Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

VIỆT NAM LÀ MỘT ĐÔNG NAM Á THU NHỎ DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (994.18 KB, 51 trang )

VIỆT NAM LÀ MỘT
ĐƠNG NAM Á
THU NHỎ
DƯỚI GĨC NHÌN
VĂN HĨA


Mục Lục
Mở đầu .................................................................................................................................
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...............................................................................................
3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu ........................................................................................
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................
5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................................
6. Nguồn tài liệu tham khảo ................................................................................................
7. Đóng góp đề tài................................................................................................................
8. Bố cục đề tài ....................................................................................................................
CHƯƠNG 1: KHÁI QT VĂN HĨA KHU VỰC ĐƠNG NAM Á ...............................
1.1. Đặc điểm tự nhiên và nguồn gốc tộc người..................................................................
1.1.1. Điều kiện tự nhiên khu vực .......................................................................................
1.1.2. Nguồn gốc các tộc người ...........................................................................................
1.2. Lịch sử hình thành nền văn hóa ...................................................................................
1.3. Đặc trưng nổi bật của nền văn hóa Đơng Nam Á.........................................................
1.3.1. Một khu vực địa lý, lịch sử thống nhất ......................................................................
1.3.2. Nông nghiệp – nền tảng của văn hóa khu vực...........................................................
1.3.3. Nền văn hóa uyển chuyển, thích nghi với những thay đổi .......................................
1.3.4. Một khu vực văn hóa thống nhất trong đa dạng ........................................................
CHƯƠNG 2: VIỆT NAM LÀ MỘT ĐƠNG NAM Á THU NHỎ DƯỚI GĨC NHÌN VĂN
HĨA.....................................................................................................................................
2.1. Lịch sử hình thành văn hóa Việt Nam ..........................................................................
2.2. Việt Nam hội tụ đầy đủ những đặc trưng của nền văn hóa khu vực Đơng Nam Á......


2.2.1. Nền văn hóa được hình thành trên nền tảng nơng nghiệp lúa nước ..........................
2.2.2. Nét tương đồng giữa Việt Nam và Đông NAM Á trong tổ chức xã hội ...................
2.2.3. Các yếu tố tín ngưỡng bản địa ...................................................................................
2.2.3.1. Tín ngưỡng vạn vật hữu linh .................................................................................
2.2.3.2. Tín ngưỡng phồn thực ............................................................................................
2.2.3.3. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ...................................................................................


2.2.4. Phong tục tập quán ...................................................................................................
2.2.4.1. Ăn uống ..................................................................................................................
2.2.4.2. Trang phục ..............................................................................................................
2.2.4.3. Nhà ở, đi lại ...........................................................................................................
2.2.4.4. Hôn nhân, tang lễ ....................................................................................................
2.2.4.5. Lễ hội ......................................................................................................................
2.2.5. Văn hóa – nghệ thuật.. ...............................................................................................
2.3. Nguyên nhân để văn hóa Việt Nam trở thành “ một Đông Nam Á thu nhỏ”
KẾT LUẬN .........................................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khu vực Đông Nam Á gồm hai khu vực chính được gọi là Indo-china (Đông Dương)
và phần lãnh thổ hải đảo được gọi là thế giới Mã Lai. Từ xa xưa, khu vực này được người
Trung Quốc gọi là Nam Dương, người Nhật Bản gọi là Nam Yo, người Ấn Độ gọi là
Sumarnahum, là khu vực giữ vai trò đặc biệt quan trọng trên con đường buôn bán Đông –
Tây, nơi gặp gỡ giao thoa với các nền văn hóa thế giới. Trước thế kỉ XIX Đơng Nam Á vẫn
chưa được nhìn nhận một cách rõ nét và đầy đủ, nó bị lu mờ giữa hai nền văn hóa rực rỡ lúc
bấy giờ là văn hóa Trung Hoa và văn hóa Ấn Độ.
Tuy nhiên, cũng cần có sự nhìn nhận lại. Đơng Nam Á là một trong những địa bàn

được xem như là cái nơi của nhân loại. Đồng hành chung với tiến trình lịch sử của nhân loại,
Đông Nam Á đã ngày càng trở thành một khu vực đa văn hóa với sự hiện diện đông đúc và
đa dạng của nhiều dân tộc, quốc gia. Chính điều này đã góp phần làm cho Đông Nam Á đang
dần trở thành một khu vực đặc sắc của thế giới. Văn hóa Đơng Nam Á ngày nay vừa là sự kế
thừa và phát huy vốn văn hóa bản địa truyền thống vừa là sự tiếp thu có chọn lọc những yếu
tố mới từ bên ngồi, cả phương Đơng lẩn phương Tây. Trong kho tàng văn hóa đồ sộ của
Đơng Nam Á có rất nhiều yếu tố chung, làm nên cái “khung” Đông Nam Á, song cũng có
khơng ít những yếu tố đặc sắc, riêng biệt tiêu biểu cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Nói cách
khác văn hóa Đơng Nam Á là nền văn hóa thống nhất trong sự đa dạng.
Việt Nam là một trong số những quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á. Trên chặng
đường hình thành, tồn tại và phát triển, Việt Nam – với tư cách là một thành viên trong không
gian văn hóa Đơng Nam Á đã có những sự tiếp nhận, giao lưu và tiếp biến văn hóa với các
quốc gia còn lại trong khu vực. Những giá trị văn hóa mà Việt Nam tiếp nhận thể hiện trong
đó sự tương đồng, tương cận với những giá trị văn hóa của Đông Nam Á. Những sự tương
đồng và tương cận ấy khơng phải ngẫu nhiên, mà điều đó cho thấy tiến trình phát triển của
các quốc gia đấy là cùng dựa trên một nền tảng, đó là yếu tố tự nhiên chi phối.
Vậy nên, bài tiểu luận này sẽ phân tích sự tương đồng và tương cận của văn hóa Việt
Nam với văn hóa Đơng Nam Á từ góc nhìn văn hóa, hay nói cách khác là làm rõ quan điểm
“Việt Nam là một Đông Nam Á thu nhỏ” như nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định.


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Với vị trí và vai trị quan trọng của mình. Cho đến nay có khá nhiều cơng trình nghiên
cứu về đặc trưng văn hóa Đơng Nam Á, đặc trưng văn hóa Việt Nam cả trong nước và ngoài
nước, nhiều nhà khoa học khác nhau, các viện nghiên cứu: Viện quan hệ quốc tế, viện nghiên
cứu Đông Nam Á thuộc trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, một số cơ quan
khác… Trong đó cũng có khá nhiều các cơng trình nghiên cứu về về văn hóa Đơng Nam Á,
cũng như văn hóa Việt Nam được xuất bản.
Trong cuốn “Các nước Đơng Nam Á” Nxb Sự thật Hà Nội (1974) của Huỳnh Văn
Tịng được Viện Đào tạo mở rộng Tp Hồ Chí Minh xuất bản năm 1993 đã đề cập tương đối

cụ thể về sự ra đời những quốc gia khu vực Đông Nam Á và khẳng định sự tác động mạnh
mẽ của nền văn hóa Ấn Độ với khu vực này. Nguyễn Từ Chi, Ngơ Văn Oanh, Lê Sĩ Giáo,
Hồng Nam, Trần Khánh, Nguyễn Hữu Ưng đồng biên tập cuốn “Các dân tộc ở Đông Nam
Á” và cuốn “Đại cương về các dân tộc Đông Nam Á” của Nguyễn Duy Thiệu (chủ biên) do
Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội cùng phát hành năm 1997 đã chỉ rõ hơn về nguồn gốc của cư
dân ở Đông Nam Á. Cuốn sách “Văn hóa Đơng Nam Á” của Nguyễn Tấn Đắc (chủ biên) do
Nxb Đại học Quốc gia Tp.Hồ Chí Minh xuất bản năm 2005 nói một cách khá đầy đủ về lịch
sử hình thành cũng như đặc trưng văn hóa Đơng Nam Á.
Việc nghiên cứu văn hóa Việt Nam, văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á
cũng được rất nhiều nhà nghiên cứu, học giả quan tâm. Tiêu biểu như cuốn sách do Trần
Ngọc Thêm chủ biên, “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” được Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh phát hành năm 2006 đề cập khá chi tiết về bản sắc văn hóa Việt Nam. Cuốn sách “Văn
hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hóa Đơng Nam Á” của tác giả Đinh Gia Khánh
được Nxb Khoa học xã hội xuất bản nói rõ về sắc văn hóa Việt Nam, sự khác và giống nhau
giữa hai nền văn hóa này.
Ngồi ra cịn có các bài viết về vấn đề này được đăng trên các tạp chí như: Tạp chí
Nghiên cứu lịch sử, Nghiên cứu Đơng Nam Á... Những bài nghiên cứu trên đây đã góp phần
quan trọng trong việc nghiên cứu văn hóa Việt Nam trong tương quan với văn hóa Đơng Nam
Á.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu về văn hóa Việt Nam trong đó nói đến sự tương đồng,
tương cận giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Đơng Nam Á cịn khá hạn chế, tản mạn.


