đặc biệt là nguyên tắc cộng tác (cooperative principle) của
H.P.Grice và lý thuyết quan yếu (relevance theory) của D. Sperber và D.
Wilson – làm cơ sở để khái quát phương thức biểu thị hàm ý. Các tác giả
cho rằng: sự vi phạm các nguyên tắc giao tiếp của H.P. Grice và lý thuyết
quan yếu của D. Sperber và D. Wilson là một phương thức hữu hiệu nhất
để tạo hàm ý hội thoại. Chẳng hạn, Đỗ Hữu Châu (2005) coi “hàm ý là các
hành vi ngôn ngữ không được điều khiển đúng quy tắc giao tiếp”; Cao
Xuân Hạo (1998) coi hàm ý là “sản phẩm” của “sự cố tình vi phạm các
nguyên tắc hội thoại”.
b) Sử dụng một số phương tiện từ ngữ và cấu trúc phát ngôn
Việc sử dụng một số phương tiện ngôn ngữ mang tính chất đặc thù
(như: liên từ, phó từ chỉ thời, thể, các động từ tình thái, các cấu trúc phát

ngôn đặc thù…) cũng được các tác giả coi là phương thức biểu thị hàm ý
(hàm ý quy ước). Chẳng hạn, dùng liên từ “và” để nối hai sự tình (mệnh
đề) trong phát ngôn sẽ mang lại cho phát ngôn hàm ý về quan hệ nhân -
quả; dùng phó từ “đi” trong một số trường hợp sẽ biểu thị hàm ý: sự thay
đổi trạng thái của sự vật nằm ngoài mong muốn của người nói [31; 267-
6
272]; dùng một số động từ tình thái trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất
định có thể tạo cho câu nói hàm ý “các hành động hay quá trình ấy có diễn
ra thật” hay “hành động hay quá trình ấy không diễn ra” [26; 521 – 533]
hay “câu có chủ đề tương phản, nó có thể mang hàm ý phận cực đảo
(reversed polarity implicature)” (thuật ngữ của Chungmin Lee)” [31; 201].
Hai phương thức biểu thị hàm ý nói trên được khẳng định trong hầu
hết các công trình nghiên cứu về hàm ý. Tuy vậy, các tác giả mới dừng ở
sự trình bày khái quát với một số ví dụ đơn giản. Chắc chắn là nhận thức
này sẽ phải được phát triển với những phân tích sâu hơn, cụ thể hơn.
0.3. Tính thời sự của đề tài
Từ cuối thế kỷ XX, ngôn ngữ học đã chuyển hẳn sang nghiên cứu về
hoạt động của các đơn vị ngôn ngữ trong giao tiếp mà một trong những
trọng tâm là ngữ nghĩa ngữ dụng của các đơn vị này, vì nói như Whorf thì
“thực chất của ngôn ngữ học chính là tìm hiểu nghĩa”([Dẫn theo[58, 94]).
Đến bây giờ, hầu như không có công trình nào về nghĩa chỉ giới hạn phạm
vi nghiên cứu ở hệ thống tĩnh về nghĩa của từ như trước mà không bàn về
nghĩa của từ trong hoạt động giao tiếp, nghĩa của câu/phát ngôn và những
vấn đề ngữ dụng học khác như diễn ngôn, hành vi ngôn ngữ, phương châm
giao tiếp …
Nghiên cứu về hàm ý và các phương thức biểu thị hàm ý là đề tài nằm
trong xu hướng trên. Thực hiện đề tài này, người nghiên cứu có điều kiện
tìm hiểu mối quan hệ giữa hàm ý với các khái niệm khác về nghĩa của
câu/phát ngôn vốn được xác định trên những bình diện phân tích khác như
nghĩa mệnh đề/nghĩa tình thái, chủ đề/thuật đề,… Điều này nói lên tính thời

sự của đề tài.
0.4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
0.4.1. Về phương diện lý luận, đề tài là cơ hội để làm sáng tỏ thêm
những đặc trưng cơ bản của hàm ý trên cả hai phương diện khái niệm và
phương thức biểu thị; góp phần vào việc nghiên cứu quy tắc chung của
giao tiếp – một trong những vấn đề mà ngữ dụng học đặc biệt quan tâm.
0.4.2. Về phương diện thực tiễn, kết quả nghiên cứu của đề tài có thể
được sử dụng để bổ sung cho giáo trình ở bậc đại học, sách giáo khoa ở
trường phổ thông, góp phần hướng dẫn người nói, người viết nâng cao chất
lượng sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp hằng ngày và giúp người đọc có
7
phương pháp tiếp nhận tác phẩm văn học một cách chắc chắn hơn, khoa
học hơn. Kết quả của đề tài cũng có thể là gợi ý cho công việc của những
người sáng tác.
0.5. Đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án này là hàm ý và phương thức biểu thị
hàm ý trong tiếng Việt. Phạm vi nghiên cứu là các hình thức diễn ngôn
khác nhau, từ những cuộc thoại (đối thoại, đơn thoại) đến văn bản, bao gồm
các văn bản báo chí và nghệ thuật. Vì vậy, đơn vị mà chúng tôi dựa vào đó
tìm hiểu đối tượng nghiên cứu không chỉ là đoạn thoại trực tiếp có chứa từ
hoặc phát ngôn thuộc kiểu được xét – phát ngôn có hàm ý, mà còn là các
chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án là:
- Hệ thống hóa và phát triển các vấn đề lý luận hữu quan về phát ngôn,
cơ cấu nghĩa của phát ngôn, khái niệm hàm ý, ranh giới và mối quan hệ của
hàm ý với các loại nghĩa khác của phát ngôn trong hoạt động giao tiếp trên
cơ sở tư liệu tiếng Việt và những kết quả nghiên cứu mới của giới nghiên
cứu.
- Phân loại hàm ý từ nhiều bình diện khác nhau.
- Hệ thống hóa và bổ sung các phương thức tạo hàm ý trực tiếp, hàm ý

