Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Tài liệu Tiểu luận "Phân tích tình hình chế biến và xuất khẩu cá tra" ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (694.88 KB, 18 trang )



TRƯỜNG
KHOA………………


Tiểu luận

Phân tích tình hình chế biến
và xuất khẩu cá tra


Nguyễn Chí Hiếu-08141015 DH08NY
Tình hình chế biến và xuất khẩu cá tra
1

Đề tài: Phân tích tình hình chế biến và xuất khẩu cá tra trong thời gian qua. Nếu anh
chị là lãnh đạo ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, hãy đề xuất giải pháp để
chế biến và xuất khẩu cá tra phát triển bền vững trong tương lai.
Nguyễn Chí Hiếu-08141015 DH08NY
Tình hình chế biến và xuất khẩu cá tra
2

Lời giới thiệu:
á tra phân bố ở một số nước Ðông Nam Á như Campuchia, Thái Lan,
Indonexia và Việt Nam. Ðây là loài cá nuôi quan trọng có giá trị kinh tế và là
một trong 6 loài cá nuôi quan trọng nhất của khu vực này. Bốn nước trong hạ
lưu sông Mê kông đã có nghề nuôi cá tra truyền thống là Thái lan, Capuchia, Lào và Việt
nam do có nguồn cá tra tự nhiên phong phú. Hiện nay nghề nuôi cá tra đã phát triển ở
nhiều địa phương ở nước ta, không chỉ ở Nam bộ mà một số nơi ở miền Trung và miền
Bắc cũng bắt đầu quan tâm nuôi các đối tượng này. Nuôi thương phẩm thâm canh cho


năng suất rất cao, cá tra nuôi trong ao đạt tới 200 - 300 tấn/ ha, cá tra nuôi trong bè có
thể đạt tới 100 - 300kg/ m
2
bè. Ðồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh Nam bộ mỗi năm
cho sản lượng cá tra nuôi hàng trăm ngàn tấn.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã trở thành một trong những nước chiếm tỉ
trọng lớn về xuất khẩu các mặt hàng thủy sản trong đó cá tra chiếm một phần không nhỏ.
Từ khi chúng ta mở rộng xuất khẩu thì nghề nuôi cá tra và cá basa bước sang một trang
mới và trở thành đối tượng xuất khẩu mang về nguồn ngoại tệ cao. Thị trường xuất khẩu
đã mở rộng ra trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ, chủ yếu là nhờ chất lượng sản phẩm
ngày càng được nâng cao. Đặc biệt năm 2008 là năm có nhiều biến động đối với mặt
hàng cá tra, cá basa Việt Nam song kim ngạch xuất khẩu đạt được vẫn vượt ngoài dự
kiến.
1. Tình hình năm 2008:
Vào đầu năm 2008, theo Hiệp hội Chế biến và Xuất Khẩu Thủy Sản Việt Nam
(VASEP) , mục tiêu đặt ra đối với xuất khẩu cá tra, cá basa Việt Nam trong năm 2008 là
đạt được 1,2 tỷ USD với sản lượng đạt được là 1,2 triệu tấn (tăng khoảng 20% so với
năm 2007).
Năm 2008, sản phẩm cá tra và cá ba sa của Việt Nam được đánh giá là nhóm sản
phẩm thủy sản có tốc độ tăng nhanh nhất thế giới, xuất khẩu đến 127 quốc gia và vùng
lãnh thổ với tổng sản lượng trên 640.000 tấn sản phẩm, đạt giá trị hơn 1,4 tỷ USD, tăng
khoảng 45% so với năm 2007, góp phần đưa toàn ngành lần đầu tiên vượt qua ngưỡng 4
tỉ USD.

C

Nguyễn Chí Hiếu-08141015 DH08NY
Tình hình chế biến và xuất khẩu cá tra
3


Về các thị trường xuất khẩu:

