Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Đẩy mạnh hoạt động khai thác thị trường khách du lịch Mỹ tại công ty Indochina Travel Services.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.65 KB, 59 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay hội nhập vào xu thế chung của thế giới, ngành du lịch ngày càng
phát triển nhanh, chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và được
coi là một ngành kinh tế mũi nhọn.
Trong hoạt động kinh doanh du lịch thì hoạt động lữ hành, đặc biệt hoạt
động kinh doanh lữ hành quốc tế hết sức quan trọng. Trong những năm qua
do những chính sách mở cửa nền kinh tế cùng với những chính sách, biện
pháp của Đảng và Nhà nước nhằm thúc đẩy nền kinh tế đi lên đã tạo điều kiện
phát triển du lịch lữ hành quốc tế vào Việt Nam và lượng khách Việt Nam đi
du lịch nước ngoài. Tuy nhiên, lượng khách quốc tế đến Việt Nam còn quá
thấp so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Sự kém phát triển này
là do sản phẩm du lịch của Việt Nam còn nghèo nàn, chưa hấp dẫn du khách,
các công ty lữ hành quốc tế còn yếu về kinh nghiệm quản lý, chưa xây dựng
được sản phẩm đặc trưng, các chương trình du lịch chưa đa dạng phong phú;
đồng thời chưa đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thị trường, tổ chức quảng cáo
khuếch trương sản phẩm còn hạn chế. Tình hình đó đã đặt ra cho các công ty
lữ hành quốc tế Việt Nam một loạt vấn đề cần giải quyết cho sự tồn tại và
phát triển của chính bản thân mình. Giống như các Công ty lữ hành quốc tế
khác, công ty Indochina Travel Services cũng gặp những thách thức lớn khi
hoạt động trên thương trường.
Sau thời gian học tập và tìm hiểu tại công ty Indochina Travel Services,
xuất phát từ những suy nghĩ và bằng kiến thức thu được trong quá trình học
tập và thực tế hoạt động kinh doanh lữ hành quốc tế của công ty Indochina
Travel Services, em đã chọn đề tài "Đẩy mạnh hoạt động khai thác thị
trường khách du lịch Mỹ tại công ty Indochina Travel Services" làm chuyên
đề tốt nghiệp, nhằm thử nghiệm phân tích thực trạng và đề xuất một số giải
pháp nhằm góp phần đẩy mạnh hoạt động khai thác thị trường khách du lịch
Mỹ của công ty.
Lê Huy – lớp du lịch 45B – trường đại học Kinh tế quốc dân
Kết cấu của chuyên đề ngoài lời nói đầu, kết luận và tài liệu tham khảo,
gồm ba chương:


Chương I: Cơ cở lý luận về hoạt động khai thác thị trường khách du lịch
của một doanh nghiệp lữ hành.
Chương II: Thực trạng hoạt động khai thác thị trường khách du lịch Mỹ tại
công ty Indochina Travel Services.
Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động khai thác thị
trường khách du lịch Mỹ tại công ty Indochina Travel Services.
Lê Huy – lớp du lịch 45B – trường đại học Kinh tế quốc dân
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động khai thác thị
trường khách du lịch của một doanh nghiệp lữ hành
1.1. Một số khái niệm cơ bản.
1.1.1 Khái niệm du lịch.
Thực tế hoạt động du lịch đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử phát triển của
xã hội loài người. Ngay trong thời kỳ cổ đại với các nền văn hóa lớn như Ai
Cập, Hy Lạp đã xuất hiện hình thức đi du lịch tuy đó chỉ là hoạt động mang
tính tự phát, đó chỉ là các cuộc hành hương về các thánh địa, đất thánh, đền
chùa, các nhà thờ Kitô giáo, các cuộc du ngoạn của các vua chúa và quý tộc…
Đến thế kỷ XVII, thời kỳ phục hưng ở các nước châu Âu, kinh tế - xã hội phát
triển, các lĩnh vực như thông tin, giao thông vận tải theo đó phát triển nhanh
chóng, điều đó càng thúc đẩy du lịch phát triển mạnh mẽ.
Đến thời kỳ hiện đại cùng với sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật, sự ra đời của các phương tiện giao thông mới, du lịch có điều kiện để
phát triển mạnh, con người có thể đi từ nơi này đến nơi khác trong thời gian
ngắn. Sống trong không gian “bê tông”, “máy tính”, tác phong công nghiệp
đã quá mệt mỏi, con người nảy sinh nhu cầu trở về với thiên nhiên, về với cội
nguồn văn hóa dân tộc hay chỉ đơn giản là để nghỉ ngơi sau những quãng thời
gian lao động.
Như vậy du lịch đã dần trở thành một hoạt động quen thuộc trong đời
sóng của con người và càng phát triển phong phú cả về chiều rộng lẫn chiều
sâu.
Theo Tổ chức du lịch Thế giới thì năm 1998 khách du lịch toàn cầu là 625

triệu lượt người, thu nhập là 448 tỷ đô la Mỹ; năm 2000 là 698 triệu lượt
người, thu nhập là 467 tỷ đô la Mỹ; năm 2002 lượng khách là 716,6 triệu lượt,
thu nhập là 474 tỷ đô la Mỹ. Và dự báo đến năm 2010 lượng khách là 1.006
triệu lượt với thu nhập là 900 tỷ đô la Mỹ.
Lê Huy – lớp du lịch 45B – trường đại học Kinh tế quốc dân
Vậy từ đó ta đặt ra câu hỏi du lịch là gì?
Mặc dù hoạt động du lịch đã có nguồn gốc hình thành từ rất lâu và phát
triển với tốc độ nhanh như vậy, song cho đến nay khái niệm “du lịch” được
hiểu rất khác nhau tại các quốc gia khác nhau và từ nhiều góc độ khác nhau.
Theo định nghĩa của Kuns, người Thụy Sỹ cho rằng: “Du lịch là hiện
tượng những người ở chỗ khác, ngoài nơi ở thường xuyên, đi đến bằng các
phương tiện giao thông và sử dụng các xí nghiệp du lịch”.
Theo định nghĩa của hai vị giáo sư, tiến sỹ Hunziker và Krapf: “Du lịch là
tập hợp các mối quan hệ và các hiện tượng phát sinh trong các cuộc hành
trình và lưu trú của những người ngoài địa phương, nếu việc lưu trú đó không
thành cư trú thường xuyên và không liên quan đến hoạt động kiếm lời”.
Định nghĩa trong Từ điển Bách khoa về Du lịch (Viện hàn lâm):
“Du lịch là tập hợp các hoạt động tích cực của con người nhằm thực hiện
một dạng hành trình, là một công nghiệp liên kết nhằm thỏa mãn các nhu cầu
của khách du lịch…Du lịch là cuộc hành trình mà một bên là người khởi hành
với mục đích đã được chọn trước và một bên là những công cụ làm thỏa mãn
các nhu cầu của họ”.
Định nghĩa của Đại học kinh tế Praha (Cộng hòa Séc):
“Du lịch là tập hợp các hoạt động kỹ thuật, kinh tế và tổ chức liên quan
đến cuộc hành trình của con người và việc lưu trú của họ ngoài nơi ở thường
xuyên với nhiều mục đích khác nhau, loại trừ mục đích hành nghề và thăm
viếng có tổ chức thường kỳ”.
Ngược lại với những định nghĩa trên, ông Michael Coltman (Mỹ) đã đưa
ra một định nghĩa rất ngắn gọn về du lịch: “Du lịch là sự kết hợp và tương tác
của 4 nhóm nhân tố trong quá trình phục vụ du khách bao gồm: du khách, nhà

