Bệnh đái tháo đường và các
biến chứng tim mạch
Bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) là một bệnh mãn tính, nếu không được
kiểm soát tốt sau nhiều năm sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng là các
biến chứng trên các cơ quan khác như: mắt, thận, thần kinh, tim và các mạch
máu Người bệnh có thể tránh được các biến chứng này nếu có những hiểu
biết và biện pháp cần thiết để phát hiện và điều trị kịp thời.
Khái niệm chung
Các biến chứng tim mạch là các biến chứng xuất hiện trên cơ sở tổn thương
xơ vữa động mạch của các mạch máu lớn và vừa.
Bệnh ĐTĐ làm cho quá trình xơ vữa động mạch của các động mạch lớn và
vừa xuất hiện sớm hơn và tiến triển nhanh hơn ở những người không mắc bệnh
này. Mặt khác, bên cạnh bệnh ĐTĐ còn có nhiều trạng thái và bệnh lý khác cũng
có thể góp phần gây các biến cố tim mạch. Đó là những yếu tố nguy cơ của bệnh
tim mạch, trong đó phải kể đến: bệnh tăng huyết áp, các rối loạn mỡ máu, hút
thuốc lá, béo phì, lối sống ít vận động.
Bệnh ĐTĐ là một yếu tố nguy cơ làm gia tăng sự xuất hiện và mức độ trầm
trọng của các biến cố tim mạch (ở cả nam và nữ): tăng nguy cơ bệnh mạch vành
lên gấp 1,8 lần, tăng nguy cơ bị tai biến mạch não lên gấp 2,4 lần, tăng nguy cơ
viêm tắc động mạch chi dưới lên gấp 4,5 lần.
Theo thống kê các biến chứng tim mạch này là nguyên nhân tử vong của
3/4 số bệnh nhân ĐTĐ ngoài tuổi bốn mươi.
Các biểu hiện thường gặp
1.Viêm tắc động mạch chi dưới
Đặc điểm: Hay gặp ở người ĐTĐ hơn ở người bình thường (50% bệnh
nhân ĐTĐ sau 20 năm tiến triển bệnh). Nguy cơ gây hoại tử cao gấp 7 lần ở người
không mắc ĐTĐ và là nguyên nhân dẫn đến cắt đoạn chi của 50% số bị cắt đoạn
chi không do chấn thương. Tiên lượng nặng thêm nếu bệnh nhân hút thuốc lá.
Thường phối hợp với tổn thương thần kinh tạo nên nguy cơ của bàn chân người
ĐTĐ.
Dấu hiệu gợi ý: chứng đau cách hồi, giảm hoặc mất mạch mu chân, bàn
chân lạnh, đau chân ban đêm…
Cần phải: được khám bàn chân, bắt mạch chi. Làm thêm xét nghiệm thăm
dò chuyên biệt nếu có dấu hiệu gợi ý và phải được điều trị.
Hệ thống tĩnh mạch chi dưới
2.Bệnh tim ở người đái tháo đường
Bệnh mạch vành: rất hay gặp và tiên lượng nặng. Tiên lượng được cải thiện
bằng kiểm soát tốt và sớm đường huyết.
Biểu hiện: cơn đau thắt ngực không điển hình hoặc không có triệu chứng
đau ngực, nhồi máu cơ tim im lặng, bệnh tim thiếu máu cục bộ, đột tử.
Cần phải: đo điện tim khi mới phát hiện bệnh và làm lại hàng năm, nghiệm
pháp gắng sức nếu nghi ngờ trên lâm sàng hoặc điện tim.
3.Bệnh tăng huyết áp
Đặc điểm: có ở 50% bệnh nhân ĐTĐ type 2 sau tuổi 45, có thể xuất hiện
trước khi mắc ĐTĐ týp 2. Ở ĐTĐ type 1 thường là hậu quả của biến chứng thận.
Tăng huyết áp làm nặng thêm các biến chứng vi mạch và là nguy cơ lớn dẫn đến
các biến cố tim mạch.
Cần phải: bệnh tăng huyết áp cần được phát hiện sớm, điều trị thường
xuyên và ổn định ở mức < 140/ 90mmHg và thấp hơn nữa nếu có thêm yếu tố
nguy cơ khác. Huyết áp cần được kiểm tra thường xuyên và mỗi khi đi khám bệnh.
Để điều trị tăng huyết áp có thể phải dùng một hay nhiều loại thuốc khác nhau
theo chỉ định của bác sĩ. Cần phối hợp thực hiện chế độ ăn và tập luyện.
4.Tai biến mạch não
Đặc điểm: hay gặp tai biến do nhồi máu não hơn là do xuất huyết não.
Cần phải: phát hiện các tai biến mạch não thoáng qua. Điều trị tốt ĐTĐ và
các yếu tố nguy cơ khác, đặc biệt là tăng huyết áp và rối loạn mỡ máu.
5.Rối loạn mỡ máu
Đặc điểm: tăng triglyceride máu, giảm HDL - cholesterol, tăng LDL
cholesterol
Cần phải: các rối loạn này có thể được cải thiện phần nào nhờ kiểm soát tốt
đường máu. Nếu chưa đạt mức tối ưu cần được điều trị sớm, bao gồm chế độ ăn và
chế độ thuốc. Cần làm xét nghiệm kiểm tra các bất thường về mỡ máu tối thiểu
một lần mỗi năm. Trong trường hợp điều trị cần kiểm tra mỗi 3 tháng.
6.Phòng ngừa các biến chứng
Phát hiện sớm các yếu tố nguy cơ tim mạch (bao gồm ĐTĐ và các yếu tố
nguy cơ khác).
Kiểm soát tốt bệnh ĐTĐ.
Kiểm soát tốt các yếu tố nguy cơ khác ngoài ĐTĐ.
Ngoài ra, cần giảm trọng lượng cơ thể thừa, tăng cường vận động thể lực,
bỏ thuốc lá, giảm uống rượu… để giảm thiểu các yếu tố nguy cơ tim mạch và từ
đó giảm nguy cơ mắc bệnh và tử vong do biến chứng tim mạch ở bệnh nhân ĐTĐ.