3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu văn hóa Việt Nam trong tương quan với văn hóa Đơng
Nam Á, từ đó thấy sự giống nhau trên nhiều phương diện giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa
khu vực Đơng Nam Á
Phạm vi nghiên cứu:
Về thời gian: đề tài xác định nội dung nghiên cứu từ khi nền văn hóa Việt Nam hình

thành cho đến hiện nay (từ thời nguyên thủy cho đến nay)
Về không gian: đề tài chủ yếu nghiên cứu trên phương diện hình thành và phát triển
văn hóa Việt Nam trong bối cảnh văn hóa Đơng Nam Á .
4. Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu
Với bài tiểu luận này sẽ chỉ ra những đặt trưng văn hóa khu vực Đơng Nam Á và đặc
trưng văn hóa Việt Nam, so sánh sự giống nhau của hai nền văn hóa này.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở phương pháp mà tôi lựa chọn dựa vào để nghiên cứu đề tài là phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời đại và quan hệ quốc tế giữa các quốc gia dân tộc, tư tưởng
Hồ Chí Minh về đồn kết và hợp tác quốc tế.
Với đề tài này pháp khoa học được sử dụng chủ yếu là phương pháp lịch sử, liệt kê, so
sánh, phân tích, logic...
6. Nguồn tài liệu tham khảo
Đề tài được hoàn thành trên cơ sở nguồn tài liệu tin cậy đã được công bố.
Nguồn tài liệu chủ yếu được tham khảo từ các bài viết đăng trên tạp chí như tạp chí
nghiên cứu lịch sử, tạp chí cộng sản... Ngồi ra cịn có một số cơng trình nghiên cứu, các bài
viết trên các trang wed: nghiencuuquocte.net; luanvan.net; 123doc…
7. Đóng góp đề tài
Đề tài sẽ chứng minh sự tương đồng văn hóa Việt Nam với văn hóa Đơng Nam Á, từ đó
chứng minh cho luận điểm “Việt Nam là một Đông Nam Á thu nhỏ”
Với bài tiểu luận này sẽ là tài liệu tham khảo cho những đọc giả quan tâm đến văn hóa
Việt Nam, đặt biệt là sự giống nhau giữa văn hóa Việt Nam với văn hóa khu vực Đơng Nam
Á.


8. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo đề tài được chia làm hai chương:
Chương 1: Khái qt văn hóa khu vực Đơng Nam Á
Chương 2: Việt Nam là một Đông Nam Á thu nhỏ dưới góc nhìn văn hóa


CHƯƠNG 1:
KHÁI QT VĂN HĨA KHU VỰC ĐƠNG NAM Á
1.1. Đặc điểm tự nhiên và nguồn gốc tộc người


1.1.1. Điều kiện tự nhiên khu vực
Đông Nam Á là một khu vực của châu Á, bao gồm các nước nằm ở phía Nam
Trung Quốc, phía Đơng Ấn Độ và phía Bắc của Úc với diện tích khoảng 4,523,000 km².
Khu vực này bao gồm 11 quốc gia: Brunei, Campuchia, Đông Timor, Indonesia, Lào,
Malaysia, Myanma, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam với số dân cư tính đến
năm 2009 ước chừng khoảng gần 570,000,000 người [7; tr.2].
Địa hình:
Phần lục địa khu vực Đông Nam Á là các dải núi của bán đảo Trung Ấn là những dải
núi nối tiếp dãy Hi-ma-lay-a chạy dài theo hướng bắc - nam và tây bắc - đông nam, bao
quanh những khối cao nguyên thấp. Các thung lũng sơng cắt xẻ sâu làm cho địa hình của khu
vực bị chia cắt mạnh. Đồng bằng phù sa tập trung ở ven biển và hạ lưu các sông.
Phần hải đảo là nơi thường xảy ra động đất, núi lửa do nằm trong khu vực không ổn
định của vỏ Trái Đất. Vùng đất liền và thềm lục địa của khu vực chứa nhiều tài nguyên quan
trọng như quặng thiếc, kẽm, đổng, than đá, khí đốt, dầu mỏ...
Khí hậu, sơng ngịi và cảnh quan:
Gió mùa mùa hạ của khu vực Đông Nam Á xuất phát từ vùng áp cao của nửa cầu Nam
thổi theo hướng đơng nam. Vượt qua xích đạo và đổi hướng thành gió tây nam nóng, ẩm
mang lại nhiều mưa cho khu vực. Gió mùa mùa đơng xuất phát từ vùng áp cao Xi-bia thổi vé
vùng áp thấp xích đạo, với đặc tính khơ và lạnh. Nhờ có gió mùa nên khí hậu Đơng Nam Á
khơng bị khô hạn như những vùng cùng vĩ độ ở châu Phi và Tây Nam Á. Song khu vực này
lại bị ảnh hưởng của các cơn bão nhiệt đới hình thành từ các áp thấp trên biển. thường gây
nhiều thiệt hại về người và của.
Các sông ở đảo thường ngắn và có chế độ nước điều hịa. Các đồng bằng châu thổ có
đất phù sa màu mỡ, khí hậu nóng ẩm. nguồn nước dồi dào, thuận lợi cho việc trồng lúa nước,
do đó dân cư tập trung đơng đúc, làng mạc trù phú.

Khí hậu nhiệt đới gió mùa tạo điều kiện cho rừng nhiệt đới ẩm thường xanh phát triển
trên phần lớn diện tích của Đơng Nam Á. Chỉ có một số nơi trên bán đảo Trung Ấn lượng
mưa dưới l000 mm/năm, có rừng rụng lá theo mùa, rừng thưa và xa van cây bụi.
1.1.2. Nguồn gốc các dân tộc ở Đông Nam Á


Đứng về phương diện chủng tộc, ngôn ngữ ở Đông nam Á sau khi con người hiện đại
đi đến từ Đơng Phi thì giống người Australoid mà hiện các bộ lạc cịn sót lại sống biệt lập
trong rừng săn bắt và hái lượm từ Nepal, bắc Ấn, đảo Andeman và Nicobar ở Ấn Độ Dương,
bán đảo Mã Lai, Phi Luật tân, Papua Guinea, Solomon và các đảo khác ở tây Thái Bình
Dương đến Australia nói ngơn ngữ thuộc họ Indo-Pacific. Kế đó là người cũng cổ đại khơng
kém nói ngơn ngữ Môn-Khmer thuộc hệ Austroasiatic ở trong lục địa từ Ấn Độ, đảo
Andaman và Nicobar ở Ấn Độ Dương, Miến Điện đến Cambodia và Việt Nam ở Đông Nam
Á. Và sau cùng là người nói ngơn ngữ Malayo-Polynesian thuộc hệ Austronesian đa số ở bán
đảo Mã Lai, trung Việt Nam, Đài Loan, Madagascar, các quần đảo Indonesia, Phi Luật Tân
và các đảoThái Bình Dương.
Trong các giống người trên ở Đơng Nam Á thì nguồn gốc của người Austronesian là
có nhiều khúc mắc hơn cả. Câu hỏi chính là nguồn gốc và đất tổ của người Austronesian là
đâu và sự định cư của người Polynesian ở Thái Bình Dương đã tiến hành thế nào và từ đâu.
Bài này chủ yếu tập trung vào nguồn gốc người Austronesian.
Trước hết chúng ta chú ý vào khám phá gần đây về người Kusunda (hay Ban Rajas) và
ngôn ngữ Kusunda ở trong rừng hẻo lánh vùng Nepal, bắc Ấn, nơi con người từ Phi châu đến
và từ đó vào Đơng Nam Á và sau đó đến Australia. Người Kusunda được biết vào đầu thế kỷ
19 khi ông Hodson mô tả họ. Họ sống trong rừng (được gọi là vua của rừng). Ngôn ngữ
Kusunda được xếp vào họ Indo-Pacific và gần với ngôn ngữ Andamanese của người thổ dân
trên đảo Andaman, Ấn Độ Dương, ngôn ngữ ở đảo New Guinea, các đảo chung quanh ở Thái
Bình Dương và đảo Tasmania (Australia). Nghiên cứu di truyền về người Andaman cho thấy
họ thuộc mtDNA haplogroup M là nhóm cư dân đầu đi khỏi Phi châu trước khi đến Đông
nam Á, New Guinea và Australia. Người Kusunda, hiện nay chỉ cịn hơn 100 người, vì thế
được coi như người cổ nhất còn lại trên lục địa Á châu sau khi đi từ Phi châu đến các đảo ở