Nguyễn Chí Hiếu-08141015 DH08NY
Tình hình chế biến và xuất khẩu cá tra
4

Các thị trường tiêu thụ lớn cá tra, basa của Việt Nam tiếp tục duy trì mức tăng trưởng
mạnh như EU đạt gần 470 triệu USD, tăng 36,7%, Ôxtrâylia đạt 38,5 triệu USD, tăng
24,4%, khối Asean : 77,6 triệu USD, tăng 23,5%, đặc biệt Ucraina bùng nổ nhập khẩu
mặt hàng này từ Việt Nam với trên 39 triệu USD, mức tăng trưởng đạt 145,4%, Mêhicô
cũng nổi lên là một thị trường tiềm năng với mức tăng 41,2%, đạt trên 40 triệu USD.
Xu hướng tăng xuất khẩu được tiếp tục trong tháng đầu năm 2008 trên các thị trường
đã nêu. Cả nước xuất gần 42 nghìn tấn cá tra, basa, tăng 52,8%, tổng giá trị xuất đạt 95,6
triệu USD, tăng 37,8%. Các thị trường tiêu thụ chính trong năm 2007 vẫn duy trì tốc độ
nhập tốt.
Trong đó đáng chú ý là thị trường Nga đang dần trở lại nhịp độ khả quan trước đây
(tháng 1 tăng gần 70% về khối lượng và 49% về giá trị), thị trường Ucraina và Ôxtrâylia
cũng tương tự. Mêhicô lập kỷ lục về tốc độ tăng trưởng – tăng 147,6% về khối lượng và
126% về giá trị.
Như vậy về khách quan, các thị trường đều hứa hẹn khả năng tiêu thụ khả quan, mặc
dù thông thường tiến độ nhập khẩu của các thị trường vào dịp đầu năm giữ mức thấp do
vừa qua mùa tiêu thụ cuối năm cũ và đầu năm mới. Từ tháng 3 trở đi các nhà nhập khẩu
mới triển khai giao dịch và chuẩn bị hàng hoá cho mùa tiêu thụ mới là các dịp nghỉ hè.
Theo nhiều nguồn tin về ngành thủy sản thế giới, hiện nay nhiều nước thuộc khu vực
Châu Âu đang tìm kiếm nguồn cung cấp cá thịt trắng từ Châu Á và nguồn cá tuyết từ
vùng nước lạnh. Philê cá tra, basa là đối tượng được nhắm đến để bù đắp cho phần thiếu
hụt trên thị trường.
Như vậy về lâu dài, các thị trường lớn ở Châu Âu (kể cả Đông và Tây Âu), Châu Đại
Dương và Bắc Mỹ tiếp tục là điểm đến của cá tra, basa Việt Nam. Tuy nhiên, ở đây cũng
cần chú ý đến sự mất cân đối giữa các thị trường quốc tế. Hiện Châu Âu đã chiếm đến

44,7% (năm 2007) tổng giá trị xuất cá tra, basa của Việt Nam. Sự tập trung quá mạnh
vào một khu vực thị trường sẽ không hoàn toàn thuận lợi, nói một cách khác xuất khẩu
rất dễ bị tổn thương nếu không may xảy ra sự cố.
Trong bối cảnh thị trường tiêu thụ quốc tế không quá khó khăn và khả năng suy thoái
kinh tế không có khả năng xảy ra thì tình hình trong nước về sản xuất cá tra, basa nói
chung lại đang lâm vào tình trạng rất nan giải phát sinh vào đầu năm 2008. Những bất
cập này đang tác động rất bất lợi đến tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp xuất
khẩu thủy sản và hoạt động sản xuất của nông ngư dân, nếu không được kịp thời giải
quyết có thể gây ảnh hưởng xấu cho việc hoàn thành nhiệm vụ xuất thủy sản của cả năm
2008.
Sự mất giá quá mạnh của đồng USD trên thế giới cũng như ở Việt Nam và tình trạng
thiếu tiền đồng Việt Nam đang diễn ra phổ biến ở nhiều hệ thống ngân hàng khiến việc
chuyển đổi từ USD ra tiền Việt của các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gặp nhiều
khó khăn, nhất là trong thu mua nguyên liệu cá và trang trải các chi phí sản xuất khác.
Nguyễn Chí Hiếu-08141015 DH08NY
Tình hình chế biến và xuất khẩu cá tra
5

Hậu quả là cả một nguồn cá nguyên liệu lớn của người nuôi phải nằm lại trong ao hoặc
bị đổ bán với giá rất thấp. Việc duy trì nuôi để đợi doanh nghiệp chế biến thì cũng phải
trả giá khá nặng nề và vượt quá sức người dân, nhất là hộ nuôi nhỏ lẻ, bởi giá thức ăn lên
cao do nguyên liệu chủ yếu được nhập khẩu, giá thành lương thực thế giới tăng mạnh.
Trước tình hình cấp bách trên, VASEP đã gửi kiến nghị về các giải pháp giải tỏa khó
khăn cho doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản và ngư dân, trong đó yêu cầu chính phủ đề
nghị Ngân hàng nhà nước có biện pháp hỗ trợ các ngân hàng thương mại mua toàn bộ
ngoại tệ từ xuất khẩu thủy sản theo tỷ giá ngân hàng nhà nước; các doanh nghiệp chế
biến thủy sản được vay đủ tiền mặt để mua hết sản lượng cá nuôi của người dân; xem xét
các biện pháp bù lỗ giá dầu cho nông ngư dân để họ có thể duy trì sản xuất.
Vasep đã tiến hành phối hợp với Bộ NN& PTNN tổ chức các cuộc gặp gỡ với nhiều
thành phần tham gia trong chuỗi sản xuất thuỷ sản như các doanh nghiệp chế biến, xuất