cung ứng dịch vụ du lịch, cư dân sở tại và chính quyền địa phương nơi đón
khách du lịch”. Có thể thể hiện mối quan hệ đó bằng sơ đồ sau:
Lê Huy – lớp du lịch 45B – trường đại học Kinh tế quốc dân
Định nghĩa của Tổ chức Du lịch Thế giới.
“Du lịch bao gồm tất cả các hoạt động của một cá nhân đi đến là lưu trú tại
những điểm ngoài nơi ở thường xuyên của họ trong thời gian không dài hơn
một năm với muc đích nghỉ ngơi, công vụ và mục đích khác”
Ở Việt Nam, khái niệm du lịch được nêu trong Pháp lệnh du lịch như sau:
“Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyêncủa
mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một
khoảng thời gian nhất định”.
Từ các định nghĩa trên cho ta thấy du lịch là một hoạt động liên quan đến
một cá nhân, một nhóm hay một tổ chức đi ra khỏi nơi cư trú thường xuyên
của họ bằng các cuộc hành trình ngắn ngày hoặc dài ngày ở một nơi khác với
mục đích chủ yếu không phải là kiếm lời. Quá trình đi du lịch của họ được
gắn với các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ, hiện tượng ở nơi họ đến.
1.1.2 Nhu cầu du lịch.
1.1.2.1 Khái niệm nhu cầu du lịch.
Người ta đi du lịch với mục đích “sử dụng” tài nguyên du lịch mà nơi ở
thường xuyên của mình không có. Muốn “sử dụng” tài nguyên du lịch ở nơi
nào đó người ta pahỉ mua sắm và tiêu dùng các hàng hóa, dịch vụ khác phục
vụ cho chuyến hành trình của mình. Trong sự phát triển không ngừng của nền
sản xuất xã hội du lịch đã trở thành một đòi hỏi tất yếu của con người. Du lịch
đã trở thành nhu cầu của con người khi trình độ kinh tế, xã hội và dân trí đã
phát triển .
Lê Huy – lớp du lịch 45B – trường đại học Kinh tế quốc dân
Chính quyền
địa phương
nơi đón khách
du lịch

Du khách
Dân cư sở tại
Nhà cung ứng
dịch vụ du lịch
Vậy thế nào là nhu cầu du lịch?
Nhu cầu du lịch là một loại nhu cầu đặc biệt và tổng hợp của con người,
nhu cầu này được hình thành và phát triển trên nền tảng của nhu cầu sinh lý
(sự đi lại) và các nhu cầu tinh thần (nhu cầu nghỉ ngơi, tự khẳng định, nhận
thức, giao tiếp). Nhu cầu du lịch phát sinh là kết quả tác động của lực lượng
sản xuất trong xã hội và trìng độ sản xuất xã hội. Trình độ sản xuất xã hội
càng cao, các mối quan hệ xã hội càng hoàn thiện thì nhu cầu du lịch của con
người càng trở nên gay gắt. “Du lịch là một hoạt động cốt yếu của con người
cà của xã hội hiện đại. Bởi một lẽ du lịch đã trở thành một hình thức quan
trọng trong việc sử dụng thời gian nhàn rỗi của con người đồng thời là
phương tiện giao lưu trong mối quan hệ giữa con người với con người”
(Tuyên bố La Hay về du lịch). Ngành du lịch ngày nay phát triển là vì nhu
cầu du lịch của con người ngày càng phát triển. Sự phát triển đó của nhu cầu
du lịch là do các nguyên nhân sau:
+ Đi du lịch đã trở thành phổ biến với mọi người.
+ Xu hướng dân số theo kế hoạch hóa gia đình do vậy tạo điều kiện đi du
lịch dễ dàng hơn.
+ Cơ cấu về độ tuổi.
+ Khả năng thanh toán cao.
+ Phí tổn du lịch giảm.
+ Mức độ giáo dục cao hơn.
+ Cơ cấu nghề nghiệp đa dạng.
+ Đô thị hóa.
+ Các chương trình bảo hiểm, phúc lợi lao động do chính phủ tài trợ, du
lịch trả góp.
+ Thời gian nhàn rỗi nhiều.

+ Du lịch vì mục đích kinh doanh.
Lê Huy – lớp du lịch 45B – trường đại học Kinh tế quốc dân
+ Phụ nữ có điều kiện đi du lịch.
+ Du lịch là tiêu chuẩn của cuộc sống.
+ Mối quan hệ thân thiện – hòa bình giữa các quốc gia.
1.1.2.2 Phân loại nhu cầu du lịch.
Tổng quát lại từ việc nghiên cứu những nhu cầu nói chung và những mục
đích, động cơ đi du lịch nói riêng của con người các chuyên gia về lĩnh ực du
lịch đã phân chia nhu cầu du lịch thành 3 nhóm cơ bản sau:
- Nhu cầu cơ bản (thiết yếu) gồm: Đi lại, lưu trú, ăn uống.
- Nhu cầu đặc trưng: Nghỉ ngơi, giải trí, tham quan, tìm hiểu, thưởng thức
cái đẹp, tự khẳng định, giao tiếp…
- Nhu cầu bổ sung: Thẩm mỹ, làm đẹp, thông tin, giặt là…
Trên thực tế khó có thể xếp hạng phân thứ bậc các loại nhu cầu của khách
du lịch. Các nhu cầu đi lại, lưu trú, ăn uống là các nhu cầu thiết yếu và quan
trọng không thể thiếu được để con người cũng như khách du lịch tồn tại và
phát triển. Tuy nhiên nếu đi du lịch mà không có cái gì để gây ấn tượng, giải
trí tiêu khiển, không có dịch vụ để thỏa mãn các nhu cầu thì không thể gọi là
đang đi du lịch được. Trong cùng một chuyến đi ta thường kết hợp để đạt
được nhiều mục đích khác nhau, do vậy các nhu cầu cần được thỏa mãn đồng
thời.
Thỏa mãn nhu cầu thiết yếu để con người tồn tại và phát triển để tiếp tục
thỏa mãn các nhu cầu tiếp theo. Nhu cầu đặc trưng là nguyên nhân quan trọng
nhất có tính chất quyết định thúc đẩy con người đi du lịch. Nếu nhu cầu này
được thỏa mãn thì coi như đã đạt được mục đích chuyến đi. Và việc thỏa mãn
nhu cầu bổ sung là làm dễ dàng và thuận tiện hơn trong hành trình đi du lịch
của khách.
Lê Huy – lớp du lịch 45B – trường đại học Kinh tế quốc dân
1.1.3. Khách du lịch, phân loại và các yếu tố ảnh hưởng đến khách du
lịch.