gián tiếp trong tiếng Việt.
0.6. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
0.6.1. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được áp dụng trong luận án này
là phương pháp phân tích ngữ cảnh.
Theo nhận thức chung, ngữ cảnh (hoàn cảnh giao tiếp) bao gồm văn
cảnh xuất hiện phát ngôn được xem xét (tức là những phát ngôn đứng trước
và đứng sau phát ngôn đó), những tri thức nền về ngôn ngữ, văn hóa và
những mảng hiện thực khách quan ngoài ngôn ngữ tạo điều kiện cho việc
tiếp nhận phát ngôn.
Bàn về vai trò của ngữ cảnh trong việc tạo lập và tiếp nhận nghĩa của
phát ngôn, M.A.K. Halliday cho rằng: ‘‘Sự lựa chọn hình thức ngôn ngữ bị
chi phối bởi môi trường văn hóa […]; nghĩa của từ và nghĩa của câu bị quy
định bởi ngôn cảnh.” (Dẫn theo [20, 45]). J.R. Firth viết: ‘‘Tất cả các lời
nói đều bị hạn chế bởi phong tục xã hội, truyền thống văn hóa, giá trị đạo
8
đức’’ (Dẫn theo [20, 45]). Còn Hymes thì khẳng định: ngữ cảnh đóng vai
trò quan trọng trong việc ‘‘giới hạn cách hiểu có thể có được’’ và ‘‘hỗ trợ
cho cách hiểu theo dự định’’ (Dẫn theo [23, 67]).
Bởi vậy, trong luận án này, để xác định hàm ý mà người phát ngôn
muốn gửi đến người nghe (người đọc), các phát ngôn đều được đặt trong
ngữ cảnh mà nó xuất hiện. Ví dụ, để hiểu người nói có hàm ý gì khi dẫn
câu thơ Trẻ em như búp trên cành, cần xem câu ấy xuất hiện trong hoàn
cảnh nào, với những từ ngữ kèm theo nó như thế nào. So sánh:
(1) (Thấy bạn đang đánh con, A nói:)
- Này ông ơi, “trẻ em như búp trên cành” đấy!
(2) (Nghe B tâm sự về sự “đầu tư” cho con cái trong năm học mới:
Chẳng biết quan điểm của ông thế nào chứ với tôi, riêng việc đầu tư cho
học hành của con cái là tôi không tiếc, A đáp:)
- Ừ, “trẻ em như búp trên cành” mà!

(3) (Nghe B kêu ca, phàn nàn về sự tốn kém tiền nong khi con bắt đầu
vào năm học mới, A nói:)
- Trẻ em như búp trên cành đấy!
Ở (1), phát ngôn Trẻ em như búp trên cành có hàm ý nhắc nhở, phê bình
người bạn về cách giáo dục con cái; ở (2), phát ngôn này mang hàm ý đồng
tình với quan điểm của B về việc đầu tư cho chuyện học hành của con cái;
còn ở (3), phát ngôn của A lại là sự chia sẻ và động viên đối với B.
Trong nhiều trường hợp, để hiểu đúng hàm ý của phát ngôn, ta không
chỉ dựa vào hoàn cảnh cụ thể của cuộc giao tiếp mà còn phải dựa vào một
bối cảnh rộng lớn hơn. Ví dụ, để hiểu hàm ý trong lời nhân vật Mai nói với
người yêu cô là Lộc ở trích đoạn dưới đây từ tiểu thuyết Nửa chừng xuân
của Khái Hưng, cần phải đặt phát ngôn của cô vào diễn biến câu chuyện
giữa hai người và bối cảnh xã hội Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám
1945 :
(4) Lộc: - Em cứ đùa! Anh xin em để anh nói chuyện việc nhà với em.
Mai: - Chuyện việc nhà cậu ư? [157, 151]
Chuyện tình giữa hai người tóm tắt như sau: Lộc là con quan Án sát,
yêu Mai – một cô gái nhà nghèo. Khi gặp sự phản đối của mẹ – bà Án, Lộc
hoang mang trước chữ “hiếu” và chữ “tình”. Là một người mang tư tưởng
Âu Tây, Lộc hy vọng sẽ thuyết phục được mẹ mình. Anh nhờ người đóng
9
giả vai bà Án để đến hỏi Mai làm vợ. Một thời gian sau, kế hoạch của Lộc
bị Huy – em trai Mai – phát hiện. Mai sống trong đau khổ, dằn vặt vì bị lừa
dối. Nhưng rồi tình cảm chân thành của Lộc dành cho cô, tình yêu và sự
hàm ơn trong cô đã giúp cô có nghị lực để sống, để “trả ơn” Lộc. Về phần
Lộc, càng ngày anh càng ân hận, áy náy về việc làm của mình. Một hôm,
anh quyết định tổ chức đi chơi để nói hết sự thật với Mai. Dường như đoán
được ý định của Lộc và cũng muốn quên đi nỗi đau, Mai cố gắng cười thật
nhiều và nói chuyện thật nhiều. Nhưng rồi khi nghe câu nói của Lộc, nỗi
đau vì bị xúc phạm ùa về khiến Mai không kìm nổi lòng mình. Việc cô

chuyển cách xưng hô quen thuộc em - anh sang cậu trong hoàn cảnh này đã
tạo cho phát ngôn hàm ý xa cách và báo hiệu sự rạn nứt trong tình cảm của
hai người. Bởi nghĩa gốc của đại từ nhân xưng cậu trong hoàn cảnh cụ thể
này (chỉ người con trai những gia đình tầng lớp trên với ý coi trọng) đã hàm
ý khoảng cách giữa Mai và Lộc bị kéo ra xa (trên cả trục quan hệ và trục vị
thế). Có lẽ ý thức được điều này mà sau câu nói của Mai, vì là người có lỗi
nên Lộc chỉ biết “ứa nước mắt không trả lời” còn Mai lại hối hận xin lỗi Lộc
vì đã “lỡ lời”.
Trong quá trình phân tích ngữ cảnh, ở những chỗ thích hợp, chúng tôi sẽ
sử dụng phối hợp các phương pháp thống kê, phân loại, so sánh.
0.6.2. Nguồn tư liệu
Do gặp khó khăn trong việc tìm tư liệu bằng biện pháp ghi âm, ghi hình
nên ngoài một số tư liệu có được do quan sát thực tế trong giao tiếp hằng
ngày, chúng tôi chủ yếu sử dụng những đoạn thoại mô phỏng đối thoại trực
tiếp ngoài đời thực, một số chi tiết của tác phẩm báo chí, văn chương. Tác
phẩm văn chương được chọn là tác phẩm của một số tác giả tiêu biểu, tác
phẩm được dạy trong nhà trường, tác phẩm được dư luận đánh giá là có văn
phong diễn đạt mới lạ. Trong một số trường hợp cần thiết (để so sánh, đối
chiếu hoặc minh chứng cho quan điểm của tác giả), chúng tôi có mượn lại
một số ví dụ đã dẫn trong các tài liệu nghiên cứu về ngữ dụng học trong,
ngoài nước. Tổng số 185/2.750 tư liệu được chọn để phân tích, miêu tả
trong luận án được lấy từ những nguồn trên.
0.7. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận án gồm 3 chương:
10
Chương 1 hệ thống hóa và phát triển một số khái niệm xuất phát làm
cơ sở để triển khai đề tài.
Chương 2 tập trung miêu tả các loại hàm ý, làm chỗ dựa để phân tích
phương pháp biểu thị hàm ý trong chương tiếp theo.
Ở Chương 3, trên cơ sở điểm lại danh sách các phương thức biểu thị đã