khẩu, Hội nuôi thuỷ sản các tỉnh, nhà sản xuất thức ăn thủy sản vv để tìm biện pháp
liên kết và phối hợp nhằm giảm thiểu những khó khăn cho doanh nghiệp, cho người nuôi
và đảm bảo hài hoà lợi ích của nhà sản xuất thức ăn.
Trước đây doanh nghiệp trong nước vay tiền ngân hàng để sản xuất, kinh doanh, đẩy
mạnh xuất khẩu, nay do chống lạm phát không ngân hàng nào dám cấp tín dụng. EU
luôn dẫn đầu các thị trường nhập khẩu thủy sản Việt Nam bị thu hẹp các nhà nhập khẩu
các nước EU không có tiền mua hàng do ngân hàng không chịu bảo lãnh nên họ đã
ngưng đặt hàng. Việc xuất khẩu sang thị trường Mỹ lại càng khó khăn hơn, các hợp đồng
đã ký thì hoãn xuất hoặc dừng hẳn. Hy vọng mở rộng tín dụng ngân hàng trong nước là
rất khó, như vậy các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, basa sẽ gặp khó khăn về tiền vốn lẫn
thị trường. Không chỉ doanh nghiệp mà nông dân nuôi cá cũng gặp khó, vì nhiều bất cập
xảy ra với con cá tra, giá thành vẫn cao do giá thức ăn, thuốc thú y trong nước bị đẩy lên
cao.
Bên cạnh đó diện tích nuôi cá tra trong năm 2008 cũng góp phần làm cho nghề nuôi
trồng, chế biến và xuất khẩu cá tra cá basa ở ĐBSCL cũng như trong nước gặp nhiều khó
khăn. Năm 2008, diện tích nuôi cá tra ở ĐBSCL lên đến 6.160 ha, tổng sản lượng cá đạt
hơn 1,1 triệu tấn đã vượt quá nhu cầu chế biến và tiêu thụ. Ở ĐBSCL hiện còn khoảng
35% ao hầm đang bị bỏ không vì người nuôi cá không còn khả năng tái đầu tư.
Mặt khác, nghề nuôi cá tra và cá basa tại khu vực vẫn chưa thật ổn định và bền vững.
Trong sản xuất vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ về ô nhiễm môi trường, biến động về thị
trường, giá cả.
Trong chăn nuôi cá tra và cá basa, chi phí thức ăn chiếm tỷ trọng rất lớn, nhất là
trong giai đoạn trước khi thu hoạch. Chính vì vậy, dù Nhà nước đã “bơm” tiền, hạn mức
tín dụng cho các doanh nghiệp thu mua nguyên liệu để giải quyết đầu ra cho cá tra, cá
basa nhưng khả năng thu mua hết sản lượng cá nuôi trong dân là rất khó. Trong khi đó,
người nuôi cá ở ĐBSCL và cả nước phải mua thức ăn chăn nuôi thủy sản (chiếm khoảng
70% giá thành) hàng chục ngàn hộ nuôi cá tra, cá ba sa ở ĐBSCL phải đối mặt với thực
Nguyễn Chí Hiếu-08141015 DH08NY
Tình hình chế biến và xuất khẩu cá tra
6


trạng hết sức bi đát: giá sụt thê thảm, lượng cá quá lứa thu hoạch ngày càng tăng cao vì
không bán được. Trong khi môi trường bị ô nhiễm và dịch bệnh gia tăng làm cho người
nuôi đứng trước nguy cơ phá sản.
Ngoài khó khăn do không dự báo được tình hình thị trường khiến hiện tượng ùn tắc
nguyên liệu xảy ra thuờng xuyên trong những tháng cuối năm 2008, hoạt động sản xuất
và tiêu thụ cá tra, cá basa vẫn gặp phải những vấn đề cần được giải quyết sớm như: tỷ lệ
sản phẩm có giá trị gia tăng còn thấp, chủ yếu mới chỉ xuất khẩu ở dạng phile cấp đông
đơn thuần nên giá xuất khẩu không cao (bình quân 3USD/kg); thiếu kho chứa hàng,
thiếu các chợ đầu mối thủy sản tập trung để làm cầu nối ổn định giá cho cả người sản
xuất và các nhà máy chế biến; hệ thống xử lý nước thải; chưa phổ biến rộng khắp quy
trình sản xuất sạch theo tiêu chuẩn HACCP; vẫn còn việc mua bán và sử dụng hóa chất,
kháng sinh…
Một tồn tại nhức nhối nhiều năm chưa được giải quyết là nông dân và doanh nghiệp
luôn bất đồng nhau. Nếu giá cá giảm thì doanh nghiệp sẵn sàng hạ nông dân “đo ván” và
ngược lại. Giữa 2 bên chưa thiết lập được cơ chế chia sẻ lợi ích và rủi ro trên nguyên tắc
đồng thuận, điều tiết giữa sản xuất và tiêu thụ cùng có lợi. Từ đó, luôn dẫn đến mất ổn
định về cung cấp và lợi nhuận.
Ngoài ra, cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản sẽ
được ngăn chặn, các sản phẩm cá tra xuất khẩu sẽ được nâng cao giá trị trên thị trường
quốc tế.
Với lợi thế tự nhiên, VN được xem như vương quốc của thế giới về nuôi cá tra, basa.
Thế nhưng, lâu nay sản phẩm cá tra, basa của VN cứ như nhà vua không vương quyền.
Bởi bên cạnh việc thiếu tên thương mại chính thức, bán buôn dưới nhiều tên gọi theo yêu
cầu của nhà nhập khẩu nước ngoài, chúng ta còn có hạn chế rất lớn trong việc sản xuất
thức ăn thuỷ sản, khi phần lớn nguyên liệu phải lệ thuộc vào nguồn cung của nước ngoài,
nên rất bị động cả về chăn nuôi lẫn hạch toán kinh tế.
Nhà nước yêu cầu thu mua hết cá cho nông dân, khiến đến giờ lượng cá thu mua đó
vẫn còn tồn kho số lượng rất lớn do thị trường Nga trả lại, các doanh nghiệp không
những chưa biết làm cách nào tiêu thụ, mà vẫn tiếp tục “gánh” chi phí bảo quản.