1.1.3.1 Khái niệm khách du lịch.
Ngành du lịch muốn hoạt động và phát triển thì đối tượng “khách du lịch”
là nhân tố quyết định. Nếu khong có “khách du lịch” thì các nhà kinh doanh
du lịch không thể kinh doanh được, không có “khách du lịch” thì hoạt động
của các nhà kinh doanh du lịch trở nên vô nghĩa.
Nếu xét trên góc độ thị trường thì “khách du lịch” chính là “cầu thị
trường”, còn các nhà kinh doanh du lịch là “cung thị trường”. Vậy “khách du
lịch” là gì ?
Để nghiên cứu một cách đầy đủ và có cơ sở tin cậy cần tìm hiểu và phân
tích một số định nghĩa về “khách du lịch” được đưa ra từ các Hội nghị quốc tế
về du lịch hay của các tổ chức quốc tế có quan tâm đến các vấn đề về du lịch.
Sau đây là một số định nghĩa về khách du lịch:
Định nghĩa của Liên hiệp các quốc gia (League of Nations) về khách du
lịch nước ngoài: “Bất cứ ai đến thăm một đất nước khác với nơi cư trú thường
xuyên của mình trong khoảng thời gian ít nhất là 24h”.
Định nghĩa của Liên hiệp Quốc tế của các Tổ chức Chính thức về Du lịch
(IUOTO):
Năm 1950 IUOTO đưa ra định nghĩa về khách du lịch quốc tế có 2 điểm
khác với định nghĩa trên là: “Sinh viên và những người đến học ở các trường
cũng được coi là khách du lịch” và “Những người quá cảnh không được coi là
khách du lịch trong 2 trường hợp, hoặc là họ hành trình qua một nước không
dừng lại trong thời gian vượt quá 24h, hoặc là họ hành trình trong khoảng thời
gian dưới 24h và có dừng lại nhưng không với mục đích du lịch”.
Định nghĩa về khách du lịch có tính chất quốc tế đã hình thành tại Hội
nghị Roma do Liên hợp quốc tổ chức vào năm 1963: “Khách du lịch quốc tế
Lê Huy – lớp du lịch 45B – trường đại học Kinh tế quốc dân
là người lưu lại tạm thời ở nước ngoài và sống ngoài nơi cư trú thường xuyên
của họ trong thời gian 24h hay hơn”
Định nghĩa của hội nghị quốc tế về Du lịch tại Hà Lan năm 1989: “Khách
du lịch quốc tế là những người đi thăm một đất nước khác, với mục đích tham

quan, nghỉ ngơi, giải trí, thăm hỏi trong khoảng thời gian nhỏ hơn 3 tháng,
những người khách này không được làm gì để được trả thù lao và sau thời
gian lưu trú ở đó du khách trở về nơi ở thường xuyên của mình”.
Định nghĩa về khách du lịch của Việt Nam:
Trong Pháp lệnh du lịch của Việt Nam ban hành năm 1999 có nói: “Khách
du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm
việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến”.
1.1.3.2 Phân loại khách du lịch.
Sau khi đã nhận thức về định nghĩa khách du lịch thì việc phân loại khách
du lịch có ý nghĩa rất quan trọng. Đó là điều kiện cho viẹc nghiên cứu, thống
kê các chỉ tiêu về du lịch.
Ngày 4 - 3 – 1993 theo đề nghị của Tổ chức du lịch thế giới (WTO), Hội
đồng thống kê Liên hợp quốc (United Nations Statistical Commission) đã
công nhận những thuật ngữ sau để thống nhất việc soạn thảo thống kê du lịch:
Khách du lịch quốc tế (International Tourist) bao gồm:
Lê Huy – lớp du lịch 45B – trường đại học Kinh tế quốc dân
Khách du lịch quốc tế đến (Inbound Tourist): gồm những người từ nước
ngoài đến du lịch một quốc gia.
Khách du lịch quốc tế ra nước ngoài (Outbound Tourist): gồm những gười
đang sống trong một quốc gia đi du lịch ra nước ngoài.
Khách du lịch trong nước (Internal Tourist): gồm những người là công dân
của một quốc gia và những người nước ngoài đang sống trên lãnh thổ của
quốc gia đó đi du lịch trong nước.
Khách du lịch nội địa (Domestic Tourist): gồm khách du lịch trong nước
và khách du lịch quốc tế đến.
Khách du lịch quốc gia (National Tourist): gồm khách du lịch trong nước
và khách du lịch quốc tế ra nước ngoài.
Theo Pháp lệnh du lịch của Việt Nam ban hành năm 1999: Khách du lịch
bao gồm khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế.
Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam và người nước ngoài cư trú tại

Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài vào Việt Nam du lịch và công dân Việt Nam, người nước ngoài
cư trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch.
Ngoài ra còn có các cách phân loại khác:
+ Phân loại khách du lịch theo nguồn gốc dân tộc: Qua việc phân loại này
các nhà kinh doanh du lịch nắm được nguồn gốc khách, hiểu được mình đang
phục vụ ai?, khách thuộc dân tộc nào? nhận biết được văn hóa của khách để
phục vụ khách tốt hơn.
+ Phân loại theo độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp: Các nhà kinh doanh sẽ
nắm bắt được cơ cấu khách, các yêu cầu cơ bản và đặc trưng tâm lý về khách
du lịch.
Lê Huy – lớp du lịch 45B – trường đại học Kinh tế quốc dân
+ Phân loại khách theo khả năng thanh toán: Việc xác đinh khả năng thah
toán của khách du lịch sẽ là điều kiện để các nhà kinh doanh cung cấp các
dịch vụ một cách tương ứng thích hợp khả năng chi trả của từng đối tượng
khách.
Trên đây chỉ là một số tiêu thức phân loại khách du lịch thường dùng. Mỗi
tiêu thức đều có ưu nhược điểm riêng vì vậy khi nghiên cứu khách du lịch cần
kết hợp nhiều cách phân loại. Việc phân loại khách du lịch một cách đầy đủ,
chính xác sẽ tạo tiền đề cho việc hoạch định các chiến lược, chính sách kinh
doanh từ đó việc kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả hơn.
1.1.4 Ý nghĩa của việc nghiên cứu nguồn khách.
Đối với bất cứ một ngành sản xuất hàng hóa nào thì việc sản xuất ra hàng
hóa là để bán cho người tiêu dùng. Trong ngành du lịch cũng vậy việc bán
được nhiều sản phẩm, dịch vụ cho khách du lịch làm cho các doanh nghiệp du
lịch ngày càng phát triển, còn nếu ít khách hoặc không có khách thì hoạt động
của doanh nghiệp bị đình trệ thất thu. Vì vậy chứng tỏ khách du lịch là nhân
tố quyết định trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp du lịch. Muốn
kinh doanh có hiệu quả các nhà kinh doanh phải chú trọng hơn nữa đến khách

du lịch, phải nghiên cứu một cách đầy đủ chính xác về các đặc điểm của
khách, thông tin về nguồn khách mà mình hướng tới, xác định được vị trí của
khách trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngày nay trong sự cạnh tranh gay gắt của thị trường để bán được nhiều sản
phẩm, dịch vụ các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu tìm hiểu rõ nguồn
khách, nắm bắt được nhu cầu, sở thích của khách du lịch, các đặc điểm về
giới tinh, độ tuổi, văn hóa, đực điểm tâm lý của khách… Qua đó doanh
nghiệp đề ra các chiến lược, chính sách cho phù hợp, đưa ra các sản phẩm
dịch vụ thỏa mãn được nhu cầu của khách du lịch.
Vì vậy nghiên cứu nguồn khách luôn là một hoạt động có ý nghĩa rất quan
trọng đối với các doanh nghiệp du lịch, là yếu tố dẫn đến sự thành công trong
kinh doanh
Lê Huy – lớp du lịch 45B – trường đại học Kinh tế quốc dân
1.2 Kinh doanh lữ hành, công ty lữ hành.
1.2.1 Khái niệm kinh doanh lữ hành.
Theo nghĩa rộng: “Kinh doanh lữ hành là việc đầu tư để thực hiện một,
một số hoặc tất cả các công việc trong quá trình chuyển giao sản phẩm thực
hiện giá trị sử dụng hoặc làm gia tăng giá trị của nó để chuyển giao sang lĩnh
vực tiêu dùng du lịch với mục đích lợi nhuận”. Kinh doanh lữ hành được thực
hiện bởi các doanh nghiệp.
Theo nghĩa hẹp: Luật du lịch Việt Nam định nghĩa: “Lữ hành là việc xây
dựng, bán, tổ chức thực hiện các chương trình du lịch nhằm mục đích sinh
lợi”, đồng thời quy định rõ kinh doanh lữ hành nội địa và kinh doanh lữ hành
quốc tế. Như vậy theo khái niệm này kinh doanh lữ hành ở Việt Nam được
hiểu theo nghĩa hẹp và được xác định một cách rõ ràng về sản phẩm là các
chương trình du lịch trọn gói.
1.2.2 Khái niệm về công ty lữ hành.
Nói về khái niệm công ty lữ hành thì đã có khá nhiều khái niệm khác nhau.
Xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau trong việc nghiên cứu về công ty lữ
hành. Mặt khác, nếu xét về thời gian và đặc thù của từng giai đoạn thì lại có

những quan điểm khác nhau.
Một cách định nghĩa phổ biến hơn là căn cứ vào hoạt động tổ chức các
chương trình du lịch trọn gói của công ty lữ hành. Trong cuốn từ điển quản ly
du lịch, khách sạn và nhà hàng: công ty lữ hành được định nghĩa rất đơn giản
là các tác nhân, tổ chức và bán các chương trình du lịch. Còn như ở Việt Nam
có quy định: doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở
ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục
đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Bất cứ doanh nghiệp nào được
pháp luật cho phép và có thực hiện kinh doanh lữ hành đều được gọi là doanh
nghiệp kinh doanh lữ hành.
Theo cách phân loại của tổng cục du lịch Việt Nam thì các công ty lữ
hành được phân thành hai loại, công ty lữ hành quốc tế và Công ty lữ hành
Lê Huy – lớp du lịch 45B – trường đại học Kinh tế quốc dân
nội địa, được quy định như sau: theo quy chế quản lý lữ hành - TCDL
29/04/1995.
Công ty lữ hành quốc tế: có trách nhiệm xây dựng bán các chương trình du
lịch trọn gói hoặc từng phần theo yêu cầu của khách đề trực tiếp thu hút khách
đến Việt Nam và đưa công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú ở Việt
Nam đi du lịch nước ngoài, thực hiện các chương trình du lịch đã bán hoặc ký
hợp đồng uỷ thác từng phần, trọn gói cho lữ hành nội địa.
Công ty lữ hành nội địa: có trách nhiệm xây dựng, bán và tổ chức thực
hiện các chương trình du lịch nội địa, nhận uỷ thác để thực hiện dịch vụ
chương trình cho khách nước ngoài đã được các Công ty lữ hành quốc tế đưa
vào Việt Nam.
Do yếu tố đặc thù và phát triển theo thời gian, ban đầu các công ty lữ hành
chỉ tập trung vào hoạt động trung gian, làm đại lý bán sản phẩm của các nhà
cung cấp. Sau đó các công ty lữ hành đã tự tạo ra các sản phẩm của mình
bằng cách tập hợp các sản phẩm riêng lẻ lại để trở thành một sản phẩm hoàn
chỉnh và bán cho khách với mức giá gộp. Ngày nay, các công ty lữ hành
không chỉ là người bán, người mua sản phẩm của các nhà cung cấp du lịch mà