được tổng kết trong các công trình ngữ dụng học, chúng tôi mạnh dạn đề
xuất và miêu tả một số phương thức biểu thị hàm ý thường dùng trong
tiếng Việt, gắn với văn hóa Việt.
11
CHƯƠNG 1
CÁC KHÁI NIỆM XUẤT PHÁT
1.1. Phát ngôn
Theo John Lyons, thuật ngữ phát ngôn (tiếng Anh: utterance; tiếng
Pháp: enonce) có thể biểu thị một quá trình hoặc thành phẩm, tức là được
dùng để chỉ hoạt động phát ra câu nói hoặc chính sản phẩm của hoạt động
ấy. Nhưng trong trường hợp bình thường, có thể hiểu phát ngôn “là cái mà
một số nhà triết học ngôn ngữ gọi là thành phẩm (inscription), nghĩa là
chuỗi các ký hiệu được ghi lại trong một loại phương tiện vật chất nào đó.
Ví dụ, một phát ngôn nói thường được ghi lại […] bằng phương tiện âm
thanh; một phát ngôn viết thì được ghi lại bởi một phương tiện thích hợp
nào đó mà thị giác có thể xác định được […]. Phát ngôn có thể được coi
như là tín hiệu (signals) được truyền từ người nói sang người nghe – hay
khái quát hơn, là từ người phát sang người nhận – theo một kênh thích hợp
nào đó.” [40, 53].
Trong hệ thống của John Lyons, phát ngôn là một thành phẩm của hoạt
động giao tiếp tương đương với câu nhưng ở bình diện lời nói. Đây cũng là
quan điểm gặp ở nhiều nhà nghiên cứu khác. Chẳng hạn, các ý kiến của các
tác giả I. I. Kovtunova: “Câu xét về mặt giao tiếp được gọi là phát ngôn”
(Dẫn theo [5, 4 - 5]); Hoàng Trọng Phiến: “Câu là cái trừu tượng còn phát
ngôn là cái cụ thể, câu là bất biến thể, phát ngôn là biến thể, các phát ngôn
làm chức năng hiện thực hóa các mô hình cú pháp của câu, đồng thời là
phương thức tồn tại của mô hình đó.” [60, 13]; Đỗ Hữu Châu: “Khái niệm
phát ngôn không phủ định khái niệm câu. Nói chung, phát ngôn được xây
dựng trên câu. Không có câu thì không có phát ngôn. Tuy nhiên, câu không
trùng với phát ngôn. Một câu có thể ứng với một số phát ngôn” [8, 12];

Diệp Quang Ban: “Phát ngôn được hiểu là một hành động giao tiếp, một
đơn vị thông báo mà người nghe có thể tiếp nhận được trong điều kiện giao
tiếp bằng ngôn ngữ nhất định. Câu là cái tương đối ổn định, nằm trong các
phát ngôn cụ thể và chỉ được rút ra từ các phát ngôn cụ thể qua việc nghiên
cứu chúng. Chính cái tính chất ổn định tương đối giúp ta giữ phát ngôn ở
thế đứng yên để mà nghiên cứu, để mà phân tích và phát hiện ra cái gọi là
câu.” [2, 11 - 12]; Nguyễn Minh Thuyết: “Câu là đơn vị ngôn ngữ, tức là
12
đơn vị trừu tượng chỉ có thể nhận thức được thông qua các biến thể trong
lời nói. Các biến thể này gọi là phát ngôn. Một mô hình trừu tượng của câu
ở bậc ngôn ngữ có thể ứng với một vài phát ngôn. Các phát ngôn này khác
nhau về thành phần từ vựng cụ thể, sự lấp đầy hay bỏ trống các vị trí trong
mô hình, trật tự các thành tố” [22, 266 - 267].
Ngược lại, cũng có những tác giả như Skalicka, Harris,… tuy thống nhất
xếp phát ngôn vào cấp độ lời nói nhưng cho rằng kích thước của nó không
xác định: có thể tương đương với một từ hay cả một cuốn tiểu thuyết (Dẫn
theo [2, 14]). Đây cũng là quan điểm của tập thể tác giả cuốn Từ điển giải
thích thuật ngữ ngôn ngữ học. Theo các tác giả này, phát ngôn là “đơn vị
thông báo có tính hoàn chỉnh về ý và có thể được người nghe tiếp nhận trong
những điều kiện nhất định của giao tiếp ngôn ngữ. Một phát ngôn là một ngữ
đoạn, tương ứng với một xung động nào đấy. Do đó, khối lượng của một
phát ngôn có thể rất khác nhau. Đôi khi phát ngôn chỉ gồm một từ nhưng nó
cũng có thể là một cuốn tiểu thuyết, hay một luận cảo khoa học. Tính trọn
vẹn của phát ngôn đạt được không chỉ nhờ các ký hiệu ngôn ngữ mà còn nhờ
sự kết hợp các ký hiệu ngôn ngữ với những ký hiệu khác có tính phi ngôn
ngữ” [92, 199].
Cuối cùng, có những nhà nghiên cứu quan niệm phát ngôn thuộc cấp độ
ngôn ngữ, có kích thước lớn hơn câu. Chẳng hạn, theo nhà ngôn ngữ học
Tiệp Khắc I. Danex, chúng ta không nên đồng nhất khái niệm phát ngôn
với các hành động lời nói cũng như với câu như là một cấu trúc cú pháp.