Đông Nam Á và Thái Bình dương.
Từ Đơng bắc Ấn và Miến Điện, tổ tiên người Kusunda đi đến Đông Nam Á và từ đó
phát tán xuống Úc châu và đến Đơng Á. Gần đây nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ, khảo cổ đã
dùng kỹ thuật di truyền để tìm hiểu về nguồn gốc và sự thiên cư của người Austronesian
(gồm giống dân Polynesian) đến các đảo ở Thái Bình Dương và đến tận Madagascar gần Phi
châu. Câu hỏi được đặt ra là người Austronesian ở bán đảo Mã Lai, Đông Nam Á hải đảo có


liên hệ thế nào với các sắc dân ở Đông Nam Á lục địa và nam Trung quốc và có phải họ từ
lục địa đến hay đã có mặt ở Đông Nam Á hải đảo từ khi tổ tiên người Kusunda từ Phi châu đã
đến định cư nơi này?.
1.2. Lịch sử hình thành nền văn hóa
Giai đoạn bản địa của văn hóa Đơng Nam Á có thể tính từ khi con người bắt đầu hình
thành ở khu vực này cho đến thế kỉ I TCN. Đây là giai đoạn hình thành, phát triển và định vị
của văn hóa Đơng Nam Á bản địa, do đó nó có vai trị cực kì quan trọng trong suốt quá trình
phát triển sau này. Giai đoạn này có thể phân chia làm hai thời kì: thời kì tiền sử và thời kì sơ
sử. Thời kì tiền sử được tính từ khi bắt đầu cho đến cuối thời đại đá mới. Thời kì sơ sử cách
đây khoảng 4000 năm.
Mở đầu cho nền văn hóa tiền sử Đông Nam Á là giai đoạn mà các cư dân nguyên thủy
Đông Nam Á sử dụng mảnh tước làm công cụ lao động. Đây là những công cụ đá hết sức thơ
sơ nhưng có sự gia cơng ghè đẽo của con người. Hàng vạn mãnh ghè được tìm thấy ở
Indonesia, Philippines, Thái Lan, Myanmar ...ở Malaysia, những công cụ bằng đá cuội được
G. De Sieveking và D. Walker phát hiện ở Kota Tampan. Tại đây hai nhà khoa học đã tìm
thấy 165 cơng cụ chế tác từ viên cuội và 89 công cụ chế tác từ mảnh tước. Ở Việt Nam, khu
vực Núi Đọ (Thanh Hóa) được coi như tiêu biểu nhất về sự lưu giữ loại công cụ này. Tại đây
các nhà khoa học cịn tìm được một số rìu ta bằng đá được chế tác khá cơng phu.
Người tinh khôn (Homo-Sapiens) ở Đông Nam Á xuất hiện từ khoảng 20 đến 15 nghìn
nằm TCN. Người tinh khơn sống thành bộ lạc, biết săn bắt, hái lượm và chế tác công cụ từ đá
cuội. So với giai đoạn trước, các cơng cụ đá cuội từ thời kì này đã có một bước tiến mới
trong kĩ thuật chế tác và có nhiều hình loại ổn định. người tinh khơn Đơng Nam Á sinh sống

trên các đồi gị hoặc một số hang động. Ở Việt Nam thời kì này được gọi là văn hóa Sơn Vi.
Theo giáo sư Hà Văn Tấn, người Sơn Vi có tư duy phân loại. Tư duy phân loại được thể hiện
qua sự chọn lựa nguyên liệu đá và trong sự đa dạng của các loại hình cơng cụ.
Người ngun thủy Đơng Nam Á đã biết dùng lửa. Thức ăn chủ yếu của họ là nhuyễn
thể, cây, quả, hạt và một số động vật vừa và nhỏ. Những bộ sưu tập về thời đại đá cũ đã được
tìm thấy ở Thái Lan, chẳng hạn, bộ sưu tập của H.R Van Heckeren ở bậc thềm cao nhất của
sông Kwae gồm sáu công cụ bằng đá cuội được chế tác thành những Chopper, bộ sưu tập của


K.G Heider gồm 104 chế phẩm cuội cũng ở trên địa điểm trên, các bộ sưu tập khác nữa như
các di chỉ đá cũ ở Chande A và Tamanao, ở Đồi Cum, v.v...[3; tr.42 ].
Tại Indonesia, người ta đã tìm thấy rất nhiều cơng cụ bằng đá thuộc sơ kì đá cũ mà
tiêu biểu là văn hóa Patritan. Những cơng cụ này được tìm thấy ở trung Java, Sumatra, Bali
và Kalimanta mà loại công cụ tiêu biểu nhất là Chopper. Ở giai đoạn muộn hơn thì có văn
hóa Sangiran (ở Java) và văn hóa Trabenjer (nam Sulavesi) thuộc trung kì đá cũ.
Từ thời kì đá cũ, người ngun thủy Đơng Nam Á bước vào thời kì đồ đá giữa cách
đây khoảng 10.000 năm, với những thay đổi vô cùng quan trọng. Đó là q trình hợp chủng
giữa người Monggoloid với người Melanesien (thuộc đại chủng Australoid) tạo ra chủng
Indonesien – tiền Đơng Nam Á. Vào thời kì này, kỹ thuật chế tác đã được hoàn thiện và đạt
đến đỉnh cao, đặt biệt là những viên cuội được ghè đẽo cả hai mặt, rìu đá cuội có lưỡi ở một
đầu. Hơn thế nữa, cư dân chủng Indonesien còn biết sử dụng các nguyên liệu khác như đất
sét, sừng, xương, tre, gỗ...tiêu biểu nhất, đặt trưng cho văn hóa đồ đá giữa ở Đơng Nam Á là
văn hóa Hịa Bình. Khơng phải ngẫu nhiên mà các nhà khoa học trên thế giới khi nghiên cứu
về văn hóa Đơng Nam Á tiền sử đã lấy các địa điểm của nền văn hóa mà các dữ kiện vật chất
được tìm thấy ở Hịa Bình, Việt Nam là tiêu chuẩn để xem xét và sắp các nền văn hó đồ đá
giữ ở tồn bộ vùng Đơng Nam Á. Kĩ thuật đá Hịa Bình có mặt ở nhiều nơi ở vùng Đông
Nam Á: Lào, Campuchia, Thái Lan, Indonesia...do đó văn hóa Hịa bình là văn hóa chung ở
Đơng Nam Á.
Cư dân chủng Indonesien thời văn hóa Hịa Bình thường sống ở các cửa hang động
thung lũng đá vơi thống đãng. Họ biết thuần dưỡng động vật và cây trồng. Trong một số di

chỉ văn hóa Hịa Bình, các nhà khoa học đã tìm thấy một số quả và hạt nhiều loại cây thuộc
họ bầu bí, rau đậu được coi là đã thuần dưỡng, “ở xa phía bắc Thái Lan gần với biên giới
Myanmar, Chester Gorman – một sinh viên đại học Hawaii đã tìm thấy hang thần...khi đào
nền hang, Gorman phát hiện thấy những mảnh cây đã hóa than, cùng với hai hạt đậu, ...một
hạt dẻ, một hạt tiêu sọ, nhiều mảnh bí và dưa leo cùng nhiều đồ dùng bằng đá rất đặc biệt của
vùng Hịa Bình”. Như vậy, mặc dù hái lượm và săn bắt vẫn là phương thức chủ yếu của nhân
chủng Indonesien song một nền nông nghiệp sơ khai cũng đã xuất hiện vào thời đại văn hóa
Hịa Bình. Lúc đầu người ta trồng các loại rau củ như khoai môn, khoai sọ và những loại quả
như bầu, bí, đậu. Đúng như Wilhelm G. Solheim II nhận xét: “tôi đồng ý với Sauer rằng sắc


dân Hịa Bình ở một vùng nào đó trong khu vực Đông Nam Á là giống người biết trồng cây
trước tiên trên thế giới”. Như vậy, có thể coi Đơng Nam Á là nơi có cuộc cách nơng nghiệp
sớm nhất thế giới.
Sau thời đại đồ đá giữa, người tiền sử Đông Nam Á bước vào thời đại đồ đá mới, cách
đây khoảng 5000 năm. Điểm nổi bật trong thời đồ đá mới là con người đã biết làm đồ gốm.
Ở Việt Nam nền văn hóa đặc trưng cho thời kì này là văn hóa Bắc Sơn, ở đó người ta đã tìm
thấy nhiều cơng cụ có mài lưỡi. Rìu mài lưỡi kiểu Bắc Sơn cịn có ở hang Kepah, núi Cheoh,
thị xã Tongkat, đồi Chuping, hang Kajang, hang Kechil (Malaysia), ở Kendang Lambu
(Jawa, Indonesia). Ở hang Madu (Kelanta, Malaysia) người ta tìm được 500 cơng cụ ghè đẽo.
Có thể nói, rìu mài lưỡi ở Đơng Nam Á là cơng cụ đá mài sớm nhất thế giới.
Theo một số tác giả, vào thời đại đá mới, kỹ thuật mài, khoan, cưa đá đã được phổ
biến khắp Đơng Nam Á. Vì thế “ngay những khoảng cách khá xa, chúng tơi có thể nhìn thấy
những điểm giống nhau về kỹ thuật. Chẳng hạn sự giống nhau giữa xưởng chế tác rìu Đơng
Khối và các xưởng chế tác rìu ở Java. Cịn kỹ thuật khoan, tách lõi thì đã phân bố rất rộng, từ
Nam Trung Quốc cho đến Indonesia. Các kĩ thuật chế tác đá như mài, khoan có lẽ đã phân
bố rất rộng, từ Nam Trung Quốc cho đến Indonesia. Các kĩ thuật chế tác như mài, khoan có lẽ
đã lan truyền từ vùng lục địa đến vùng hải đảo mà trước đây kỹ thuật mảnh ghè đẽo đã phổ
biến” [6; tr.13].
Ở Thái Lan, thuộc thời kì văn hóa Bắc Sơn của Việt Nam có thể kể đến di chỉ Sai Yok