trở thành người sản xuất trực tiếp ra các sản phẩm du lịch.
Tóm lại ta có thể định nghĩa về công ty lữ hành như sau:
Công ty lữ hành là một loại hình doanh nghiệp du lịch đặc biệt kinh doanh
chủ yếu trong lĩnh vực tổ chức xây dựng, bán và thực hiện các chương trình
du lịch trọn gói cho các khách du lịch. Ngoài ra Công ty lữ hành còn có thể
tiến hành các hoạt động trung gian bán sản phẩm của các nhà cung cấp du lịch
hoặc thực hiện các hoạt động kinh doanh tổng hợp khách đảm bảo phục vụ
các nhu cầu của khách từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng.
1.2.3 Nội dung hoạt động của một công ty lữ hành.
Bất cứ công ty nào trong nền kinh tế hàng hóa hoạt động theo cơ chế thị
trường thì họat động cơ bản để kinh doanh của công ty đó bao gồm bốn hoạt
động chính: Hoạt động sản xuất, marketing, tài chính, nhân sự. Tuy nhiên, đối
Lê Huy – lớp du lịch 45B – trường đại học Kinh tế quốc dân
với các công ty kinh doanh lữ hành các bộ phận chính mang tính đặc trưng để
phân biệt với các công ty trong lĩnh vực khác đó là marketing, điều hành và
hướng dẫn.
1.3 Các hoạt động nhằm khai thác khách du lịch của công ty
lữ hành.
Sơ đồ quy trình hoạt động khai thác khách du lịch của công ty lữ hành:
1.3.1 Hoạt động nghiên cứu thị trường.
Đứng trên giác độ kinh doanh du lịch thì thị trường du lịch được hiểu là
một nhóm khách hàng hay một tập hợp khách hàng đang tiêu dùng hay đang
có nhu cầu, có sức mua sản phẩm nhưng chưa được đáp ứng. Các doanh
nghiêph kinh doanh lữ hành cần luôn phải quan tâm đến hoạt động nghiên
cứu thị trường từ đó đề ra những chính sách cho phù hợp với thị trường. Để
làm được điều đó doanh nghiệp phải nghiên cứu thị trường ở cả hai mặt: cung
du lịch và cầu du lịch.
Nghiên cứu cầu trong du lịch tức là nghiên cứu các mặt: thói quen tiêu
dùng, đặc điểm tâm lý, tính cách sở thích, văn hóa, khẩu vị ăn uống… của các
đối tượng khách khác nhau. Vì đây là những nhân tố có tác động đến nhu cầu

Lê Huy – lớp du lịch 45B – trường đại học Kinh tế quốc dân
Khách du
lịch
Các công
ty,đại lý lữ
hành gửi
khách
Các tổ chức hỗ
trợ khác
Nghiên cứu
thị trường
Thiết
lập mối
quan hệ
với thị
trường
khách
Thực hiện
Marketing
và bán sản
phẩm
Tổ chức
thực
hiện
chương
trình
Các hoạt động
hậu bán hàng
đi du lịch của khách du lịch, từ đó là cơ sở để hình thành các chương trình du
lịch thu hút được nhiều khách. Khi nghiên cứu thị trường các công ty lữ hành

cần phải phân chia thị trường thành các phân đoạn thị trường khác nhau.
Công ty phải nghiên cứu kỹ nhu cầu riêng của từng phân đoạn thị trường:
mục đích đi du lịch của khách, thời gian rỗi, khả năng thanh toán của khách
để xác định rõ độ dài và các dịch vụ của chương trình… Bên cạnh đó công ty
lữ hành phải luôn tìm hiểu, chú ý đền sự thay đổi của “mốt du lịch qua từng
thời kỳ, để có thể tạo ra các sản phẩm dịch vụ phù hợp trong từng giai đoạn.
Nghiên cứu cung trong du lịch cũng có tầm quan trọng đáng kể. Cung du
lịch được hình thành dựa trên các yếu tố: tài nguyên du lịch, cơ sở vật chất kỹ
thuật, những dịch vụ hàng hóa phục vụ khách du lịch. Tất cả các yếu tố này
lại là cơ sở cho việc xây dựng các chương trình du lịch – sản phẩm chính của
các công ty lữ hành. Việc nghiên cứu kỹ các yếu tố tạo nên cung du lịch sẽ
giúp ích cho doanh nghiệp trong việc tạo ra một chương trình du lịch tốt nhất
đáp ứng nhu cầu của khách. Ngoài ra các công ty lữ hành còn phải đánh giá
về vị trí, điều kiện, khả năng của chính công ty mình xem có thể đáp ứng
được những phân đoạn thị trường nào? Từ đó lựa chọn ra đoạn thị trường mà
công ty hướng tới – thị trường mục tiêu của công ty.
Công tác nghiên cứu thị trường của các công ty lữ hành được thực hiện tốt
sẽ là tiền đề cho các hoạt động tiếp theo của công ty. Các công ty lữ hành có
hoạt động mạnh thường có quan hệ với nhiều hãng lữ hành gửi khách và nhận
khách quốc tế vì đây là đối tượng cung cấp khách du lịch tương đối ổn định
của công ty. Bộ phận nghiên cứu thị trường của các công ty này rất được quan
tâm đầu tư, điều đó tạo nên sự thành công của công ty.
1.3.2 Hoạt động thiết lập mối quan hệ với thị trường.
Lê Huy – lớp du lịch 45B – trường đại học Kinh tế quốc dân
Trong nền kinh tế cạnh tranh gay gắt như hiện nay, một doanh nghiệp đơn
lẻ khó có thể đứng vững trên thương trường nếu như không thiết lập được cho
mình các mối quan hệ.
Hoạt động này có thể chia ra làm 2 phần: Thiết lập mối quan hệ với các
công ty lữ hành khác và thiết lập mối quan hệ với các cơ quan tổ chức có ảnh
hưởng đến hoạt động khai thác khách của công ty.