2. Tình hình năm 2009:
Bước sang năm 2009, tình hình chế biến và xuất khẩu cá tra có nhiều khả quan hơn.
Cả năm, cá tra xuất khẩu sang 133 thị trường. Trong đó, ba thị trường hàng đầu đều có
kim ngạch trên 100 triệu USD là Mỹ, Tây Ban Nha, Đức. So với năm 2008, cá tra mất
14 thị trường cũ, có thêm 17 thị trường mới.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cá tra, basa vẫn đang là mặt hàng
chiếm tỷ trọng giá trị xuất khẩu cao nhất trong nhóm thủy sản, nửa đầu năm 2009 đạt
khối lượng xuất khẩu 206.000 tấn, kim ngạch 473,9 triệu USD. Thị trường tiêu thụ chính
Nguyễn Chí Hiếu-08141015 DH08NY
Tình hình chế biến và xuất khẩu cá tra
7

của cá tra, basa Việt Nam vẫn là EU với kim ngạch đạt 206 triệu USD trong 6 tháng đầu
năm.
Riêng thị trường Mỹ, bất chấp khó khăn do khủng hoảng kinh tế, xuất khẩu sang
nước này đã có sự tăng trưởng vượt bậc, đạt 45,97 triệu USD, tăng 59,98 % so với cùng
kỳ năm 2008.
Do trong 4 tháng đầu năm 2009, các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, cá basa của Việt
Nam vẫn chưa được phép xuất khẩu sang thị trường Nga, nên số cá dư ra đã được họ đẩy
mạnh sang tiêu thụ tại các thị trường này.
Hiện tại, EU vẫn là khối thị trường lớn nhất nhập khẩu cá tra, cá basa của Việt Nam,
với 26/27 quốc gia đã nhập khẩu cá của Việt Nam. Trong đó, 3 nước đứng đầu là Tây
Ban Nha, Đức và Hà Lan, có khối lượng nhập khẩu chiếm 60% tổng lượng nhập khẩu cá
tra, basa của toàn EU. Tây Ban Nha và Đức đồng thời là hai nhà nhập khẩu cá tra, basa
lớn nhất của Việt Nam trong số 110 quốc gia nhập khẩu hai mặt hàng này.
Thời gian vừa qua, Việt Nam cũng đã đẩy mạnh xuất khẩu vào 3 quốc gia EU khác,
là Rumani, Bungari và Hungari. Sở dĩ cho tới nay, thị trường EU vẫn thích tiêu thụ cá
tra, basa của Việt Nam là vì có mức giá phù hợp, đáp ứng tốt an toàn vệ sinh thực phẩm.
Nửa đầu năm 2009, gần 100/190 doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam đã xuất khẩu cá
tra, cá basa sang thị trường EU. Giá xuất khẩu trung bình cá tra của Việt Nam tới các

nước EU tính theo giá FOB kể từ đầu năm đến nay đạt 2,445 USD/kg.
Năm 2009, Nga là thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn thứ 4 của Việt Nam, riêng đối
với mặt hàng cá tra thì Nga lại càng là thị trường đầy tiềm năng, vì có nhu cầu cao đối
với mặt hàng này. Hơn nữa, nếu so với các thị trường Nhật, Mỹ, EU thì thị trường Nga
dễ tính hơn.
Theo báo cáo của Thương vụ Việt Nam tại Nga, năm 2008, tỷ trọng cá tra của Việt
Nam xuất khẩu sang Nga chiếm 94,4% về khối lượng và 86,5% về giá trị trong tổng khối
lượng và giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam đến thị trường này, đạt 118.155 tấn, trị
giá 188,45 triệu USD.
Những tháng đầu năm 2009, Nga đóng cửa đối với cá tra, basa Việt Nam, đã gây
nhiều khó khăn cho xuất khẩu thủy sản. Từ tháng 5/2009, việc mở cửa thị trường Nga là
tín hiệu rất tốt cho ngành Thuỷ sản Việt Nam và trong thời gian tới, Nga sẽ vẫn là thị
trường lớn nhập khẩu cá tra của Việt Nam.
Tại Australia, cá tra đông lạnh là một trong hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt
Nam (cùng với tôm đông lạnh) nhưng mức tăng trưởng của mặt hàng từ đầu năm đến
nay đã giảm so với cùng kỳ năm 2008.
Nguyễn Chí Hiếu-08141015 DH08NY
Tình hình chế biến và xuất khẩu cá tra
8