(với 1500 công cụ thu được) và di chỉ thẩm phi. Tại Thẩm Phi, người ta cịn tìm thấy hạt của
các loại cây như cau, tùng, tràm, mận, bầu...
Với việc làm đồ gốm, cư dân Đông Nam Á đã chuyển sang kinh tế sản xuất không chỉ
là kinh tế khai thác thiên nhiên như trước đây. Rõ ràng đây là một sự chuyển biến rất có ý
nghĩa trong đời sống của họ. Cư dân Đông Nam Á thời đại đồ đá mới đã biết tìm đến những
nơi thuận lợi cho cuộc sống của mình.
1.3. Đặc trưng nổi bật của nền văn hóa Đông Nam Á
1.3.1. Một khu vực địa lý, lịch sử thống nhất
Đơng Nam Á là khu vực nhiệt đới, gió mùa, khí hậu nóng ẩm, nắng lắm, mưa nhiều.
Xét ở góc độ cảnh quan địa lý, Đơng Nam Á có đủ rừng núi, đồng bằng, sơng, biển. Đó là


những hằng số tự nhiên góp phần tạo nên bản sắc thống nhất của văn hố Đơng Nam Á: văn
hố nơng nghiệplúa nước, văn hố sơng biển và văn minh xóm làng
Về mặt lịch sử, Đơng Nam Á là một trong những cái nơi của nhân loại. Trong q
trình phát triển, số phận của các dân tộc, các quốc gia Đông Nam Á thăng trầm theo những
bước lên xuống gập ghềnh khá giống nhau. Nơi đây có chung các nền văn hố nổi tiếng: văn
hố Hồ Bình, văn hố Bắc Sơn, văn hố Đơng Sơn.v.v. Con đường dựng nước và giữ nước
của các dân tộc, các quốc gia Đông Nam Á cũng ln ln ở vào một hồn cảnh tương tự:
xây dựng nhà nước sơ khai ban đầu theo mô hình tổ chức của Ấn Độ, cùng phải đối mặt với
đế quốc Nguyên Mông, các đế quốc phương Tây và Nhật Bản...
Theo một số quan điểm, nếu xem Đông Nam Á là một khu vực địa lí-hành chính thì nó
bao gồm không gian của 11 quốc gia. Những quốc gia này cũng chính là các thành viên của
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á – ASEAN .
Trái lại, nếu đi từ tiêu chí văn hóa, một số tác giả lại cho rằng khơng gian văn hóa
Đơng Nam Á lại rộng hơn, chúng bao hàm cả dãi đất kéo dài từ Đài Loan, qua nam Trung
Quốc (từ phía Nam sơng Dương Tử), vùng Đông-Bắc và Nam Ấn Độ. Cơ sở của nhận định
trên bắt nguồn từ yếu tố thời tiết vì tồn bộ khu vực này bị chi phối bởi chế độ thời tiết khí
hậu nhiệt đới, gió mùa của châu Á. Hơn nữa, từ trước thế kỷ XIX Đông Nam Á vẫn chưa
được nhìn nhận rõ rệt và đầy đủ như một khu vực địa lí – lịch sử – văn hóa – chính trị riêng

biệt. Bởi nó đã bị lu mờ giữa hai nền văn minh phát triển rất rực rở là văn minh Trung Hoa và
văn minh Ấn Độ. Nhưng kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II đến nay, khu vực văn hóa
Đơng Nam Á ngày càng được công nhận rộng rải trong khoa học. Nhưng không chỉ dừng lại
ở việc dựng lại các vương triều, các nền văn minh cổ ở đây, mà Đông Nam Á đang từng bước
được xem xét như một khu vực lịch sử – văn hóa – kinh tế – chính trị thật sự.
Theo đó, khu vực Đơng Nam Á từ xưa, trong các sách cổ của Ấn Độ đã được nói đến
với những cái tên như Suvarnabhumi (đất vàng) hay Suvarnadvipa (Đảo vàng), người Trung
Hoa thì gọi là Nam Dương, tương tự người Nhật Bản củng dùng từ Nan Yo để chỉ Đông Nam
Á, tức Nam Dương như Trung Hoa, người Ả Rập gọi là Zabag, còn người Hy Lạp, La mã từ
giữa thế kỷ II TCN cũng gọi là Chryse (đất vàng). Như vậy là từ xa xưa, thế giới đã biết đến
khu vực văn hóa Đơng Nam Á. Sở dĩ như vậy là vì tầm quan trọng về mặt vị trí địa lý của
khu vực Đơng Nam Á, vốn đã được chú ý đến từ rất lâu. Đông Nam Á thường được gọi là


“ngã tư đường”, “hành lang” hay “cầu nối” giữa thế giới Đông Á với Tây Á và Địa Trung
Hải. Tuy vậy, chỉ từ sau Thế chiến thứ hai, khái niệm”Đông Nam Á” mới xuất hiện trên bản
đồ chính trị thế giới để chỉ một khu vực riêng biệt nằm ở phía Đơng Nam của châu Á và có
tầm quan trọng đặc biệtvề địa chính trị.
Tính thống nhất về mặt văn hóa của khu vực và tính đa dạng của các tộc người lại làm
nên những đặc trưng bản sắc riêng của từng vùng văn hóa được thể hiện ở nhiều khía cạnh
khác nhau, bao hàm trong nó rất nhiều thành tố cả về vật chất lẩn tinh thần của văn hóa Đơng
Nam Á. Đương nhiên, trong q trình phát triển, văn hóa Đơng Nam Á đã tiếp thu nhều yếu
tố mới từ bên ngoài mà tiêu biểu nhất là từ Trung Hoa, Ấn Độ, Ả Rập và phương Tây. Nhờ
sự giao lưu này, văn hóa Đơng Nam Á đã đạt được những thành tựu mới mẻ trong quá trình
phát triển của mình.
1.3.2. Nơng nghiệp – nền tảng của văn hóa Đơng Nam Á
Văn hóa nơng nghiệp là một trong những yếu tố gốc của văn hóa Đơng Nam Á. Do
Sinh sống trong khu vực bị chi phối bởi hệ thống khí hậu nhiệt đới, gió mùa, các cư dân
Đơng Nam Á đã sáng tạo nên những nền văn hoá tộc người và địa phương đa dạng, phong
phú trên cơ tầng chung của văn hố nơng nghiệp. Người dân khu vực sống chủ yếu bằng lúa

gạo với 02 hình thức canh tác: ruộng nước và nương rẫy, người dân thuần dưỡng trâu bị lấy
sức kéo, chế tạo cơng cụ lao động và xây dựng hệ thống thủy lợi. Do làm nông nghiệp nên cư
dân tập trung sinh sống tại các khu vực có nguồn nước, tạo nên đặc điểm quần cư thành
những làng xóm. Giá trị gia đình, tinh thần kính trọng người già được đề cao, tổ tiên được coi
trọng; truyền thống cộng đồng làng/bản bền chặt.
Nông nghiệp buổi sơ khai phụ thuộc vào tự nhiên nên quan điểm vạn vật hữu linh và
tín ngưỡng thờ các vị thần tự nhiên là tính ngưỡng phổ biến trong khu vực. Lễ hội thường
xuyên được tổ chức vào thời điểm đầu mùa vụ mới hoặc sau các vụ thu hoạch trước hết để tế
lễ thần linh phù hộ cho các mùa vụ bội thu, sau đó là để người dân vui chơi sau những ngày
lao động vất vả. Đây là khu vực đa dạng các hình thức trình diễn dân gian như rối bóng, rối
nước; âm nhạc truyền thống và các loại nhạc cụ rất gần gũi với thiên nhiên; văn hóa ẩm thực
đa dạng và độc đáo.