Thiết lập mối quan hệ với các công ty lữ hành khác
Việc thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các công ty, đại lý lữ hành khác,
công ty sẽ có nhiều nguồn khách hơn. Hoạt động này có thể được thực hiện
dưới nhiều hình thức: tham gia các hội chợ, hội nghị du lịch mà công ty có thể
tìm hiểu, đàm phán, ký kết các hợp đồng hợp tác; thông qua trang Web, mail,
fax công ty chào bán sản phẩm của công ty với các đối tác, khi có tín hiệu
phản hồi thì tiến hành đàm phán; ngoài ra còn thiết lập quan hệ thông qua các
quan hệ của ban lãnh đạo công ty, các phòng trong công ty, các tour leader…
Thiết lập mối quan hệ với các cơ quan tổ chức có ảnh hưởng đến hoạt động
khai thác khách của công ty
Để sản phẩm có thể dễ dàng được thực hiện thì vai trò của các tổ chức công
như : đại sứ quán, hãng hàng không, hội hữu nghị,…là rất quan trọng. Với
công ty lữ hành, việc thiết lập quan hệ với các tổ chức khác như : đại sứ quán
các nước tại Việt Nam, đại sứ quán Việt Nam tại các nước, hãng hàng không
(Vietnam Airline, và các hãng hàng không các nước), hội hữu nghị giữa Việt
Nam và các nước… đây là các cơ quan trợ giúp cho công ty trong các vấn đề
như thủ tục hải quan, các vấn đề về vận chuyển (vé máy bay), các thông tin
liên quan đến an toàn, dịch bệnh, hiểm hoạ, cũng như có được sự hỗ trợ trong
các hoạt động tham gia các hội chợ du lịch, Festival, các hội thảo du lịch tầm
quốc gia và quốc tế, từ đó tạo thuận lợi cho công ty đẩy mạnh khai thác thị
trường khách du lịch.
Tóm lại việc tạo lập được một mối quan hệ tốt với các đối tác để từ đó xây
dựng một ê-kíp hoạt động đồng bộ, hỗ trợ lẫn nhau thì hoạt động khai thác
khách của công ty sẽ ngày càng phát triển. Tuy nhiên việc tạo lập và xây dựng
Lê Huy – lớp du lịch 45B – trường đại học Kinh tế quốc dân
các mối quan hệ đó đều phải dựa trên quan hệ bình đẳng đôi bên cùng có lợi
có như vậy mối quan hệ mới bền vững lâu dài.
1.3.3 Các hoạt động Marketing hỗn hợp.
Chính sách sản phẩm:
Đối với hoạt động kinh doanh lữ hành thì sản phẩm chủ yếu được tạo ra đó

chính là các chương trình du lịch. Các chương trình du lịch có nội dung độc
đáo, hấp dẫn, có mức giá hợp lý và tính khả thi cao đem lại lợi nhuận cho
doanh nghiệp lữ hành. Chính vì lẽ đó thị trường kinh doanh du lịch trọn gói
bao giờ cũng sôi động và khốc liệt.
Chương trình du lịch phải đảm bảo những yêu cầu chủ yếu như tính khả
thi, phù hợp với nhu cầu của thị trường, đáp ứng những mục tiêu của công ty
lữ hành có sức lôi cuốn khách du lịch quyết định mua chương trình
Chính sách sản phẩm là phương thức kinh doanh có hiệu quả trên cơ sở
thoả mãn nhu cầu của thị trường và thị hiếu của khách hàng trong từng thời
kỳ kinh doanh. Trong chính sách sản phẩm thì chất lượng sản phẩm là yếu tố
quan trọng đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của khách. Chính sách sản phẩm là
làm cho sản phẩm của doanh nghiệp luôn có sức sống trên thị trường, hấp dẫn
được thị trường.
Chính sách sản phẩm của công ty thường bao gồm ba chính sách: chính
sách chủng loại, chính sách hoàn thiện và đổi mới sản phẩm, chính sách đổi
mới chủng loại.
- Chính sách chủng loại sản phẩm: trong kinh doanh các doanh nghiệp
thường không kinh doanh một loại sản phẩm mà kinh doanh hỗn hợp nhiều
loại sản phẩm khác nhau, lựa chọn chủng loại sản phẩm thích hợp với thị
trường, đáp ứng được nhu cầu nhiều đối tượng khách hàng.
- Chính sách hoàn thiện và đổi mới sản phẩm: mỗi một chủng loại sản phẩm
đều có một chu kỳ sống riêng. Một sản phẩm khi đã vượt qua đỉnh cao của chu
kỳ sống thì nó bắt đầu có sự suy thoái, khi đó chúng ta phải đổi mới sản phẩm.
Lê Huy – lớp du lịch 45B – trường đại học Kinh tế quốc dân
Còn từ khi giới thiệu sản phẩm trên thị trường doanh nghiệp ngày càng phải
hoàn thiện sản phẩm hơn để tạo sự hấp dẫn đối với khách hàng. Việc đổi mới
và hoàn thiện sản phẩm sẽ làm cho sản phẩm thoả mãn tốt hơn nhu cầu của thị
trường, kéo dài được chu kỳ sống của sản phẩm. Trong đó việc đổi mới và
hoàn thiện sản phẩm phải đổi mới, hoàn thiện chất lượng và hình dáng của sản
phẩm.

- Chính sách đổi mới chủng loại: chính sách này hướng vào việc phát triển
một số sản phẩm, dịch vụ mới cho thị trường hiện tại hay phát triển một số
sản phẩm,dịch vụ mới cho thị trường mới. Việc đổi mới, cải tiến sản phẩm
dịch vụ bám sát nhu cầu khách hàng thường làm cho khối lượng tiêu thụ tăng,
có nhiều khách tiêu thụ hơn, giữ được thị phần và có khả năng mở rộng thị
trường mới.
Chính sách giá:
Giá là một trong các nhân tố tác động mạnh đến tâm lý của khách hàng
cũng như nhu cầu của khách hàng về sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp. Nó
quyết định chủ yếu đến mức lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được. Do đó khi
xây dựng một chiến lược kinh doanh cần phải định ra một chính sách giá phù
hợp.
Có nhiều loại giá trong kinh doanh lữ hành.
- Giá trọn gói: Giá bao gồm hầu hết các loại dịch vụ và hàng hoá phát
sinh trong quá trình đi du lịch. Đây là hình thức chủ yếu cảu các chương
trình du lịch do các công ty lữ hành tổ chức.
- Giá cơ bản: Bao gồm giá của một số dịch vụ chủ yếu trong chuyến đi.
- Mức giá tự chọn: Khách du lịch tuỳ ý lựa chọn các cấp độ phục vụ khác
nhau với các mức giá khác nhau. Cấp độ chất lượng phụ thuộc vào thứ hạng
của sản phẩm lưu trú và thứ hạng của các sản phẩm lưu trú và thứ hạng của
các sản phẩm vận chuyển và chất lượng của bản thân hàng hoá cụ thể.
Lê Huy – lớp du lịch 45B – trường đại học Kinh tế quốc dân
Tuỳ theo chu kỳ sống của sản phẩm, những thay đổi về mục tiêu chiến
lược kinh doanh của doanh nghiệp, tuỳ theo sự vận động của thị trường, và
chi phí kinh doanh, tuỳ theo thời vụ của mùa du lịch và tuỳ theo chính sách
giá của các đối thủ cạnh tranh mà doanh nghiệp đưa ra chính sách giá của
mình, sử dụng từng mức giá phù hợp với từng giai đoạn kinh doanh cụ thể để
lôi cuốn khách hàng. Các công ty lữ hành có thể lựa chọn những chính sách
giá sau:
- Giá tính theo chi phí: Nghĩa là tính trên tổng chi phí để tạo ra sản phẩm