Tại thị trường này, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam đã chuyển hướng xuất
khẩu các mặt hàng đông lạnh khác, như mực, cá basa, cá ngừ (trong đó cá basa tăng
63,9% về lượng và tăng 50,4% về kim ngạch). Giá xuất khẩu trung bình cá tra đông lạnh
tại thị trường Australia nửa đầu năm 2009 là 2,94 USD/kg (giảm 3,8%).
Để vượt qua những khó khăn trong thời kỳ khủng hoảng, các doanh nghiệp xuất khẩu
cá tra, basa nước ta đã tích cực mở rộng những thị trường mới. Nửa đầu năm 2009, có
thêm 24 quốc gia mới nhập khẩu cá tra, cá basa của VN. Trong đó, Cadắcxtan, Nigeria
và Irắc là 3 nước nhập khẩu rất triển vọng với số lượng nhập khẩu lớn.
Vào tháng 5/2009, diện tích nuôi thả cá tra, basa ở nước ta chỉ bằng 60% diện tích
cùng kỳ năm 2008, xấp xỉ 3.690 ha. Phần diện tích còn lại đã bị bỏ không vì người nuôi

không đủ niềm tin về đầu ra. Trước tình hình đó, một số doanh nghiệp đã chủ động ký
hợp đồng bao tiêu khiến các hộ nuôi bắt đầu yên tâm thả nuôi lại trên những diện tích bỏ
trống. Đồng thời ký cam kết thu mua cá nguyên liệu với mức giá ổn định 15.500 đến
16.500 đồng/kg để nông dân có lãi.
Tại Tiền Giang năng suất đạt 264 tấn/ha, Đồng Tháp 302 tấn/ha, Vĩnh Long 300
tấn/ha, Cần Thơ 224 tấn/ha, Hậu Giang 230 tấn/ha và Trà Vinh 267 tấn/ha. Sản lượng cá
đến kỳ thu hoạch tính đến nay là 119.160 tấn, trong đó tập trung ở Đồng Tháp 53.944
tấn, Cần Thơ 32.955 tấn và An Giang 14.362 tấn. Lượng cá tồn đọng (loại >1kg) khoảng
6.743 tấn, bằng 4,15% lượng tồn đọng của năm 2008.
Theo tin từ Hiệp Hội thuỷ sản (VASEP), xuất khẩu cá tra của cả nước 8 tháng đầu
năm 2009 giảm 7,3% so với 928 triệu USD cùng kỳ năm 2008 đạt 860 triệu USD, chiếm
trên 1/4 mức sụt giảm xuất khẩu thuỷ sản của cả nước.
Riêng trong tháng 8, xuất khẩu cá tra giảm trên 20% cả về khối lượng và giá trị so
với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, thị trường EU đã sụt giảm mạnh về khối lượng và giá
trị nhập khẩu mặt hàng này với tỉ lệ tương ứng là 14% và 19% (các thị trường lớn trong
khối như Tây Ban Nha, Đức, Hà Lan và Bỉ đều giảm từ 18 -35% về giá trị nhập khẩu).
Ai Cập, vốn được coi là thị trường tiềm năng ở Trung Đông, cũng giảm mạnh nhập khẩu
cá tra Việt Nam trong tháng này, giảm trên 40%.
Năm 2009, xuất khẩu cá tra khá lao đao bởi những rào cản từ các nước nhập khẩu
chính, trong khi nguồn cung cấp nguyên liệu trong nước không ổn định. Việc Mỹ dự
định đưa cá tra của Việt Nam vào danh mục cá da trơn theo luật Farmbill 2008 là một
điều bất lợi cho con cá tra vốn đã bị “đánh” bởi thuế chống bán phá giá. Bên cạnh đó,
những “chỉ trích” của các phương tiện truyền thông một số nước Châu Âu (Italia, Tây
Ban Nha, Na Uy), Trung Đông và Niu Dilân đã làm hạn chế xuất khẩu con cá này.
Kim ngạch xuất khẩu cá tra những tháng đầu năm vượt tôm, nhưng tháng 6 và tháng
7 sụt giảm mạnh nên cá tra lại tụt xuống vị trí thứ 2 sau tôm đông lạnh. Riêng trong
tháng 8, xuất khẩu cá tra giảm trên 20% cả về khối lượng và giá trị so với cùng kỳ năm
ngoái. Trong đó, đáng lo ngại là thị trường EU đã sụt giảm mạnh về khối lượng và giá trị
Nguyễn Chí Hiếu-08141015 DH08NY
Tình hình chế biến và xuất khẩu cá tra

