Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tài liệu Khởi nghiệp và tăng trưởng kinh tế (Phần 4) pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.97 KB, 6 trang )

Khởi nghiệp và tăng trưởng kinh tế
(Phần 4)

Kinh điển khởi nghiệp: Rình mò trên bãi biển

Bạn có thể tưởng tượng tình huống một người khởi nghiệp quan sát thấy một
cơ hội lợi nhuận khá giống trường hợp người đi bộ ngó thấy tờ 20$ nằm lăn
lóc bên vỉa hè. Có thể nhiều người đã đi ngang qua chỗ tờ 20$ đó mà không
chú ý, cho tới khi một người khá nhạy cảm quan sát thấy và tiến tới lượm
lấy phần thưởng 20$ đó.
Mô thức tương tự này phản ánh khá chính xác mô hình của Kirzner về quá
trình khởi nghiệp, ở một vài góc độ nhất định. Ở một vài khía cạnh khác thì
mô tả như thế chưa đủ. Một rắc rối với phép so sánh tương tự này là hiếm
khi chúng ta lượm được tờ 20$ trên hè đường. Vì thế, những con người bận
rộn không có động cơ lợi ích để thường xuyên đảo mắt (như rang lạc) tìm
kiếm những tờ rơi ở hè đường.
[Cơ hội bên bờ biển]
Ngược lại, cũng chẳng phải hiếm ví dụ chúng ta bắt gặp những người
chuyên nghề rình mò với những máy dò kim loại hoạt động tích cực trên bãi
biển. Họ tìm kiếm những vật dụng kim loại bị bỏ quên như đồng hồ, nhẫn và
cả những thứ có giá trị khác. Nếu như có nhiều người làm rơi tiền trên hè
đường hơn, sẽ xuất hiện nhiều người "nhạy cảm" hơn với cơ hội lượm các tờ
20$ từ đường phố (thực tế là không như thế!) Ý tưởng ở đây là, chúng ta
(con người) sẽ trở nên nhạy cảm hơn khi đứng trước các cơ hội tạo ra lợi
nhuận một khi các cơ hội đó xuất
hiện nhiều hơn, và điều này giúp
giải thích lý do vì sao các cơ hội làm
giàu được nắm bắt nhiều hơn trong
các nền kinh tế đang tăng trưởng tốt.
Tăng trưởng kinh tế tạo ra các cơ
hội sinh lợi.


Khi các nền kinh tế được tổ chức
hoạt động xung quanh những chiều hướng truyền thống đã có, vai trò kinh tế
của con người trong xã hội đã phân định rõ nét và có rất ít khả năng cho
nhiều người tận dụng cơ hội sáng tạo-đổi mới. Nền kinh tế Trung Quốc cổ
thực ra có nhiều vốn hơn các nền kinh tế đương đại khác. Trung Quốc lúc đó
cũng có hệ thống pháp luật khá phát triển, sở hữu trí tuệ định nghĩa rõ, và hệ
thống tri thức tương đối tiến bộ hơn nhiều vùng đất khác trên thế giới. Song,
cái bản chất truyền thống bám chắc trong nền kinh tế cũng mang ý nghĩa
rằng các cá nhân trong xã hội xác lập nghề nghiệp và công việc của mình do
các nhân tố của lịch sử vượt ra ngoài khả năng tự kiểm soát của bản thân, và
quan trọng hơn cả là, họ không tìm thấy được thay đổi nào về chỗ đứng xã
hội-kinh tế của bản thân mình suốt cả hành trình cuộc đời mình.
[10]