(gồm cả chi phí cố định và biến đổi). Đây là phương pháp xác định giá cơ
bản nhất, nó được áp dụng cho mọi ngành kinh tế, mọi cơ sở sản phẩm. Giá
sản phẩm dịch vụ được xây dựng theo phương pháp này được coi là giá
chuẩn chính thức của cơ sở. Xây dựng giá theo phương pháp này chúng ta
nắm rõ được cơ cấu giá. Đây là điều hết sức quan trọng để có biện pháp tác
động thích hợp và những phần nhất định trong cơ cấu giá nhằm giảm những
chi phí bất hợp lý, giá này là giá gốc mà để căn cứ vào đó công ty thay đổi
theo chiến thuật riêng của mình phù hợp với thị trường và điều kiện và cạnh
tranh.
- Định giá dựa vào cạnh tranh: Theo phương pháp này chi phí cá biệt
không được quan tâm tới mà chỉ căn cứ vào giá trên thị trường của đối thủ
cạnh tranh để định giá của mình.
- Đối với sản phẩm mới
+ Định giá cao (hớt váng sữa): Khi tung ra sản phẩm mới sáng chế ra thị
trường, công ty khác biệt với các sản phẩm khác trên thị trường, sau khi mức
bán ban đầu giảm, công ty hạ giá xuống để lôi kéo khách hàng kế tiếp vốn
nhạy cảm với giá. Trong kinh doanh du lịch, khi quan hệ cung cầu chênh
lệch cầu quá nhiều trong khi cung quá hạn hẹp, chính sách này thường được
áp dụng.
+ Định giá thấp nhằm thâm nhập thị trường. Do là thị trường mới do đó
công ty sử dụng chính sách này để thu hút lượng khách lớn. (tăng khối
Lê Huy – lớp du lịch 45B – trường đại học Kinh tế quốc dân
lượng)
- Các chiến lược điều chỉnh giá:
+ Chiết giá: dành cho những khách hàng quen thuộc hoặc cho khách hàng
thanh toán nhanh, bao gồm: chiết giá do thanh toán nhan; chiết giá theo kênh
phân phối; chiết giá theo mùa; trợ giá quảng cáo.
+ Thặng giá (theo mùa, theo đối tượng khách và theo tiêu dùng cụ thể của
khách trong chương trình). Thặng giá nhằm mục đích khai thác tối đa thị
trường cũng như nhằm tăng uy tín của chương trình du lịch. Trong du lịch,

giá trị của chương trình du lịch là do cảm nhận của khách du lịch, đồng thời
các chương trình du lịch khác nhau đối với tất cả những đoàn khách nên
chiến lược thặng giá có thể thực hiện một cách dễ dàng có hiệu quả.
+ Định giá phân biệt: Định giá khác nhau cho các đối tượng khách du
lịch khác nhau nhằm khai thác triệt để các đoạn thị trường khác nhau.
Chính sách phân phối
Đây là một trong những hoạt động cơ bản nhất và đóng vai trò quyết định
để đạt được mục đích kinh doanh của doanh nghiệp lữ hành. Cần lựa chọn các
phương pháp và phương tiện tối ưu nhằm tiêu thụ được khối lượng sản phẩm
tối đa với chi phí tối thiểu.
Các doanh nghiệp lữ hành có thể chọn các kênh tiêu thụ sản phẩm cho phù
hợp với từng thị trường mục tiêu.
Kênh phân phối trong du lịch được hiểu là một hệ thống tổ chức dịch vụ
nhằm tạo ra các điểm bán hoặc cách tiếp cận sản phẩm thuận tiện cho khách
du lịch, ở ngoài địa điểm diễn ra quá trình sản xuất và tiêu dùng sản phẩm.
Việc lựa chọn các kênh phân phối có ý nghĩa rất quan trọng, nó sẽ giúp công
ty cung cấp sản phẩm của mình đến khách hàng một cách hiệu quả nhất. Tùy
từng phân đoạn thị trường khác nhau mà công ty lữ hành lựa chọn kênh phân
phối trực tiếp hoặc gián tiếp. Thông thường có các kiểu kênh sau:
Lê Huy – lớp du lịch 45B – trường đại học Kinh tế quốc dân
Đối với kênh tiêu thụ trực tiếp doanh nghiệp trực tiếp giao dịch với khách
hàng mà không qua bất cứ trung gian nào. Doanh nghiệp sử dụng các nguồn
lực của mình để phân phối sản phẩm đến tận tay khách hàng.
Kênh tiêu thụ gián tiếp là loại kênh trong đó quá trình mua – bán được ủy
nhiệm cho các doanh nghiệp lữ hành khác làm đại lý tiêu thụ hoặc với tư cách
là các doanh nghiệp lữ hành gửi khách. Đối với các kênh tiêu thụ gián tiếp,
chủ thể hoạt động với tư cách là người mua cho khách hàng của họ. Họ là
những doanh nghiệp kinh doanh độc lập, họ có quyền hạn và chiến lược kinh
doanh riêng, trong nhiều trường hợp quan điểm của các doanh nghiệp lữ hành
gửi khách, các đại lý lữ hành rất khác với quan điểm của các doanh nghiệp lữ

hành nhận khách. Vì vậy để tiêu thụ được nhiều chương trình du lịch doanh
nghiệp lữ hành nhận khách cần dành nhiều ưu đãi cho doanh nghiệp lữ hành
gửi khách, các đại lý lữ hành.
Hoạt động quảng cáo:
Tất cả các hoạt động quảng cáo đều nhằm khơi dậy nhu cầu của khách du
lịch với các sản phẩm của công ty lữ hành. Các sản phẩm quảng cáo phải tạo
ra sự phù hợp giữa các chương trình du lịch với nhu cầu, mong muốn, nguyện
vọng của khách du lịch.
Các công ty lữ hành thường áp dụng các hình thức quảng cáo sau:
+ Quảng cáo bằng các ấn phẩm: tập gấp, áp phích…
+ Quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng: báo, truyền hình,
radio, thư điện tử, website…
Lê Huy – lớp du lịch 45B – trường đại học Kinh tế quốc dân
Công
ty gửi
khách
Công
ty
lữ
hành
Đại lý du
lịch bán
buôn
Đại lý
du lịch
bán lẻ
Khách
du
lịch
+ Các hoạt động khuếch trương: tổ chức các buổi tối quảng cáo, các hội