Phát ngôn và các sơ đồ của phát ngôn đều thuộc vào hình thức có tính hệ
thống của ngôn ngữ. Phát ngôn được xếp vào một cấp độ đặc biệt của hệ
thống ngôn ngữ đứng trên cấp độ câu (Dẫn theo [5, 5]).
Có thể nhận thấy khái niệm phát ngôn theo cách hiểu thứ 2 và thứ 3 đã
được ngôn ngữ học ngày nay biểu thị bằng một thuật ngữ khác là diễn
ngôn. Bởi vậy, trong công trình này, chúng tôi quan niệm phát ngôn là biến
thể của câu trong hoạt động giao tiếp, tức là một đơn vị thuộc cấp độ lời
nói, có kích thước bằng câu.
1.2. Cơ cấu nghĩa của phát ngôn
Theo Ch. Bally, nghĩa phát ngôn gồm hai thành phần cơ bản: phần ngôn
liệu (dictum) và phần tình thái (modus). Ngôn liệu là thành phần biểu thị
nội dung sự tình ở dạng tiềm năng, còn tình thái là thành phần thể hiện
13
những nhân tố như ý chí, thái độ, sự đánh giá của người nói đối với điều
được nói ra (xét trong quan hệ với thực tế, với người đối thoại và hoàn
cảnh giao tiếp). Tương tự, Fillmore quan niệm cơ cấu nghĩa của phát ngôn
bao gồm hai thành phần: “thành phần mệnh đề (được hiểu như tập hợp
những quan hệ có tính phi thời [tenseless] giữa các động từ và danh từ),
phân biệt với thành phần tình thái gồm các loại ý nghĩa có liên quan đến
toàn bộ câu [the sentence-a-whole] như phủ định, thì, thức và thể.” (Dẫn
theo [31, 88]).
Một số tác giả khác như F. R. Palmer dựa theo lý thuyết hành động lời
nói (theory of speech acts) phân tích cơ cấu nghĩa của phát ngôn thành
hành động tại lời (illocutionary acts) và hành động tạo lời (locutionary
acts). Còn Hare quan niệm nghĩa của phát ngôn gồm 3 thành phần:
phrastic, tropic và neustic. Tuy nhiên, như chính Palmer giải thích, sự đối
lập giữa hành động tại lời với hành động tạo lời rất gần gũi với đối lập giữa
hai thành phần nội dung mệnh đề và tình thái của Ch. Bally: “Trong hành
động tại lời, chúng ta nói về một điều gì đó, còn trong hành động tạo lời,
chúng ta làm một cái gì đó như trả lời câu hỏi, thông báo một phán quyết,

khuyến cáo hoặc hứa hẹn.” (Dẫn theo [31, 88]). Về các thuật ngữ của Hare
thì phrastic tương đương với nội dung mệnh đề hay nội dung sự tình, ngôn
liệu… theo cách gọi của tác giả khác; còn tropic “trong khá nhiều ngôn ngữ
được ngữ pháp hóa (grammaticalization) ở cấp độ thức”, và neustic “thể
hiện sự cam kết, bảo đảm của người nói liên quan đến tính thực hữu, sự
mong muốn,…của nội dung mệnh đề được truyền đạt”, đúng như nhận xét
của J. Lyons (Dẫn theo [31, 89]).
Bên cạnh sự phân biệt nội dung mệnh đề (nghĩa mệnh đề) với tình thái
(nghĩa tình thái) hay hành động tại lời với hành động tạo lời, phrastic với
tropic và neustic, ngữ dụng học còn phát hiện nhiều cặp đối lập khác về
nghĩa, như: đối lập giữa nghĩa chủ đề với nghĩa thuật đề, giữa nghĩa tường
minh với nghĩa hàm ẩn. Trong công trình này, chúng tôi sẽ sử dụng cả ba
cặp đối lập với quan niệm đó là kết quả của những bình diện phân tích khác
nhau đối với nghĩa của phát ngôn, cụ thể là:
- Phân biệt nghĩa mệnh đề với nghĩa tình thái là phân biệt trên cơ sở đối
chiếu nội dung các bộ phận phát ngôn với hiện thực.
14
- Phân biệt nghĩa chủ đề với nghĩa thuật đề là phân biệt trên cơ sở xem
xét quan hệ giữa nội dung các bộ phận phát ngôn với giá trị thông báo của
chúng.
- Phân biệt nghĩa tường minh với nghĩa hàm ẩn là phân biệt trên cơ sở
xem xét quan hệ giữa nội dung các bộ phận phát ngôn với cách thức biểu
hiện chúng.
1.3. Nghĩa mệnh đề và nghĩa tình thái
1.3.1. Nghĩa mệnh đề
Nghĩa mệnh đề (propositional meaning) là một thành tố của nghĩa phát
ngôn, biểu thị nội dung sự tình ở dạng tiềm năng. Nó phản ánh sự tri nhận
và kinh nghiệm của con người về thế giới.
Theo nghĩa hẹp, nghĩa mệnh đề “chính là cái nghĩa đen cơ sở của phát
ngôn do các từ riêng biệt và cấu trúc của phát ngôn tạo ra” [21, 269]. Cách