Khác với văn hoá phương Tây, vốn hầu như chỉ mang tính chất thành thị, văn hố
Đơng Nam Á cịn lưu giữ rất nhiều những nét gắn liền nó với nông thôn, cũng như với nguồn
gốc xa xưa, tức là duy trì cái cơ sở chung gắn liền với quá khứ.
Những yếu tố, những đặc trưng văn hố mang tính nơng thơn cịn tồn tại khá nhiều,
chẳng hạn: Nơng nghiệp lúa nước và tổ chức làng xã có tính chất tự quản thích hợp với nền
nơng nghiệp
1.3.3. Nền văn hóa uyển chuyển, thích nghi với những thay đổi
Tìm hiểu văn hóa của các nước Đơng Nam Á sẽ thấy nhiều nét tương đồng với văn
hóa Ấn Độ, Trung Quốc, ví dụ như ảnh hưởng của Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo, đạo
Hindu,… Những ảnh hưởng này được thể hiện trong cả hệ tư tưởng, lối sinh hoạt, các phong
tục thờ cúng, kiến trúc và diễn xướng dân gian,… Ngoài ra khu vực Đơng Nam Á cịn chịu
tác động mạnh từ văn hóa Ả rập, văn hóa Âu, Mỹ.
Mặc dù khu vực đã có nền tảng văn hóa vững chắc song vẫn chịu nhiều ảnh hưởng của
các nền văn hóa khác là do đây là khu vực có vị trí gần với các quốc gia có nền văn hóa lớn,
thuận lợi giao thương, lịch sử các nước trải qua nhiều giai đoạn bị xâm chiếm, đô hộ bởi các
cường quốc. Tiến trình tiếp biến văn hóa diễn ra một cách chủ động (thông qua hoạt động

trao đổi, buôn bán, học hỏi của cư dân Đông Nam Á với cư dân các nền văn hóa khác) và bị
động (qua q trình bị đơ hộ).
Q trình tiếp biến xảy ra mạnh mẽ song nền văn hóa các nước Đơng Nam Á có sự
tiếp thu chọn lọc, kết hợp hài hịa giữa văn hóa bản địa và văn hóa du nhập, tạo nên những
bản sắc riêng. Do đó chúng ta dễ dàng nhận thấy sự khác biệt giữa Phật giáo ở Thái Lan,
Myanmar, Lào với Phật giáo Ấn Độ; Nho giáo của Việt Nam khác với Nho giáo của Trung
Quốc,…Nhờ sự giao lưu này, văn hóa Đơng Nam Á đã đạt được những thành tựu mới mẻ
trong quá trình phát triển của mình
Đặc điểm này có cơ sở từ hai lí do chính. Thứ nhất, do tính cách, bản chất của con
người Đơng Nam Á: luôn luôn cởi mở (sẵn sàng tiếp nhận, không có thành kiến dân tộc) và
năng động (sáng tạo). Thứ hai, do vị trí của khu vực Đơng Nam Á. Đông Nam Á, như chúng
ta đã biết, nằm trên đường giao lưu Trung Hoa-Ấn Độ, nằm gọn trên trục thông thương Đơng
-Tây qua hai đại dương. Vị trí ấy tạo điều kiện cho Đông Nam Á,ngaytừ buổi đầu lịch sử, đã


sớm tiếp thu ảnh hưởng của văn hoá Trung, Ấn, Arập và sau này sớm tiếp thu ảnh hưởng của
văn hoá phương Tây.
Những dấu ấn về sự tiếp thu ấy cịn để lại khá đậm nét trong văn hố Đơng Nam Á.
Các yếu tố mới tiếp thu từ bên ngoài cùng với các yếu tố bản địa đã làm cho vườn hoa Đông
Nam Á càng đa dạng sắc màu trong cuộc sống hiện đại
1.3.4. Một khu vực văn hóa thống nhất trong đa dạng
Từ nền tảng văn hóa và sự tiếp biến văn hóa đã tạo nên tính thống nhất trong đa dạng
của văn hóa khu vực. Tính thống nhất của văn hóa khu vực Đơng Nam Á trước hết được thể
hiện ở chủ thể của văn hóa Đơng Nam Á. Đông Nam Á là một trong những cái nôi của lồi
người, đây là địa bàn hình thành của đại chủng phương Nam (Australoid) với nước da ngăm
đen, tóc quăn dợn sóng, nhỏ, thấp. Từ đặc điểm chủng tộc tạo nên sự thống nhất cao độ của
khu vực văn hóa Đơng Nam Á.
Dù tín ngưỡng bản địa Đơng Nam Á hết sức đa dạng nhưng vẫn thuộc về ba loại
chính: Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng thờ cúng người đã
mất. Cái chung đó xuất phát từ thuyết vạn vật hữu linh, tức thuyết mọi vật đều có hồn.

Các quốc gia Đơng Nam Á hiện tồn tại hàng chục, hàng trăm ngôn ngữ khác nhau. Như ở
Indonesia có đến 200 ngơn ngữ dân tộc cùng tồn tại; ở Philippin củng có tới 80 ngơn ngữ dân
tộc...Tuy nhiên, các ngôn ngữ này thuộc về một trong số 4 ngữ hệ: Nam Á, Nam Đảo, Thái,
Hán – Tạng. Và xa hơn nữa, chúng đều bắt nguồn từ một nguồn gốc chung là ngôn ngữ Đông
Nam Á tiền sử. Về chữ viết, từ đầu công nguyên, dân tộc Đông Nam Á đã vay mượn chữ Hán
(như ở Việt Nam) và chữ Pali – Sanskrit (ở các nước khác) để xây dựng chữ viết riêng cho
dân tộc mình. Từ thế kỷ XIII, các quốc gia Nam Đảo Malaysia, Indonesia chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ của chữ viết Ả Rập. Từ thế kỷ XVI, do ảnh hưởng của phương Tây, chữ viết của
các quốc gia Đông Nam Á được chuyển đổi theo hướng La tinh hóa (chữ viết Brunei,
Malaysia, Indonesia, Philippin và Việt Nam) được sử dụng ngày nay.
Về phong tục tập quán: Cũng như chữ viết, khu vực Đông Nam Á có hàng trăm dân
tộc khác nhau, nên phong tục, tập quán đa dạng, đặc sắc. Tuy nhiên, những phong tục lại có
nét gần gũi, tương đồng nhau, có sự quy tụ, giao thoa trên nền tảng văn hóa bản địa Đơng
Nam Á. Đó là điểm tương đồng trong trang phục truyền thống (váy, khố, vòng đeo tai, vòng
đeo cổ); mơ hình bữa ăn (thức ăn chính là cơm, rau, cá và hoa quả); tục ăn hỏi trước khi tổ


chức đám cưới linh đình; nghi lễ đám tang (chơn vật dụng theo người chết); tục nhuộm răng,
ăn trầu; trò chơi dân gian (thả diều, thi chọi gà, bơi thuyền…). Trong cách ăn ở, ngôi nhà
chung của các dân tộc Đơng Nam Á là nhà sàn “cao cẳng” thích hợp với mọi địa hình của
khu vực và phù hợp với khí hậu nóng ẩm của khu vực Đơng Nam Á.
Đơng Nam Á có một bản sắc văn hóa riêng, thường xuyên tiếp nhận có chọn lọc những tinh
hoa văn hóa khác để làm phong phú văn hóa khu vực. Cùng với sự phát triển kinh tế của khu
vực, những giá trị văn hóa truyền thống tiến bộ của các nước Đông Nam Á càng được chú
trọng, phát huy, trở thành một động lực quan trọng cho sự phát triển của mỗi quốc gia và của
các khu vực.
Tính thống nhất trong sự đa dạng được biểu hiện ở rất nhiều mặt, nhiều khía cạnh của
văn hố Đơng Nam Á. Dưới đây chỉ xin đơn cử một vài ví dụ minh hoạ.
Về mặt ngôn ngữ, sự đa dạng của chúng được thể hiện ở chỗ mỗi quốc gia Đơng Nam Á hiện
có đến hàng chục, thậm chí hàng trăm ngơn ngữ khác nhau. Với gần 200 triệu dân sống ở