9

nhập khẩu mặt hàng này với tỉ lệ tương ứng là 14% và 19% (các thị trường lớn trong
khối như Tây Ban Nha, Đức, Hà Lan và Bỉ đều giảm từ 18 -35% về GT nhập khẩu). Ai
Cập, vốn được coi là thị trường tiềm năng ở Trung Đông, cũng giảm mạnh nhập khẩu cá
tra Việt Nam trong tháng này, giảm trên 40%.
Tuy nhiên, 8 tháng đầu năm 2009, thị trường EU vẫn giữ ngôi vị quán quân về nhập
khẩu cá tra Việt Nam với trên 355 triệu USD, chiiếm 41,4% thị phần, mặc dù giảm 2,4%
về GT so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó Đức vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khả quan
với gần 14%, trị giá trên 72 triệu USD. Tây Ban Nha vẫn đứng đầu với kim ngạch ổn
định gần 90 triệu USD. Đáng chú ý sau 2 năm liên tiếp sụt giảm nhập khẩu, thị trường
Ba Lan đã tụt hạng xuống vị trí thứ 5 với 24,8 triệu USD, giảm gần 36%, nhường chỗ
cho thị trường Bỉ với 25,7 triệu USD.
Nga và Ucraina – hai thị trường cùng tụt hạng do ảnh hưởng từ lệnh cấm cá tra Việt
Nam tháng 12/2008. Tháng 5/2009, cá tra Việt Nam lại được phép trở lại thị trường Nga,
nhưng số doanh nghiệp và khối lượng được phép xuất khẩu hạn chế khiến xuất khẩu
sang thị trường này không thể tăng trưởng mạnh. 5 tháng gần đây xuất khẩu cá tra sang
Nga chỉ đạt 43 triệu USD, khiến tổng xuất khẩu 8 tháng giảm 67,7% so với cùng kỳ.
Xuất khẩu sang Ucraina giảm 44,5% đạt 47,7 triệu USD.
Thay thế vị trí của 2 thị trường này là Mỹ và ASEAN với mức tăng trưởng tương ứng
là 60,7% và 7,7% đạt 82 triệu USD và 58,8 triệu USD.
Mêhicô vẫn đang là thị trường tiềm năng đối với cá tra Việt Nam với mức tăng gần
25% đạt trên 44 triệu USD, đứng vị trí thứ 5.
Bên cạnh những biến động về thị trường, vấn đề giá và nguồn cung nguyên liệu
không ổn định cũng là một yếu tố tác động giảm xuất khẩu cá tra. Theo tin từ Hiệp hội
Nghề nuôi và Chế biến thủy sản An Giang cho biết, giá cá tra, ba sa nguyên liệu thời
gian gần đây tăng từ 14.000 đồng- 15.000 đồng/kg (giá thu mua tại ao). Tuy nhiên, theo
phản ánh của nhiều người nuôi vẫn còn bị lỗ từ 800 đồng - 1.000 đồng/ kg, nên nhiều hộ
vẫn còn “treo” ao. Nếu tình trạng “treo” ao vẫn tiếp diễn, dự báo những tháng đầu năm
2010, các doanh nghiệp chế biến thủy sản sẽ có nguy cơ thiếu cá nguyên liệu.

Để duy trì sản xuất, một số công ty chế biến thủy sản đã áp dụng hình thức hợp đồng
với người nuôi theo phương thức doanh nghiệp cung cấp 1,6kg thức ăn chăn nuôi và
2.500 đồng cho người nuôi để đổi lấy 1kg cá nguyên liệu.
Từ 1/1 đến 15/11/2009, Việt Nam đã xuất khẩu 527,3 nghìn tấn cá tra, basa sang 130
thị trường trên thế giới, đạt kim ngạch 1,17 tỷ USD. Trong đó, Mỹ, Tây Ban Nha và Đức
là 3 thị trường có giá trị nhập khẩu lớn nhất đạt từ 95 triệu USD trở lên với tỷ trọng
tương ứng 9,93%, 9,18% và 8,15%.
Nguyễn Chí Hiếu-08141015 DH08NY
Tình hình chế biến và xuất khẩu cá tra
10

Vào hai tháng cuối cùng của năm 2009, xuất khẩu cá tra đã hồi phục trở lại, giúp kim
ngạch con cá này đạt 1,3 tỉ đô la Mỹ, xấp xỉ năm 2008 dù vào đầu năm, cả doanh nghiệp
lẫn cơ quan quản lý đều dự báo chỉ 1 tỉ đô la Mỹ.
Tổng cuối năm 2009, cả nước xuất khẩu 607.665 tấn cá tra với tổng kim ngạch trên
1,34 tỉ USD, giảm 5,2% về khối lượng và 6,7% về giá trị so với năm 2008. Sụt giảm
mạnh nhất là thị trường Nga và Ukraina, cả năm 2009, chỉ xuất khẩu 37.710 tấn cá, giá
trị đạt 62.124 triệu USD, giảm 46,3% về khối lượng và 54,7% về giá trị. Trong đó, khối
lượng cá nhập khẩu vào Nga giảm 66,6%, giá trị kim ngạch giảm 65,8% so với năm
2008, thị trường này chỉ thực sự khởi sắc khi Bộ NN&PTNT có quyết định thành lập
Ban điều hành xuất khẩu thủy sản sang thị trường Nga.
Con cá tra vẫn duy trì được ở 3 thị trường Mỹ, Tây Ban Nha, Đức với kim ngạch trên
100 triệu USD, khối lượng xuất vào 3 thị trường này đều tăng, trong đó, Mỹ tăng 71,1%
về khối lượng và 70,6% về giá trị. Mỹ hiện là thị trường tiềm năng cho con cá tra Việt
Nam, năm 2009 đã tiêu thụ 41.609 tấn, trị giá trên 134 triệu USD. Mặt khác, Asean và
Mexico là hai thị trường giữ được tốc độ tăng trưởng dương, ổn định nhất trong năm
2009.
Sản phẩm cá tra xuất khẩu vẫn chủ yếu là filê đông lạnh nên giá thấp. So với năm
2008, xuất khẩu cá tra năm 2009, giảm mạnh hơn ở hầu hết các thị trường. Thậm chí,
một số thị trường tăng được sản lượng mà kim ngạch vẫn giảm, vào Tây Ban Nha sản