chợ…
+ Quảng cáo trực tiếp: gửi các sản phẩm đến tận tay người tiêu dùng.
+ Các hình thức khác.
Đối với kinh doanh lữ hành quốc tế thì có các hình thức quảng cáo sau để
thu hút nhiều khách du lịch:
+ Quảng cáo các chương trình du lịch trên mạng.
+ Quan hệ với các đối tác là các đại lý lữ hành, các công ty lữ hành quốc
tế.
+ Quảng cáo các tour du lịch đặc biệt có sức hấp dẫn du khách quốc tế.
+ Lập các văn phòng đại diện ở nước ngoài để quảng cáo trực tiếp với
khách du lịch.
+ Tham gia các tổ chức du lịch quốc tế, các triển lãm, hội chợ du lịch quốc
tế.
Các hình thức quảng cáo trên đều đòi hỏi chi phí lớn, trình độ tổ chức cao.
Các doanh nghiệp lữ hành ở Việt Nam chưa có đủ khả năng thực hiện, điều
này làm giảm đi khả năng thu hút khách du lịch quốc tế đến Việt Nam.
Lê Huy – lớp du lịch 45B – trường đại học Kinh tế quốc dân
Chương 2: Thực trạng khai thác thị trường khách du
lịch Mỹ tại công ty lữ hành Indochina Travel Services
2.1. Giới thiệu về công ty lữ hành Indochina Travel Services
2.1.1. Quá trình ra đời và phát triển của công ty
2..1.1.1 Giai đoạn thành lập công ty Indochina Travel Services.
Công ty Indochina travel services.
Thành lập ngày: 02/03/1995
Số đăng ký: 0032/2002/ TCDL-GPLHQT by Vietnam Administration of
Tourism
Trụ sở chính của công ty: số 5 ngách 71/7-Linh Lang-Cống Vị-Ba Đình-
Hà Nội
Điện thoại: (04)7668014
Fax: (04)7668015

Website: http:// www.itsvietnam.com
Các chi nhánh của công ty:
+ Chi nhánh tại Đà Nẵng. 76 Lê Lợi- ĐT: 84 511 828652 – Fax: 84 511
828651
+ Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh. 28/1/45A Phan Đình Giót, khu 2,
Tân Bình. ĐT: 84 8 083642- Fax: 84 8 083641
Hoạt động chính của công ty Indochina là chuyên kinh doanh về lữ
Lê Huy – lớp du lịch 45B – trường đại học Kinh tế quốc dân
hành và các dịch vụ có liên quan, thực hiện chế độ hạch toán từng phần, được
công ty mở tài khoản phụ bằng ngoại tệ và tiền Việt Nam tại ngân hàng.
Công ty thực hiện việc khai thác và trao đổi khách du lịch với các tổ chức
trong nước và nước ngoài về các mặt lữ hành, vận chuyển và các dịch vụ khác
có liên quan đến hoạt động lữ hành.
Ngoài ra Công ty còn tham mưu cho Giám đốc công ty quản lý công tác lữ
hành, nghiên cứu thị trường, tuyên truyền quảng cáo... Từ đó công ty có
những chính sách, chiến lược kinh doanh du lịch cho phù hợp trong từng giai
đoạn.
Cơ cấu tổ chức của Công ty:
Ban lãnh đạo Công ty: Giám đốc công ty 1 và 2 phó giám đốc.
Công ty được chia thành các phòng ban, mỗi phòng ban thực hiện một
chức năng và nhiệm vụ được giao.
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Trung tâm:
- Tổ chức :
+ Phòng thị trường trong nước: Tổ chức các hoạt động du lịch nội địa đưa
công dân Việt Nam đi du lịch nước ngoài (outbound), du lịch cho người nước
ngoài tại Việt Nam, tổ chức các hoạt động tiếp thị, tuyên truyền quảng cáo,
xây dựng các chương trình du lịch nội địa, chương trình du lịch cho công dân
Việt Nam đi du lịch nước ngoài và xây dựng giá bán cho các sản phẩm; tổ
Lê Huy – lớp du lịch 45B – trường đại học Kinh tế quốc dân
GĐ PGĐ

P. Thị trường trong nước
P. Thị trường quốc tế
P. Vé máy bay
Tổ kế toán tổng hợp
chức công tác điều hành và hướng dẫn du lịch (outbound), thực hiện các
chương trình tour đã bán.
Có 6 cán bộ công nhân viên. Gồm các bộ phận: Outbound, nội địa, khách
tự do, điều hành, hướng dẫn.
+ Phòng thị trường quốc tế: Tổ chức cho người nước ngoài vào Việt Nam
du lịch (Inbound). Tổ chức các hoạt động tiếp thị tuyên truyền quảng cáo, xây
dựng các chương trình du lịch theo các tuyến điểm du lịch trong nước và xây
dựng giá bán các sản phẩm; tổ chức công tác điều hành và hướng dẫn du lịch
(Inbound), thực hiện các chương trình tour đã bán, làm dịch vụ Visa...
Có 9 cán bộ và nhân viên. Gồm các bộ phận: Inbound, thị trường, điều
hành, hướng dẫn, visa...
+ Phòng vé máy bay: Tổ chức việc bán vé máy bay cho mọi đối tượng
khách, là đầu mối liên hệ với hãng hàng không Việt Nam và các hãng hàng
không khác để có chính sách ưu đãi đối với khách do công ty và trung tâm
khai thác.
Có 3 cán bộ nhân viên.
+ Tổ kế toán - tổng hợp: Thực hiện công tác kế hoạch, tài chính kế toán,
lao động tiền lương, thủ quỹ, hành chính, lễ tân...
Có 3 người: 2 kế toán và 1 thủ quỹ.
2.1.1.2 Chức năng và nhiệm vụ của công ty.
Công ty Lữ hành Indochina Travel Services là đơn vị hạch toán kinh tế có
tư cách pháp nhân không đầy đủ, hạch toán kinh tế phụ thuộc trực thuộc công
ty mẹ là Tổng công ty du lịch Hà Nội; được sử dụng con dấu riêng, được mở
tài khoản chuyên thu, chuyên chi, và tài khoản ủy quyền tại ngân hàng.
Công ty lữ hành Indochina Travel Services chuyên kinh doanh và cung cấp
các dịch vụ về các lĩnh vực: Lữ hành, khách sạn, vận chuyển du lịch, nhà

hàng...Công ty có nhiệm vụ chủ yếu là:
- Công ty có nhiệm vụ sử dụng hiệu quả và phát triển nguồn vốn kinh
doanh được giao thực hiện mục tiêu kinh doanh, thực hiện nghĩa vụ về các
khoản nợ phải thu phải trả trong bảng cân đối ngân sách.
Lê Huy – lớp du lịch 45B – trường đại học Kinh tế quốc dân

×