13.000 hòn đảo, Indonesia có đến hơn 200 ngơn ngữ dân tộc khác nhau cùng tồn tại. Đất
nước 7.107 hòn đảo Philippines cũng có đến khoảng 80 ngơn ngữ dân tộc. Các nước Đông
Nam Á khác cũng là những quốc gia đa ngôn ngữ. Tuy nhiên, dù hết sức đa dạng, nhiều vẻ
các ngôn ngữ Đông Nam Á đều chỉ thuộc về một trong số 4 ngữ hệ như chúng ta đã biết:
Nam Á, Nam Đảo, Thái, Hán Tạng. Và xa hơn nữa, chúng đều bắt nguồn từ một gốc chung là
ngôn ngữ Đông Nam Á tiền sử. Quả là một sự thống nhất cao độ từ trong cội nguồn của
chúng
Phong tục tập quán là một cái gì hết sức riêng biệt của mỗi dân tộc. Ở Đơng Nam Á có
đến hàng trăm dân tộc khác nhau, vì thế các phong tục, tập quán cũng rất đa dạng. Sự đa dạng
của nó đến mức mỗi làng, mỗi bản đều có những tập tục riêng của mình. Song trong cái hằng
hà sa số ấy, người ta vẫn tìm thấy nhiều đặc điểm chung mang tính chất tồn vùng, mang tính
phổ qt cho cả khu vực.Đó là cách ăn mặc với một trang phục chung là sarơng (váy), khố,
rồi vịng đeo tai, vịng đeo cổ.v.v. Đó là tục ăn uống vớithức ăn chính là cơm, rau, cá, và hoa
quả. Đó là tục ăn hỏi trước khi tổ chức đám cưới linh đình. Đó là tục chôn theo người chết
những thứ cần thiết cho cuộc sống và những thứ mà khi còn sống họ thường ưa thích. Đó là
tục nhai trầu, cưa, và nhuộm răng đen, xăm mình; rồi đến cả những trị vui chơi giải trí như
thả diều, thi chọi gà, bơi thuyền.v.v. Trong cách ăn ở, ngôi nhà chung của các dân tộc Đông


Nam Á là nhà sàn “cao cẳng” thích hợp với mọi địa hình và rất phù hợp với khí hậu nóng ẩm
của khu vực.
Sự đa dạng của phong tục tập quán còn được biểu hiện ở các lễ hội, lễ tết Đơng Nam
Á. Có thể nói, ở mỗi dân tộc, mùa nào, tháng nào cũng có lễ hội. Nếu làm một phép thống kê,
con số các lễ hội, lễ tết Đông Nam Á đều quy tụ về một loại thống nhất: lễ hội nơng nghiệp.
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, tín ngưỡng bản địa Đơng Nam Á dù hết sức đa dạng,
nhiều vẻ vẫn có thể thuộc về một trong số ba loại chính: tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín
ngưỡng phồn thực và tín ngưỡng thờ cúng người đã mất. Một nét chung khác nữa trong tín
ngưỡng bản địa Đông Nam Á là thuyết vạn vật hữu linh, là tục thờ Thần, đặc biệt là những vị
thần liên quan đến việc trồng cấy như thần Đất, thần Nước, thần Mây, thần Mặt trời.v.v
Tóm lại, ở mọi thành tố của văn hố Đơng Nam Á chúng ta đều có thểtìm thấy một sự

thống nhất trong mn hình mn vẻ sự tồn tại đa dạng của chúng
ở các dân tộc Đông Nam

CHƯƠNG 2:


VIỆT NAM LÀ MỘT ĐÔNG NAM Á THU NHỎ DƯỚI GĨC NHÌN VĂN HĨA
2.1. Lịch sử hình thành văn hóa Việt Nam
Tiến trình văn hóa Việt Nam có thể chia thành 6 giai đoạn: văn hóa tiền sử, văn hóa
Văn Lang - Âu Lạc, văn hóa thời chống Bắc thuộc, văn hóa Đại Việt, văn hóa Đại Nam và
văn hóa hiện đại. 6 giai đoạn này tạo thành ba lớp: lớp văn hóa bản địa, lớp văn hóa giao lưu
với Trung Hoa và khu vực, lớp văn hóa giao lưu với phương Tây.
Lớp văn hóa bản địa :
Lớp văn hóa bản địa được hình thành qua hai giai đoạn: giai đoạn văn hóa tiền sử và
giai đoạn văn hóa Văn Lang - Âu Lạc.
Giai đoạn văn hóa tiền sử :
Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á là một trong những chiếc nơi của lồi người.
Cách đây khoảng 40-50 vạn năm và đến bây giờ khí hậu Việt Nam mang nặng đặc trưng
nhiệt đới nóng ẩm thích hợp cho sự sinh sống của con người. Với những vết tích cịn lại,
chúng ta biết rằng người vượn (Homo - Erectus) đã có mặt ở nhiều vùng từ Bắc tới Nam. Mở
đầu cho giai đoạn tiền sử là Văn hoá núi Đọ (tên di chỉ khảo cổ học thuộc sơ kì thời đại đồ đá
cũ phát hiện được ở núi Đọ, thuộc huyện Triệu Hoá, tỉnh Thanh Hoá). Trên bề mặt Núi Đọ,
các nhà khảo cổ học thu nhặt được hàng vạn mảnh ghè (hay mảnh tước như các nhà khảo cổ
học thường gọi), có bàn tay gia cơng của người ngun thuỷ. Những công cụ đá này rất thô
sơ, chứng tỏ “tay nghề” ghè đẽo còn rất vụng về. Người ta tìm thấy ở đây 8 chiếc rìu tay, loại
cơng cụ được chế tác cẩn thận nhất của người vượn. Sau văn hoá Núi Đọ, các nhà khảo cổ
học đã phát hiện ra di chỉ khảo cổ thuộc hậu kì đá cũ ở Việt Nam. Đó là văn hố Sơn Vi (xã
Sơn Vi, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ).
Thời gian từ 20 đến 15 nghìn năm TCN, con người (người hiện đại- Homo sapiens) đã
cư trú trên một địa bàn rất rộng lớn, họ là chủ nhân của nền văn hoá Sơn Vi từ Lào Cai ở phía

Bắc đến Bình Trị Thiên ở phía Nam, từ Sơn La ở phía Tây đến vùng sơng Lục Nam ở Phía
Đơng. Người Sơn Vi sống chủ yếu trên các gò đồi của vùng trung du Bắc Bộ và Bắc Trung
Bộ. Ngoài ra, người Sơn Vi còn sống cả trong các hang động núi đá vôi.
Đây là các bộ lạc săn bắt, hái lượm, dùng đá cuội để chế tác cơng cụ. Cơng cụ cịn rất
thơ sơ song đã có những bước tiến lớn trong kĩ thuật chế tác, đã có nhiều hình loại ổn định.
Tiêu biểu cho công cụ của các cư dân Sơn Vi là những hòn đá cuội được ghè đẽo ở hai cạnh.


Đa số là cơng cụ chặt, nạo hay cắt, có loại cắt ngang ở một đầu, có loại có lưỡi dọc ở rìa
cạnh, có loại cơng cụ có lưỡi chạy xung quanh theo rìa trịn của viên cuội, hoặc có lưỡi ở hai
đầu.
Dù điều kiện khí hậu thuận lợi cho đời sống con người cộng với sự đa dạng, phong phú
của các loài quần động thực vật phương Nam, song vết tích cư trú của lồi người thời này chỉ
hạn chế ở một số vùng, trên các gò đồi, trong một số hang động vì thời kì này những đồng
bằng Bắo Bộ đều đang ở giai đoạn hình thành, chưa thích hợp cho đời sống định cư lâu dài
của con ngưịi.
Dựa vào kĩ thuật chế tác cơng cụ của cư dân Sơn Vi, giáo sư Hà Văn Tấn cho rằng họ
đã có tư duy phân loại. Tư duy phân loại này thể hiện trong lựa chọn nguyên liệu đá và trong
sự đa dạng của các loại hình cơng cụ. Người nguyên thuỷ đã biết dùng lửa. Họ chôn người
ngay trong nơi cư trú, thức ăn chủ yếu là nhuyễn thể, những cây, những quả, hạt và một số
động vật vừa và nhỏ.
Việc chơn người chết trong nơi cư trú nói lên niềm tin của người nguyên thuỷ về một
thế giới khác, mà ở đó người chết vẫn tiếp tục “sống”. Những công cụ lao động được chôn
bên cạnh người chết đã chứng tỏ niềm tin ấy.
Trong giai đoạn tiền sử, cách đây khoảng một vạn năm đã có những thay đổi quan
trọng, đánh dấu bước tiến mới trong lối sống của con người. Loài người bước vào thời đại đồ
đá mới. Thời đại đá mới được đặc trưng bởi những tiến bộ về phương thức sản xuất cũng như
kĩ thuật sản xuất. Toàn trái đất trở nên ấm, ẩm ướt, khí hậu mơi trường có những biến đổi lớn,
thuận tiện cho sự tồn tại, phát triển của con người, động và thực vật. Thời kì này con người
nhận biết, tận dụng và sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu như đá, đất sét, xương, sừng, tre,

gỗ… Kĩ thuật chế tác đá được hoàn thiện và đạt tới đỉnh cao, loại hình cơng cụ nhiều. Đặc
biệt con người đã biết làm gốm, thuần dưỡng động vật và cây trồng, bắt đầu sống định cư,
dân số gia tăng. Tiêu biểu cho giai đoạn này là văn hố Hồ Bình. Cư dân văn hố Hồ Bình
sống chủ yếu trong các hang động núi đá vơi. Họ thích cư trú trong các khu vực gần cửa
hang, thống đãng, có ánh sáng. Mơi trường hoạt động của họ rất rộng bao gồm hang- thungthềm sông, suối. Vì thế, văn hố Hồ Bình cịn được gọi là nền văn hố thung lũng. Văn hố
Hồ Bình kéo dài trong khoảng từ 12.000 đến 7000 năm cách ngày nay.