hiểu này thể hiện rõ trong quan niệm về nghĩa mệnh đề của R. A. Jacobs và
M. A. K. Halliday.
R. A. Jacobs cho rằng mặc dù ngữ cảnh mà phát ngôn tồn tại có ảnh
hưởng căn bản đến việc hiểu nghĩa của một câu (câu đơn – sentence) nhưng
câu vẫn có nội dung mệnh đề độc lập với ngữ cảnh. Ví dụ:
(5) Thoese plums look good! (Những trái mận này trông ngon quá!)
có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau trong những hoàn cảnh khác
nhau mà (5) tồn tại. Nó có thể được hiểu là “muốn ăn mận ngay” (nếu đó là
câu nói của một đứa trẻ háu ăn) hoặc “sẽ dễ bán và bán được giá cao” (nếu
đó là lời của một người đi mua hoa quả về để bán),… Nhưng nghĩa mệnh
đề của (5) vẫn luôn là “những trái mận này trông có vẻ ngon” (Dẫn theo
[77]).
Về hình thức tồn tại (cách thức biểu đạt), Jacobs và Halliday đều cho
rằng nghĩa mệnh đề được biểu đạt một cách rõ ràng, tường minh trên bề
mặt câu chữ (từ và cấu trúc của phát ngôn). Jacobs coi “cái khái niệm mà
động từ biểu đạt chính là trọng tâm của nghĩa mệnh đề của câu” và “mối
liên hệ giữa ngữ trị của động từ và các ý nghĩa (sense) của động từ ấy là
một quan hệ chặt chẽ” (Dẫn theo [77]). Còn Halliday gọi các đơn vị ngôn
ngữ làm nhiệm vụ chuyên chở thông tin là cú (clause), có kích thước tương
ứng với một câu đơn; nghĩa mệnh đề là đơn vị nghĩa cơ sở của một cú. Như
vậy, “đơn vị ngữ pháp tương đối trùng khớp nhất với nghĩa mệnh đề có lẽ
15
là câu đơn hoặc cú, với cấu trúc gồm một động từ, kết hợp với các danh
ngữ bắt buộc và các danh ngữ tùy ý. Nghĩa cốt lõi của cú xuất phát từ nội
dung nghĩa mệnh đề mà cú vị ấy diễn đạt.” (Dẫn theo [77]).
Theo nghĩa rộng, các tác giả cuốn Từ điển Ngôn ngữ học ứng dụng
(Longman Dictionary of Applied Linguistics) coi “nghĩa mệnh đề là thuật
ngữ chỉ toàn bộ nghĩa tường minh và ngầm ẩn của câu […]. Một câu có thể
có một hoặc nhiều nghĩa mệnh đề.” (Dẫn theo [77]). Ví dụ:
(6) Cường, người yêu của Nhung, là một sinh viên khoa chế tạo máy

nhưng lại thích làm thơ
sẽ có ít nhất 4 nghĩa mệnh đề như sau:
- Nhung đã có người yêu.
- Người yêu của Nhung tên là Cường.
- Cường là sinh viên khoa chế tạo máy.
- Cường thích làm thơ.
Trong trường hợp trên, cả 4 nghĩa mệnh đề đều là nghĩa tường minh.
Bên cạnh đó có những trường hợp nghĩa mệnh đề là nghĩa hàm ẩn, chỉ bộc
lộ trong ngữ cảnh nhất định. Ví dụ:
(7) Cô ấy đang đọc tài liệu.
Trong ngữ cảnh trả lời câu hỏi Bác làm ơn cho cháu hỏi cô X có nhà
không ạ? Phát ngôn (7) có nghĩa mệnh đề là Cô X có ở nhà. Trong ngữ
cảnh trả lời câu hỏi Học viên do thầy hướng dẫn đã viết xong luận án
chưa? sẽ có nghĩa mệnh đề là Cô ấy chưa viết luận án. Còn trong ngữ cảnh
trả lời câu hỏi Cậu vào gọi X ra đây cho tớ gặp một chút được không? thì
sẽ có thể có các nghĩa mệnh đề: Tớ ngại lắm (nên tớ không vào gọi X
đâu) / Cậu không thể gặp X vào lúc này được đâu.
Về hình thức biểu đạt, khác với Jacobs và Halliday, các nhà nghiên cứu
theo cách hiểu rộng về nghĩa mệnh đề cho rằng cả câu đơn lẫn câu ghép
đều là đơn vị chuyển tải thông tin nghĩa mệnh đề. (Dẫn theo [77]).
Trong công trình này, chúng tôi hiểu nghĩa mệnh đề là loại nghĩa biểu
thị sự tình, do các từ riêng biệt và cấu trúc cú pháp tạo ra hoặc được suy ra
từ ngữ cảnh. Trong trường hợp nghĩa mệnh đề do các từ riêng biệt và cấu
trúc cú pháp tạo ra (nghĩa tường minh), nó là nghĩa của câu, nhưng vì câu
là bất biến thể của phát ngôn nên nghĩa nó cũng bao hàm trong nghĩa của
phát ngôn. Loại nghĩa mệnh đề đặc trưng của phát ngôn là nghĩa được xác
16
định bởi ngữ cảnh. Điều này cũng phù hợp với nhận xét của J. Lyons:
“Nghĩa của câu (ở một mức độ cao) mang tính độc lập với văn cảnh
(context-independent), trong khi nghĩa của phát ngôn thì không như vậy, có

nghĩa là nghĩa của phát ngôn (ở một mức độ cao hay thấp nào đó) được xác
định bởi chính ngữ cảnh mà phát ngôn đó được nói ra.” [40, 55], mặc dù
chúng tôi không gạt bỏ nghĩa của câu khỏi nghĩa của phát ngôn như quan
niệm của ông.
1.3.2. Nghĩa tình thái
Trong ngôn ngữ học tồn tại nhiều cách định nghĩa khác nhau về nghĩa
tình thái (tình thái, modal meaning). J. Lyons và Palmer nhấn mạnh tính
chất chủ quan của loại nghĩa này: “Tình thái là thái độ của người nói đối
với nội dung mệnh đề mà câu biểu thị hay cái sự tình mà mệnh đề đó miêu
tả” (John Lyons); “Tình thái là thông tin ngữ nghĩa của câu, thể hiện thái
độ hoặc ý kiến của người nói đối với vấn đề được nói đến trong câu”
(Palmer). Liapol tỏ ra cân bằng hơn trong việc xem xét tính chất chủ quan
và tính chất khách quan khi định nghĩa: “Tình thái là phạm trù ngữ nghĩa
chức năng thể hiện các dạng quan hệ khác nhau của phát ngôn với thực tế
cũng như các dạng đánh giá chủ quan khác nhau đối với điều được thông
báo.” (Dẫn theo [31, 92])
Cũng từ quan điểm này mà nhiều nhà nghiên cứu phân biệt hai loại
nghĩa tình thái: tình thái chủ quan và tình thái khách quan.
Tình thái chủ quan bao gồm:
- Các trường hợp thể hiện sự đánh giá, thái độ, lập trường của người nói
với nội dung thông báo (về độ tin cậy, tính hợp pháp của hành động, tính
tích cực hay tiêu cực; về khả năng, tính hiện thực của điều được thông
báo…).
- Các trường hợp thể hiện mục đích phát ngôn của người nói (hay thể
hiện kiểu mục đích tại lời mà người nói thực hiện), thể hiện sự tác động
qua lại giữa người nói và người đối thoại.
Tình thái khách quan bao gồm:
- Các trường hợp khẳng định hoặc phủ định đối với sự tồn tại của sự
tình.
17