[10] Heilbroner (1962) chia các hệ thống kinh tế thành truyền thống, kế
hoạch hóa, và thị trường, chính là cách phân biệt sử dụng ở đây khi bàn luận
về các nền kinh tế xây dựng trên các truyền thống.
Khi mà thân phận chẳng có gì thay đổi mấy suốt cuộc đời, một cá nhân đánh
mất khả năng thể quan sát thấy một cơ hội khởi nghiệp ngày hôm nay xuất
hiện, mà ngày hôm qua chưa có. Thậm chí cả một cơ hội lớn cũng có xu
hướng bị hòa trộn vào chính cái thân phận hiện tại, và bởi vì nó lại có cảm
giác gần gũi (truyền thống) cơ hội đó lại hầu như không được chú ý nữa.
Đây là một lý do vì sao các nền kinh tế chỉ xoay quanh các yếu tố truyền
thống có xu hướng không tiếp tục vận động, sáng tạo, ngay cả khi nền kinh
tế đó chứa đựng những phẩm chất thừa hưởng đáng kể quan trọng cho quá
trình sản xuất, ngay cả khi đó là nền kinh tế tương đối tiến bộ về công nghệ,
và ngay cả khi lực lượng lao động dồi dào có thể trở thành nguồn vốn con
người trọng yếu.
Quan sát vừa rồi không chỉ đúng với nền kinh tế kiểu truyền thống, mà ngay
cả những nền kinh tế thị trường cũng vậy, nếu nền kinh tế thị trường đó đang

trong trạng thái không vận động. Hãy xét tư tưởng tân cổ điển về điểm cân
bằng tổng quát trong đó tất cả các công ty định giá thành ở mức trung bình
thấp nhất và không có lợi nhuận kinh tế. Ngay từ định nghĩa, các nhà khởi
nghiệp đã không tìm thấy cơ hội lợi nhuận cho riêng mình; do là các cơ hội
đó đều đã có ai đó khai thác mất rồi. Xuất phát từ điểm cân bằng này, ta thấy
rằng nếu như lại xuất hiện một sự thay đổi sáng tạo, khiến cho điểm cân
bằng mất ổn định, sự mất ổn định đó góp phần tạo ra các cơ hội lợi nhuận
trong các khu vực khác của một nền kinh tế.
Nếu một hàng hóa mới được tung ra thị
trường, người tiêu dùng sẽ dịch chuyển hành vi
tiêu dùng của mình hướng tới sản phẩm đó, tạo
ra lợi nhuận cho một số hãng và lỗ của một số
hãng khác. Những công ty mà bán loại hàng
hóa ăn theo hàng hóa mới đó cũng phát hiện ra
một loại thị trường mà trước đó chưa từng tồn
tại. Các quá trình sản xuất mới mẻ cũng được
sáng tạo nên chỉ vì loại hàng hóa mới đó, và
các cơ hội sáng tạo đổi mới cứ thế diễn ra tiếp
tục.
Ví dụ vừa nói chỉ ra 2 nhược điểm rất quan trọng của phân tích tăng trưởng
kinh tế dựa vào mô hình điểm cân bằng tổng quát. Trước tiên, các mô hình
không ăn nhập gì lắm để có thể mô tả tốt quá trình tung ra các sản phẩm
hàng hóa mới trong nền kinh tế. Trong mô hình tân cổ điển, tăng trưởng xảy
ra chỉ vì yếu tố tiếp tục sản xuất các hàng hóa cũ, đã từng tồn tại. Thứ đến,
bởi vì bản chất chúng là các mô hình điểm cân bằng, chúng không chủ tâm
mô tả các cơ hội lợi nhuận cám dỗ chúng ta phải sáng tạo-đổi mới. Vì thế,
sáng tạo thường hay bị gộp cả vào hoạt động R&D, sản sinh ra do đơn thuần
là đưa đầu vào tới hàm sản xuất, chẳng còn chút bóng dáng nào của cả một
quá trình phát hiện đầy tính khởi nghiệp.
Nếu như ta tưởng tượng hoạt động của người điều khiển cái hộp đen kỹ

thuật là các công ty trong mô hình đó, người điều khiển đó hẳn là các giám
đốc, công việc chính của giám đốc là gom các vật tư đầu vào được liệt kê
sẵn, chuyển biến chúng thành các đầu ra được định dạng sẵn, theo quy tắc
hiệu quả Pareto, chứ không còn là những nhà khởi nghiệp đang đổi mới sáng