lượng tăng 9% nhưng kim ngạch giảm 0,6%.
Các số liệu tương ứng ở Đức là tăng 0,2% giảm 1,7%, Trung Quốc tăng 4,6% giảm
2,4%, Hồng Kông tăng 3,9% giảm 3,3%. Duy nhất ở thị trường Nga tăng được giá trị,
nhưng không lớn, trong lúc sản lượng lại giảm lớn.
Trên thị trường thế giới, cá tra Việt Nam vẫn có thế mạnh gần như độc quyền. Tuy
nhiên, năm 2009 đã phải chứng kiến cá tra bị nói xấu nhiều nơi, một số thị trường đã
cấm (sau mở lại) hoặc lăm le cấm như Nga, Ucraina.
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Lương Lê Phương so sánh, Na-uy có sản phẩm cá hồi
cũng gần như độc quyền và họ luôn giữ được giá trị cao với sản lượng xuất khẩu duy trì
ở mức 800.000 tấn/năm. Còn cá tra Việt Nam, ai muốn nuôi, chế biến, kinh doanh đều
được, tạo nên một thị trường chồm hổm, cạnh tranh bất kể nên làm hại nhau, Thứ trưởng
Phương nói.
Chủ trương chính năm 2009: Giảm sản lượng, tăng kim ngạch
Theo Hiệp hội Chế biến & Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam, cả nước hiện có 281
doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, trong đó chỉ khoảng 100 doanh nghiệp có nhà máy chế
biến.
Nguyễn Chí Hiếu-08141015 DH08NY
Tình hình chế biến và xuất khẩu cá tra
11

Hiện nay, người nuôi cá tra khó kiếm lời 10% doanh thu. Bộ NN&PTNT cho rằng,
phải phấn đấu để người nuôi được lời tối thiểu 30% như nhiều nông sản khác.
Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát cho biết, ông đi ra nước ngoài càng thấm thía
việc làm ăn tự phát gây hại lớn, đôi khi chỉ lô hàng nhỏ kém chất lượng của một doanh
nghiệp nào đó mà tất cả sản phẩm cá tra bị coi thường.
Năm 2009 cũng là năm đánh dấu việc các cơ quan nhà nước có sự tập trung cho một
sản phẩm chiến lược là cá tra. Bộ NN&PTNT và Bộ Công Thương dẫn đầu các đoàn
công tác đi đàm phán về thị trường cá tra ở Mỹ, EU, Nga và Ucraina, Ba Lan.
Bộ NN&PTNT thành lập ban điều hành xuất khẩu cá tra sang Nga để chủ động đàm
phán khi nước này tuyên bố tạm ngừng nhập cá tra (ngày 20-12-2008). Sau đó Nga đã

mở cửa trở lại.
Ngày 18-5-2009, Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập ban chỉ đạo sản xuất và
tiêu thụ cá tra vùng ĐBSCL do Bộ trưởng Bộ NN&PTNT làm Trưởng ban. Kết quả, đã
có khoảng 80% diện tích nuôi cá gắn với nhà máy chế biến.
Tổng kết năm 2009, Ban Chỉ đạo sản xuất và tiêu thụ cá tra vùng ĐBSCL cho rằng,
chất lượng chuỗi sản xuất cá tra chưa được kiểm soát là yếu kém lớn nhất hiện nay. Thấy
rõ điểm yếu này, Bộ NN&PTNT đặt kế hoạch tăng cường kiểm soát chất lượng.
Từ tình hình thực tế của năm 2009, VASEP đã đưa ra 5 kiến nghị để thúc đẩy phát
triển chế biến và xuất khẩu cá tra cho năm 2010:
1. Kiến nghị ban hành các quy định cụ thể để sớm triển khai việc thực hiện Đề
án phát triển sản xuất và tiêu thụ cá tra vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm
2020.
Mục tiêu của đề án là phát triển sản xuất cá tra đến năm 2010 đạt sản lượng cá
nguyên liệu 1,5 triệu tấn, sản phẩm xuất khẩu đạt 600 nghìn tấn với giá trị kim
ngạch xuất khẩu đạt 1,5 tỷ USD.
Bên cạnh công tác quy hoạch và tổ chức nuôi cá tra chất lượng tốt cần quan tâm
đến chất lượng VSATTP cho sản phẩm cá tra phi-lê đông lạnh xuất khẩu thông qua
việc ban hành các tiêu chuẩn thống nhất.
2. Quan tâm đến các yếu tố đầu vào cho nuôi cá tra xuất khẩu vì hiện nay người
nuôi cá tra đang rất khó khăn trong việc xác định giá thành nuôi khi giá con giống,
thức ăn, thuốc thú y thay đổi không theo quy luật trong suốt chu trình nuôi cá
thường kéo dài đến 8 tháng.
Cần nghiên cứu ban hành các chính sách, biện pháp ổn định giá nhằm giúp
người nuôi dự kiến được giá thành, chủ động ký kết các hợp đồng tiêu thụ với nhà
máy chế biến, cũng như cân đối cung cầu theo mùa vụ trong năm.
Nguyễn Chí Hiếu-08141015 DH08NY
Tình hình chế biến và xuất khẩu cá tra
12