- Các trường hợp thể hiện diễn tiến của sự tình, liên quan đến khung ngữ
nghĩa - ngữ pháp của vị từ cũng như mối quan hệ giữa chủ thể được nói
đến trong câu và vị từ.
Tuy nhiên, có thể thấy rằng ngay cả trong trường hợp nghĩa tình thái thể
hiện kết quả đối chiếu sự tình được nêu trong phát ngôn với thực tế thì đó
cũng là một sự đối chiếu qua lăng kính chủ quan của người nói. Chính vì
vậy mà Gak đã bổ sung vào định nghĩa quen thuộc “Tình thái phản ánh mối
quan hệ của người nói đối với nội dung của phát ngôn và nội dung phát
ngôn đối với thực tế.” một nhận xét tinh tế: “Tình thái biểu hiện nhân tố
chủ quan của phát ngôn; đó là sự khúc xạ của một phân đoạn thực tế qua
nhận thức của người nói.” (Dẫn theo [31, 85]). Tính chủ quan chính là điểm
phân biệt tình thái ngôn ngữ với tình thái logic.
Phần lớn nghĩa tình thái được mã hóa trong những hình thức ngôn ngữ
nhất định, phần nào độc lập với hoàn cảnh sử dụng. Bộ phận nghĩa tình thái
này gọi là tình thái của lời, thuộc về nghĩa tường minh của phát ngôn. Bộ
phận còn lại (không được mã hóa bởi các phương tiện ngôn ngữ) chỉ bộc lộ
đầy đủ khi xét đến tình huống sử dụng, gọi là tình thái của hành động phát
ngôn (tình thái của mục đích phát ngôn), thuộc về nghĩa hàm ẩn của phát
ngôn. Ví dụ:
(8) (Thấy con đi học về muộn, mẹ bảo:)
- Con xem hộ mẹ mấy giờ rồi!
Lời nói của mẹ trong hoàn cảnh này được hiểu là một lời trách móc
(Con đi học về muộn quá đấy!) với một thái độ không hài lòng. Đó chính là
nghĩa tình thái hàm ẩn của phát ngôn. Nghĩa này được hình thành từ tình
huống giao tiếp chứ không phải từ các phương tiện chuyên dụng.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, ranh giới của hai loại nghĩa tình thái này
không phải bao giờ cũng rõ ràng. Bởi lẽ, thực tế giao tiếp cho thấy, trong
nhiều trường hợp, dựa vào hoàn cảnh giao tiếp, người phát ngôn có thể tạo
tính mơ hồ về tình thái để biểu thị hàm ý về tình thái.
1.4. Nghĩa chủ đề

Khác với nghĩa mệnh đề và nghĩa tình thái về mặt bản chất và chức
năng, nghĩa chủ đề (thematic meaning) “được xem là loại nghĩa có liên
quan đến việc tổ chức thông điệp của câu nói, xét đến trình tự các thành tố
của thông điệp, tiêu điểm và nhấn mạnh”. (G.Leech – Dẫn theo [31, 187]).
18
J. Lyons cho rằng: Trong thực tế, có những phát ngôn đồng nhất về
nghĩa miêu tả và nghĩa tình thái nhưng khác nhau về nghĩa chủ đề (tức là
xuất phát điểm để tổ chức câu nói). Chẳng hạn, so sánh: Cô ấy chưa bao
giờ đặt chân đến Sài Gòn. / Sài Gòn, cô ấy chưa bao giờ đặt chân đến.
Nghĩa chủ đề được xác định bởi cách mà người nói chọn để trình bày điều
đang đề cập đến (tức cái chủ đề của phát ngôn) trong mối quan hệ với
những tiền giả định cụ thể, gắn với ngữ cảnh. [40, 170 - 171].
Trong một công trình nghiên cứu của mình, Nguyễn Văn Hiệp (2008)
đã đặt nghĩa chủ đề trong toàn cảnh các loại nghĩa của câu nói (phát ngôn)
để xem xét và đã rút ra những kết luận đáng chú ý sau:
- Nghĩa chủ đề không thuộc phạm vi nghĩa miêu tả (nghĩa mệnh đề) và
nghĩa tình thái.
- Về bản chất, nghĩa chủ đề thuộc về nghĩa câu hay nghĩa của phát ngôn
còn phụ thuộc vào khung lý thuyết về câu mà người nghiên cứu sử dụng.
Tuy nhiên, “có nhiều cơ sở chứng tỏ rằng bên cạnh phần nghĩa được coi là
nghĩa câu (chủ yếu là phần nghĩa được xác định thông qua điều kiện chân trị
của câu) thì nghĩa chủ đề chủ yếu là vấn đề của phát ngôn, tức là loại nghĩa
thuộc phạm vi dụng học; đó là tính xác định của chủ đề, sự đồng cảm của
người nói, hàm ý phân cực đảo và vai trò của người nói (bao gồm kiến thức
của anh ta về thế giới) trong việc quy gán hình/nền cho các thành tố của sự
tình.” [31, 195 - 196].
Đưa nghĩa chủ đề vào danh sách nghĩa trong cơ cấu nghĩa của phát
ngôn, chúng tôi không có tham vọng bàn bạc sâu về nghĩa chủ đề – loại
nghĩa “còn có rất nhiều khía cạnh” đến nay vẫn “chưa thực sự được làm rõ
trong văn liệu tiếng Việt” [31, 187] mà trên cơ sở những đặc trưng của loại