Người Hồ Bình sống chủ yếu bằng săn bắt và hái lượm, song do đặc điểm của hệ sinh
thái phồn tạp vùng rừng nhiệt đới, phương thức săn bắn và hái lượm của người tiền sử là theo
phổ rộng, lượm trong rừng đủ thứ có thể ăn và sử dụng được. Mặt khác, do môi trường không
thuận lợi cho hoạt động săn bắn nên phương thức sống của cư dân Hồ Bình chủ yếu là hái
lượm.
Gần đây, người ta đã tìm thấy hạt và quả của nhiều lồi cây thuộc họ rau đậu và họ bầu
bí, được coi là đã thuần dưỡng trong một số di chỉ văn hố Hồ Bình. Vì vậy đã có một nền
nơng nghiệp sơ khai xuất hiện trong lịng văn hố Hồ Bình. Cuộc sống định cư tương đối là
một nhân tố tạo cho sự nảy sinh nghề trồng trọt. Tất nhiên vai trò của nó cịn rất nhỏ bé so
với các hoạt động truyền thống hái lượm, và săn bắt. Có lẽ các hoạt động này vẫn là hoạt
động kinh tế cơ bản của họ.
Sự xuất hiện của nông nghiệp trồng trọt và muộn hơn một chút trong các văn hố thuộc
trung kì và hậu kì đá mới, việc sản xuất đồ gốm đã đánh dấu một bước chuyển biến quan
trọng trong đời sống con người, từ kinh tế khai thác sang kinh tế sản xuất. Cũng nhờ phương
thức sản xuất mới mà con người đã mở rộng không gian sinh tồn. Trong giai đoạn trung kì và
hậu kì của thời đá mới mà con người đã mở rộng không gian sinh tồn, con người đã chiếm
lĩnh và chinh phục hai vùng sinh thái: núi, trước núi và ven biển. Ở vùng sinh thái ven biển,
nghề đánh cá phát triển mạnh. Thời kì này được đặc trưng bởi các nền văn hoá Đa Bút
(Thanh Hoá), Quỳnh Văn (Nghệ An), Hạ Long…với những làng định cư lâu dài, ổn định,
trong đó, bên cạnh quan hệ dòng máu đã xuất hiện và ngày càng nhiều những quan hệ láng
giềng phức tạp.
Cư dân thời đại đá mới có một tri thức phong phú về tự nhiên, những hang động và

những nơi cư trú khác của họ đều là những địa điểm thuận lợi cho sinh hoạt và sản xuất. Điều
này cho thấy con người thời bấy giờ đã biết thích nghi một cách hài hồ với tự nhiên.
Thời kì này cũng để lại những dấu vết của nghệ thuật như những hiện vật bằng xương
có vết khắc hình cá, hình thú và những hình vẽ trên vách hang Đồng Nội, những mảnh thổ
hồng… Người Hồ Bình, theo GS. Hà Văn Tấn có lẽ đã có những biểu hiện về nhịp điệu,
thể hiện bằng những nhóm vạch 3 vạch trên các hịn đá cuội được tìm thấy trong hang động.
Dù mới chỉ giả thiết về số đếm, cách tính ngày… những di vật được tìm thấy trong văn hố
Hồ Bình và Bắc Sơn cũng cho thấy một bước phát triển tư duy của người nguyên thuỷ. Tư


duy về thời gian vũ trụ còn được thể hiện bằng những hoa văn, kí hiệu biểu thị mặt trời như
hình trịn, hình chữ…vẽ trên đồ gốm. Có thể bấy giờ đã bắt đầu hình thành một loại nơng lịch
sơ khai.
Những điều kiện định cư lâu dài và sự phát triển của nơng nghiệp đã làm hình thành rõ
nét tính địa phương của văn hoá trong những khu vực hẹp vào cuối thời đại đá mới (cách đây
khoảng 5000 năm). Thời kì này cũng xuất hiện những tín ngưỡng ngun thuỷ. Là cư dân
nơng nghiệp nên mưa, gió và đặc biệt là mặt trời đã trở thành một trong những thần linh quan
trọng đối với con người.
Giai đoạn văn hóa Văn Lang – Âu Lạc
Vào khoảng thế kỉ thứ VII trước công nguyên, một nền văn minh đầu tiên của người
Việt cổ đã xuất hiện, tồn tại cho đến thế kì thứ II trước cơng ngun, đó là nền văn minh Văn
Lang – Âu Lạc (còn gọi là nền văn minh sơng Hồng).
Tiêu chí của nền văn minh là sự ra đời của Nhà nước sơ khai của người Việt cổ ( ở
các khu vực khác trên thế giới tiêu chí đó là sự ra đời của chữ viết hoặc đô thị). Bộ tộc Lạc
Việt cư trú ở vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ, đã dựng nên Nhà nước Văn Lang mà theo
truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ, đó là nhà nước của vua Hùng, đóng đô ở vùng Phong
Châu (Phú Thọ). Cuối thế kỉ thứ III trước công nguyên, bộ tộc Lạc Việt dã hợp nhất với bộ
tộc Âu Việt (cư trú ở vùng núi phía Bắc), trong cuộc kháng chiến chống quân Tần. Thủ lĩnh
Thục phán đã được suy tôn làm vua (An Dương Vương) lập nên nhà nước Âu Lạc, đóng đơ ở
Cổ Loa. Năm 179TCN, Triệu Đà đã dùng âm mưu thôn tính Âu Lạc sáp nhập vào lãnh thổ

Nam Việt. nhà nước Văn Lang – Âu Lạc hình thành trên cơ sở cố kết cộng đồng nhằm mục
đích chinh phục thiên nhiên và chống lại giặc ngoại xâm.
Ngày nay các chứng tích khảo cổ học đã phần nào làm sáng tỏ các huyền thuyết về
nền văn minh Văn Lang – Âu Lạc. Người Việt cổ đã dùng cày đồng do trâu bị kéo, canh tác
rộng đất cơng, làm vườn trồng rau quả, làm thủy lợi, đánh bắt cá ở các sông hồ, vùng ven
biển. Đã tồn tại những nghề thủ công trong gia đình và làng xóm như dệt, gốm, mộc, đóng
thuyền , đặc biệt nghề đúc đồng khá tinh xảo. Người Việt cổ ở nhà sàn mái cong, chủ yếu ăn
cơm nếp, gói bánh dầy, bánh chưng, mặc khố váy, xăm mình và nhuộm răng đen.
Đứng đầu nhà nước là Vua theo chế độ cha truyền con nối, nhưng thực chất chỉ là liên minh
bộ lạc. Giúp việc cho vua có Lạc Hầu và Lạc Tướng. Bên dưới là hệ thống làng xã, trong đó


có ý thức cộng đồng và chủ nghĩa trọng lão được đề cao. Gia đình phụ quyền, nhưng phụ nữ
cũng được coi trọng.
Đời sống tinh thần tâm linh của người Việt cổ cũng khá phong phú. Đã xuất hiện
những tính ngưỡng nguyên thủy như thần linh, vật linh, vật tổ, tín ngưỡng mẫu, phồn thực,
sùng bái tổ tiên và anh hùng. Phong tục chất phát, thuần hậu, được coi là luật lệ. Nghệ thuật
biểu diễn hồn nhiên sinh động qua các nhạc cụ như gõ và thổi, các điệu múa hóa trang và vũ
trang, các lễ hội làng theo mùa.
Văn minh Văn Lang – Âu Lạc mở đầu thời kì dựng nước, đã tạo nên một cơ tầng văn
hóa bản địa mang tính nam Á và chưa bị ảnh hưởng của văn hóa phương Bắc, bước đầu định
hình cho bản sắc văn hóa Việt, tạo một nội lực văn hóa chống đồng hóa, hỗ trợ mạnh mẽ cho
những cuộc đấu tranh chính trị trong những thế kỉ tiếp theo.
Lớp văn hóa giao lưu với Trung Hoa và khu vực:
Lớp văn hóa giao lưu với Trung Hoa và khu vực cịn lại được hình thành qua 2 giai
đoạn: giai đoạn văn hóa chống Bắc thuộc và giai đoạn văn hóa Đại Việt. Đặc trưng chung của
lớp văn hóa này là sự song song tồn tại của hai xu hướng trái ngược nhau: Một bên là xu
hướng Hán hóa về mặt văn hóa và bên kia là xu hướng chống Hán hóa và Việt Nam hóa các
ảnh hưởng Trung Hoa.
Giai đoạn văn hóa thời chống Bắc thuộc. khởi đầu từ trước cơng nguyên và kéo dài