Dr. Israel M. Kirzner
tạo bằng cách tiến hành sản xuất theo những cách thức mà trước đó chưa ai
từng thử làm, nhằm tạo ra những hàng hóa-dịch vụ mà trước đó chưa từng
tồn tại trong nền kinh tế, nhắm tới khai thác những thị trường trước đó chưa
hề xuất hiện.
Chúng ta có động cơ lợi ích để xét R&D là một phần của đổi mới và khởi
nghiệp, giống như cách một người nào đó cân nhắc việc mua máy dò kim
loại để kiếm chác trên bãi biển.
[11]

[11] Tuy nhiên, cũng lưu ý rằng Kirzner (1973) phân biệt rõ giữa kiến thức
khởi nghiệp mà người dò kim loại có thể dùng máy để phát hiện cơ hội lợi
nhuận chưa bị phát hiện trước đó, không cần nhiều nguồn lực với việc đầu tư
để sản xuất ra máy dò kim loại, quá trình cần dùng tới nguồn vốn trong khi
sản xuất.
Nếu không có nhiều cơ hội khởi nghiệp, việc cứ ngó ngoáy tìm kiếm cũng
chả đem lại tích sự gì, nhưng khi các cơ hội khởi nghiệp xuất hiện, thì việc
đầu tư cho quá trình tìm kiếm các cơ hội đó trở nên hợp lý. Thế nhưng, việc
dồn sức vào R&D như một thành phần chủ chốt của sáng tạo và tiến bộ công
nghệ đã bỏ lỡ mất một yếu tố rất quan trọng. Trong hầu hết các trường hợp,
máy dò kim loại chẳng giúp người ta tìm được các thứ đồ bị thất lạc-đánh
rơi, vì thế hiếm thấy ai sử dụng các máy dò kim loại tìm đồ bị mất trong các
trung tâm mua sắm, tòa nhà chung cư hay ở trường học. Tuy thế, trên bãi
biển, các đồ kim loại bị thất lạc có nhiều khả năng bị vùi dưới cát, và vì
những người dạo bãi biển cũng hay làm thất lạc đồ, việc sử dụng máy dò

kim loại rất có khả năng khui ra những món đồ rất giá trị. Tương tự vậy,
hoạt động R&D diễn ra trong những mảng mà lợi nhuận khởi nghiệp có vẻ
như thường đem lại nhiều hứa hẹn (chứ không phải mọi nơi.) Chi tiêu R&D
không phải là nguyên nhân dẫn tới các cơ hội khởi nghiệp. Ta thấy người ta
chi tiêu nhiều cho R&D trong công nghiệp điện tử hơn trong công nghiệp
may mặc bởi vì có nhiều cơ hội lợi nhuận trong ngành điện tử hơn là trong
bản thân ngành may.
Như thế, mặc dù ta có thể xem R&D là một nhân tố thúc đẩy các tiến bộ
công nghệ sản xuất, nhưng bản thân R&D lại không phải là nguyên nhân dẫn
đến tăng trưởng, mà nó là một "sự đáp lại" trước các cơ hội tăng trưởng thì
đúng hơn. Vậy câu hỏi đặt ra là, điều gì giúp tạo ra các cơ hội? Câu trả lời
là: Quá trình khởi nghiệp.
Trong bối cảnh tĩnh, ít có những thay đổi đáng kể, thì cũng có rất ít cơ hội
khởi nghiệp. Những thứ nằm chờ thời thì thường khó có thể quan sát thấy,
và vì thế lại càng chẳng mấy cơ hội được phát hiện ra, thế thì một môi
trường tĩnh ngăn cản việc tạo ra các cơ hội lợi nhuận mới. Hơn thế nữa, với
một số ít cơ hội, chúng ta lại có ít động lực lợi ích để bỏ công sức ra tìm
kiếm chúng. Trong một môi trường đầy thay đổi về kinh tế, các cơ hội mới
sẽ liên tục tự xuất đầu lộ diện. Khi các nhà khởi nghiệp tận dụng một số cơ
hội nhất định, môi trường kinh tế lại tiếp tục vận động thay đổi, lại sản sinh
các cơ hội mới bổ sung. Như thế, quá trình khởi nghiệp lại tự nó dẫn tới khởi
nghiệp.
Saga.vn

×