nghĩa này, chúng tôi có thể đặt vấn đề cho những nghiên cứu ở các chương
sau, chẳng hạn như: Nghĩa chủ đề có mối quan hệ với hàm ý không? Việc
xác lập nghĩa chủ đề có liên quan như thế nào đến việc biểu thị hàm ý trong
tiếng Việt – ngôn ngữ được một số nhà nghiên cứu cho là loại ngôn ngữ
thiên chủ đề (topic-prominent)?
1.5. Nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn
1.5.1. Nghĩa tường minh
Nghĩa tường minh (nghĩa câu chữ, nghĩa hiển hiện, hiển nghĩa, hiển
ngôn, explicit meaning) được các nhà ngôn ngữ học giải thích là “ý nghĩa
19
trực tiếp do các yếu tố ngôn ngữ đem lại” [9, 359] , “nghĩa được nói rõ
trong mỗi câu” [12, 191], “nghĩa có thể rút ra từ nghĩa nguyên văn (nghĩa
đen và cả nghĩa bóng) của các từ ngữ có mặt trong câu và từ những mối
quan hệ cú pháp giữa các từ ấy” [21, 115], “cái nghĩa biểu hiện rõ qua
nguyên văn câu nói” [27, 112],…
Trong đề tài này, khái niệm nghĩa tường minh mà chúng tôi sử dụng
tương ứng với các khái niệm nghĩa câu chữ, nghĩa hiển hiện, hiển ngôn,…
của hầu hết các tác giả khác. Tuy nhiên, so với hệ thống quan niệm của tác
giả Cao Xuân Hạo thì nó tương ứng với hiển nghĩa, chứ không tương ứng
với hiển ngôn, bởi vì chúng tôi không coi tiền giả định (điều kiện tiên
quyết để câu nói có thể đúng hoặc sai) là một bộ phận của hiển ngôn như
quan niệm của tác giả (xem: [ 27, 112]).
1.5.2. Nghĩa hàm ẩn
Nghĩa hàm ẩn (hàm ngôn, implicit meaning) là thông tin không được
thể hiện trên bề mặt câu chữ của phát ngôn nhưng có thể nhận biết nhờ suy
ý trên cơ sở hiển ngôn, hoàn cảnh phát ngôn và quy tắc điều khiển hành vi
ngôn ngữ, điều khiển lập luận, điều khiển hội thoại,…
O. Ducrot giải thích rằng thực chất của hàm ngôn là nói mà coi như
không nói, nghĩa là “nói một cái gì đó mà không vì thế nhận trách nhiệm là
đã có nói, có nghĩa là vừa có được hiệu lực của nói năng, vừa có được sự

vô can của im lặng.” (Dẫn theo [58, 100]). Còn theo Hoàng Phê, “khi một
lời nói có hàm ngôn thì ý hàm ngôn thường là quan trọng, thậm chí có khi
hiển ngôn chỉ là dùng để nói hàm ngôn, ý hàm ngôn là ý chính”. [58, 93].
Herbert Paul Grice – người đầu tiên nghiên cứu về nghĩa hàm ẩn, cho
rằng nghĩa hàm ẩn gồm hai thành phần là nghĩa hàm ẩn tự nhiên và nghĩa
hàm ẩn không tự nhiên. (Dẫn theo [9, 361]). Sau H.P. Grice, O. Ducrot
phân biệt hai loại hàm ẩn là tiền giả định (tiền đề, presupposition, viết tắt:
TGĐ) và hàm ngôn. Ông cũng phân biệt loại hàm ngôn là kết quả được rút
ra từ sự suy luận của người nghe dựa vào nội dung khách quan của lời (ví
dụ, nói Trời đẹp là để thông báo “muốn đi chơi”) với loại hàm ngôn là kết
quả suy luận của người nghe từ hành vi nói năng (ví dụ, đang tiếp khách
mà hỏi Mấy giờ rồi? là muốn đề nghị khách ra về). (Dẫn theo [58, 100]).
Khác với O. Ducrot, C.J. Fillmore đồng nhất TGĐ với hàm ngôn. Ông
viết: “Trong ngữ nghĩa của câu, của lời nói có hai cấp bậc thông báo: cấp
20
bậc hàm ngôn hay là TGĐ và cấp bậc hiển ngôn.” (Dẫn theo [58, 98]). Tuy
vậy, hầu hết các tài liệu nghiên cứu ngữ dụng sau này đều đề cập đến TGĐ
và hàm ngôn như là hai khái niệm riêng biệt.
Givón quan niệm: “TGĐ là các giả định về những điều mà theo người
nói thì người nghe có thể chấp nhận không tranh cãi.” (Dẫn theo [23, 54]).
Còn Stalnaker cho rằng: “TGĐ là cái mà người nói xem là cơ sở chung của
những người cùng tham gia hội thoại.” (Dẫn theo [23, 312]). Dưới góc độ
logic - ngôn ngữ học, Nguyễn Đức Dân giải thích: “Câu A có TGĐ là B
nếu giá trị đúng của B là điều kiện cần cho A có giá trị đúng hoặc sai” và
“A có một TGĐ ngữ dụng là B nếu: a) khi phát ngôn A thì người nói đã giả
định rằng B và tin rằng người nghe cũng nghĩ là B; b) B đã được chấp
nhận.” [12, 195 – 197]. Ví dụ:
(9) Ngân chuẩn bị nghiệm thu đề tài cấp Bộ đấy.
Phát ngôn này sẽ không được đánh giá là đúng hay sai nếu thiếu một
trong các TGĐ sau:

- Có một người tên là Ngân.
- Ngân là chủ nhiệm đề tài cấp Bộ.
Hoàng Phê – người đầu tiên giới thiệu lý thuyết của Grice vào Việt Nam
– cho rằng: “Nếu coi TGĐ là hàm ngôn thì sẽ không thấy được mối quan
hệ có tính quy luật hết sức quan trọng giữa TGĐ, hiển ngôn và hàm ngôn,
mối quan hệ chi phối nội dung của hàm ngôn.” [58, 99]. Theo ông, hàm
ngôn có hai lớp nghĩa hàm ẩn khác nhau về mức độ phụ thuộc vào hoàn
cảnh và độ tin cậy của suy ý. Đó là hàm ý và ngụ ý.
Có quan điểm gần với Hoàng Phê, Cao Xuân Hạo (1999) coi TGĐ là
một lớp nghĩa hiển ngôn; còn hàm ngôn, theo ông, bao gồm hàm nghĩa và
ẩn ý.
Phần lớn các nhà Việt ngữ khác như Đỗ Hữu Châu (2003), Nguyễn Đức
Dân (1996, 1998), Nguyễn Thiện Giáp (2000) đều xếp TGĐ vào lớp nghĩa
hàm ngôn và phân loại các nghĩa hàm ngôn khác theo dấu hiệu phụ
thuộc/không phụ thuộc vào hoàn cảnh giao tiếp.
Riêng Hồ Lê (1996) thì phân biệt hai lớp nghĩa hàm ẩn là hàm nghĩa và
hàm ý dựa theo quan hệ về nội dung đối với hiển ngôn: hàm ý (bao gồm:
ngụ ý, ẩn ý, dụng ý) là ý nghĩa hàm ẩn có nội dung khác với hiển ngôn; còn
21
hàm nghĩa là ý nghĩa hàm ẩn bổ sung một phương diện nào đó cho hiển
ngôn.
Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu còn đề cập đến thành phần thứ ba của
nghĩa hàm ẩn là dẫn ý (entailment). Dẫn ý vốn là một thuật ngữ thuộc lĩnh
vực logic học, biểu thị mối quan hệ kéo theo giữa các mệnh đề (p và q
chẳng hạn) nếu trị đúng của q tất yếu nảy sinh từ trị đúng của p và trị sai
của q tất yếu nảy sinh từ trị sai của p (tức p kéo theo q).Ví dụ:
(10) - A nhận B vào làm việc tại Công ty X (p)
- B là nhân viên của Công ty X (q)
Ta nói: p ⇒ q (p dẫn ý q) bởi nếu p (A nhận B vào làm việc tại Công ty
X) đúng sự thật thì q (B là nhân viên của Công ty X) tất yếu đúng sự thật.