đến khi Ngô Quyền giành lại được đất nước. Những đặc điểm chủ yếu của giai đoạn văn hóa
này là: Ý thức đối kháng trước nguy cơ xâm lược. Trong 10 thế kỉ chống Bắc Thuộc, cùng
với chính sách đơ hộ về chính trị, bóc lột về kinh tế, các vương triều Trung Quốc đã áp dụng
một số chính sách đồng hóa về văn hóa, nhất là thời Đông Hán, sau khi Mã Viện đàn áp cuộc
khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Nền văn hóa Đơng Á Trung Hoa đã cưỡng bức du nhập vào
Việt Nam, bao trùm lên văn hóa Việt cổ bản địa, báo hiệu sự suy tàn của văn minh Văn Lang
– Âu Lạc. Tuy nhiên chính vì sự cưỡng bức đó, đã tạo ra một sức đề kháng văn hóa nhiều mặt
từ phía người Việt, ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa nhìn chung mờ nhạt.
Trước mắt nó chỉ tạo ra những lớp váng văn hóa mỏng chỉ đọng lại ở các lị sở và tầng
lớp trên, mà chưa thẩm thấu vào khối bình dân làng xã, ở đó vẫn duy trì một đời sống Việt Cổ
Kênh chuyển tải chủ yếu du nhập nền văn hóa Hán vào nền văn hóa Việt Nam là tầng
lớp các quan chức cai trị (Tích Quang, Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp, Cao Biền…) và một số dòng họ


Trung Hoa miền Giang Nam di cư sang Giao Chỉ, Giao Châu rồi ở lại lập nghiệp, qua nhiều
thế hệ một số đã bị Việt hóa. Các yếu tố văn hóa du nhập bao gồm các kỹ thuật nơng nghiệp
sử dụng đồ sắt và phân bón, kỹ thuật xây dựng thành quách, chùa, tháp và lăng mộ, các tôn
giáo Nho, Phật, Đạo, chữ Hán và Hán học, thiết chế quan liêu…Khi vào Việt Nam, các yếu
văn hóa đã bị biến sắc thái phần nào để thích ứng yếu tố văn hóa bản địa Việt. Ngược lại,
cũng có những yếu tố văn hóa du nhập ngược lại lên văn hóa Bắc Trung Hoa (như kỹ thuật
dùng tổ kiến dệt sâu cam, kỹ thuật nấu thủy tinh, kỹ thuật trồng bông, gieo trồng lúa chiêm).
Cùng với việc tiếp thu, người Việt đã đề kháng chống lại văn hóa Hán trên nhiều
phương diện. phần nổi chính là những cuộc nổi dậy, khởi nghĩa vũ trang, nó khơng chỉ là
những cuộc đấu tranh chính trị mà là một sự phán ứng đề kháng văn hóa. Khởi nghĩa Hai Bà
Trưng đã chống lại sự đồng hóa của văn hóa Hán tộc vào Giao chỉ đầu cơng ngun nhằm
duy trì văn hóa cổ truyền của Âu Lạc, những cuộc khởi nghĩa của Lý Bí, Khúc Thừa Dụ có
bao hàm một mục đích chung là bảo vệ nền văn hóa của dân tộc Việt, thốt khỏi sự lệ thuộc
của trung hoa. Lớn mạnh hơn là phần chìm của sự đề kháng, mang tính chất thụ động của
quần chúng bình dân các làng xã. Họ bảo tồn cơ cấu xã hội cổ truyền, giàu tính cộng đồng tự
quản và chủ nghĩa trọng lão, bảo tồn tiếng nói và phong tục tập qn Việt, khơng chịu đồng

hóa với lối sống của người phương Bắc.
Trong 10 thế kỉ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc nền văn hóa Hán chưa tạo nên được sự
chuyển biến mạnh mẽ văn hóa, xã hội đối với người Việt. Như cũng giống như dòng nước
lũ phá hoại mùa màng, khi rút đi đã để lại một lớp phù sa bồi đắp. Nó đã tạo cơ sở ban đầu
cho sự giao lưu giữa văn hóa Nam Á và Đơng Á, sẽ có tốc độ và hiệu quả mạnh mẽ hơn trong
những thế kỉ của thời đại tự chủ sau này.
Văn hóa Đại Việt – Đại Nam ( 938 -1858 )
Thế kỷ X – XIV (Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý Trần Hồ): Văn hóa Đại Việt hình thành và
phát triển. Năm 938 Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng chấm dứt
1000 năm bắc thuộc, mở ra kỉ thời kì độc lập tự chủ (Đại Việt từ năm 938 – 1858). Văn hóa
Đại Việt hình thành và phát triển từ nền văn hóa Văn Lang – Âu Lạc xưa kia.
Bên cạnh nền văn hóa đã có từ trước, văn hóa phương Bắc (nho, đạo lão giáo), văn
hóa Ấn Độ (biểu trưng là văn hóa Champa ở miền trung) cũng truyền vào Đaị Việt. Nhưng


việc tiếp biến những nền văn hóa này trên cơ sở có sự chọn lọc và chắc lọc chứ khơng tiếp
nhận tồn bộ.
Điều này có nghĩa là văn hóa địa phương của Đại Việt (văn hóa dân gian) tồn tại song
song với các nền văn hóa bên ngồi trên tinh thần đã có sự tuyển lựa một cách nghiêm túc để
phù hợp với bản sắc văn hóa Đại Việt.
Thế kỷ XV (triều Lê Sơ): Văn hóa Đại Việt đi vào quỹ đạo của văn hóa Đơng Á (nho
giáo). Trong 2 thập kỷ thuộc Minh mà thực chất là Bắc thuộc lần thứ 2, văn hóa Trung Hoa
đã có điều kiện tràn vào Đại Việt.
Hơn nửa sau cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, do tinh thần tự hào dân tộc và tư
tưởng “Vô tốn Hoa Hạ” sánh ngang Nam – Bắc các vua của triều Lê đã sử dụng văn hóa Nho
giáo (đặc trưng văn hóa Trung Quốc) làm hệ tư tưởng chính thống. Khẳng định vị thế độc tơn
của Nho giáo đối với hệ thống Pháp luật nhằm xây dựng nhà nước quân chủ quan liêu tập
quyền chuyên chế. Đây là một trong những tiêu cực của nền văn hóa Đại Việt. (Bởi Nho
giáo thể hiện tính hà khắc, nghiêm minh mà ít quan tâm lịng người nên ít được lịng dân
chúng khi tơn sùng tơn giáo này của nhà Lý ).

Tuy nhiên, trên thực tế Nho giáo chưa bao giờ xác lập một thế độc quyền trong xã hội
Đại Việt. Phật, Lão giáo hay tín ngưỡng dân gian vẫn tìm ẩn trong từng làng xóm.
Thế kỷ XVI- XVIII (vua Lê – Chúa Trịnh): Một bức tranh văn hóa sôi động, phong
phú, mâu thuẫn và nghịch lý. Nho giáo vẫn cịn tồn tại nhưng đi vào suy thối, phật giáo được
phục hồi – tạo nên tình trạng tam giáo đồng nguyên (Nho – Phật – Đạo), cùng với đó là sự
phát triển của các loại hình văn hóa khác (văn học , kiến trúc, ngôn ngữ…)
Thế kỷ XIX (Nhà Nguyễn ): Nho giáo chính thống được tái lập, văn hóa đa sắc tiếp
tục phát triển. cuộc đụng độ văn hóa phương Tây. Tuy là nho giáo được tơn sùng nhưng nó
đã đi vào lạc hậu và khủng hoảng bởi sự phát triển của thời đại. cùng với đó là sự xâm nhập
của văn hóa phương Tây vào Đại Việt (chữ quốc ngữ, các ăn mặc…) được cư dân Đại Việt
tiếp biến cho đến ngày hơm nay.
Tóm lại, vào những giai đoạn lịch sử khác nhau, các triều đại phong kiến Việt Nam đã chọn
những hệ thống tư tưởng khác nhau. Mà nó là kim chỉ nam cho những hoạt động, thành tựu
văn hóa của từng triều đại. Nhìn chung, bên cạnh nền văn hóa sẵn có, quốc gia Đại Việt đã


×