Do “đặc tính kỹ thuật” của dẫn ý mà thuật ngữ này (entailment) được một
số tác giả dịch là “kéo theo” để biểu thị “những điều rút ra theo logic từ
những cái được khẳng định trong phát ngôn” [21, 126].
Kế thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, trong công trình
này, chúng tôi quan niệm nghĩa hàm ẩn là những thông tin không được thể
hiện trong ý nghĩa nguyên văn của từ ngữ và các mối quan hệ cú pháp của
câu nhưng có thể nhận biết nhờ suy ý từ hiển ngôn, hoàn cảnh phát ngôn và
quy tắc điều khiển hành vi ngôn ngữ, điều khiển lập luận, điều khiển hội
thoại,… Nghĩa hàm ẩn gồm dẫn ý, TGĐ và hàm ý.
1.6. Hàm ý
1.6.1. Thuật ngữ hàm ý
Trong lý thuyết hàm ngôn hội thoại của Grice (1975; 1978), thuật ngữ
implicate (hàm ý) là một động từ chỉ hành động biểu đạt ngầm một điều gì
đó khác với điều được nói ra bằng hiển ngôn trong một hoàn cảnh giao tiếp
nhất định (gọi là điều được hàm ý). Còn thuật ngữ implicature (hàm ngôn)
là một danh từ, biểu thị điều được hàm ý trong phát ngôn. Hàm ngôn là
“kết quả”, là “sản phẩm” của hoạt động hàm ý.
Về ý nghĩa của các thuật ngữ này, Kent Bach (2006) trong bài báo Mười
cách hiểu sai về hàm ngôn đã viết: “Dù sao, Grice đã rất thận trọng sử dụng
động từ to implicate (hàm ý) chứ không phải là imply (nói bóng gió) để chỉ
điều mà người nói đã làm, và ông đã đặt ra thuật ngữ implicature (hàm
ngôn) để sử dụng thay cho việc ngụ ý cái mà người nói hàm ý. Sự khác
nhau ở đây mang tính chất cơ bản. Nếu một câu đúng thì cái mà nó ngụ ý
22
phải đúng, nhưng người nói có thể nói ra một câu đúng và hàm ý một cái gì
đó sai. Chẳng hạn, bạn có thể nói rằng có một trạm xăng ở gần góc đường
và hàm ý sai là nó đang mở cửa và bán xăng (có thể nó đã đóng cửa vì ban
đêm hoặc có thể hết xăng). Nếu có trạm xăng ở gần góc đường, điều đó
không có nghĩa là trạm xăng đó đang mở cửa và có bán xăng. Nhưng chắc
chắn rằng trạm xăng đó không ở bên kia đường.”

Sự khác biệt giữa hai thuật ngữ implicate (hàm ý) và implicature (hàm
ngôn) được Kent Bach thể hiện qua sự phân biệt giữa infer (suy ra) với
implicate (hàm ý) và giữa inference (suy luận) với implicature (hàm ngôn).
Theo ông, “người nghe có thể cho rằng người nói đang hàm ý điều gì đó
trong khi thực ra anh ta không định thế […]. Cũng rõ ràng như vậy, người
nói có thể hàm ý điều gì đó ngay cả khi người nghe không có ý định suy
luận. Tất nhiên, đây không phải là trường hợp truyền đạt hàm ngôn thành
công, nhưng điều đó không có nghĩa là người nói không hàm ý điều gì, chỉ là
người nói có thể bóng gió điều gì đó mà người nghe không nhận biết được.
Cần chú ý, suy luận ở đây không phải là nói tới sự thật của hàm ngôn mà là
nội dung của nó. Vấn đề là nhận biết điều đang được hàm ý, chứ hoàn toàn
không phải là chấp nhận nó.” [99]
Khi nghiên cứu về thuyết hàm ngôn hội thoại của Grice cũng như vận
dụng nó vào việc tìm hiểu một vấn đề ngôn ngữ cụ thể, hầu hết các nhà
nghiên cứu nước ngoài đều sử dụng thống nhất các thuật ngữ implicate
(hàm ý) và implicature (hàm ngôn) như cách dùng của Grice. Tuy nhiên,
một số nhà nghiên cứu cũng dùng động từ imply (nói bóng gió) để biểu thị
hàm ý và danh từ implication (sự ngụ ý) để biểu thị sản phẩm của hàm ý
(tức hàm ngôn, cái được hàm ý). Chẳng hạn, ý kiến của Jenny Thomas
(1995), nguyên văn tiếng Anh như sau: “I want to interpolate a discussion
of the diference between implicature and inference, implying and inferring
[ ] People frequently say inferring when they really mean implying. To
imply is to hint, suggest, or convey some meaning indirectly by mean of
language.” [144, 58] (Tôi muốn bổ sung một tranh luận về sự khác nhau
giữa hàm ngôn và suy luận, giữa hàm ý với suy ra [ ] Người ta thường nói
suy ra khi thực ra muốn nói tới hàm ý. Hàm ý là nói bóng gió, gợi ý hoặc
truyền đạt ý một cách gián tiếp bằng phương tiện ngôn ngữ.” Hai động từ
cùng gốc imply và implicate còn được sử dụng rất linh hoạt trong công trình
23

×