3. Chính quyền các địa phương cân nhắc khi cấp phép việc xây mới hoặc mở

rộng các nhà máy chế biến cá tra mà trong đó yếu tố quan trọng là thực hiện nguyên
tắc nhà máy chế biến phải có vùng nguyên liệu, có thị trường ổn định.
Hiện năng lực chế biến đã vượt qua mức 600 nghìn tấn sản phẩm do phong trào
xây dựng nhà máy chế biến cá tra ở ĐBSCL phát triển rầm rộ trong năm 2008.
Thực tế hiện nay 100% các nhà máy chế biến cá tra đều thuộc sở hữu tư nhân
hoặc cổ phần, tuy nhiên việc cho ra đời thêm nhà máy, tăng năng lực chế biến dễ
dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các Doanh nghiệp, khó ổn định
chất lượng và phát triển thị trường tiêu thụ một cách bền vững.
Việc một số nhà máy mới ra đời không có khách hàng ổn định ban đầu hoạt
động dưới công suất dẫn đến việc phải nhận gia công chế biến thậm chí không được
tham gia kiểm soát chất lượng sản phẩm để cho các Công ty thương mại xuất khẩu
hàng kém chất lượng dẫn đến việc cạnh tranh không lành mạnh, làm ảnh hưởng uy
tín cá tra Việt Nam, có thể làm mất thị trường tiêu thụ.
4.Cần có các chính sách và biện pháp quản lý cộng đồng thông qua các Hiệp
Hội trong xuất khẩu cá tra.
Với 125 thị trường nhập khẩu trên khắp thế giới, rất đa dạng về mức chất lượng,
quy cách đóng gói, để ổn định thị trường, dự báo cung cầu hợp lý cho từng thị
trường thì việc tổ chức để các Doanh nghiệp cùng xuất vào một thị trường tham gia
quản lý cộng đồng là hết sức cần thiết, góp phần nâng cao hiệu lực công tác quản lý
của các cơ quan thẩm quyền trong việc ổn định và phát triển xuất khẩu một cách
hiệu quả và bền vững.
5. Đẩy mạnh thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại, tổ chức các hoạt
động quảng bá sản phẩm cá tra của Việt Nam tại nước ngoài với nội dung và hình
thức đổi mới. Thông qua các hội chợ triển lãm, các cơ hội xúc tiến đầu tư tổ chức
các sự kiện quảng bá nhằm giúp người tiêu dùng hiểu rõ giá trị của sản phẩm cá tra
Việt Nam đồng thời ngăn chặn các hoạt động nói xấu cá tra vì mục đích cạnh tranh
từ phía các thị trường nhập khẩu.
3. Tình hình năm 2010:
Theo VASEP, gần đây con cá tra Việt Nam lại bị bôi nhọ trên một số phương tiện
thông tin đại chúng ở 2 thị trường quan trọng là Pháp và Bỉ. Cụ thể, L'Expansion, một tờ

tạp chí kinh tế của Pháp, trong số tháng 3/2010 đã có bài viết với tựa đề “Những thức ăn
cần dè chừng”. Bài báo này nêu rõ tên của một loạt thực phẩm NK vào Pháp cần phải dè
chừng vì có yếu tố độc hại như tôm của Ấn Độ và Bangladesh, vả khô và sò ốc của Thổ
Nhĩ Kỳ, thịt gà của Đức và cá basa của Việt Nam. Trong khi đó, trên một website của
Bỉ, đã có một bài viết cho rằng cá tra Việt Nam được nuôi trong môi trường không an
toàn.
Nguyễn Chí Hiếu-08141015 DH08NY
Tình hình chế biến và xuất khẩu cá tra
13

Những thông tin trên rõ ràng không đúng nhưng sẽ gây ra những bất lợi không nhỏ
cho cá tra, basa Việt Nam không chỉ ở Pháp và Bỉ mà còn ở các nước EU khác. Bởi
trước đây không lâu, chỉ vì những thông tin không đúng trên các phương tiện thông tin
đại chúng mà cá tra, basa Việt Nam đã từng bị khốn đốn tại nhiều thị trường như Ai Cập,
Tây Ban Nha, Na Uy… Ngay cả nhiều nhà nhập khẩu châu Âu, vốn biết quá rõ con cá
tra, basa Việt Nam, cũng đã tỏ ra bất bình trước những thông tin sai lệch này. Một số nhà
nhập khẩu đã đề nghị phía Việt Nam sớm lên tiếng để bảo vệ danh tiếng cho con cá tra,
basa trên thị trường thế giới, bởi họ tin rằng cá tra nuôi trên sông Mekong an toàn cho
người tiêu dùng.
Nhưng nỗi lo lớn nhất hiện nay của con cá tra, basa Việt Nam vẫn là từ thị trường
Mỹ khi mà thời điểm thực hiện Đạo luật Farm Bill đã cận kề. Xuất khẩu cá tra Việt Nam
vào thị trường Mỹ nhìn chung đang diễn ra khá thuận lợi. Năm 2009, nước ta xuất khẩu
sang Mỹ 41.609 tấn cá tra, đạt giá trị 134 triệu USD, tăng 70% về lượng và giá trị so
năm 2008. Tuy nhiên, với Đạo luật Farm Bill đang được phía Mỹ hoàn thiện, khả năng
con cá tra Việt Nam phải đứng ngoài thị trường này là không nhỏ. Việc thi hành quyền
thực thi pháp lý đối với cá da trơn nhập khẩu vào Mỹ (bao gồm cá tra), sẽ được chuyển
từ Cục Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) sang Bộ Nông nghiệp (USDA). Theo kế
hoạch, thời gian chuyển đổi này sẽ kéo dài trong vòng 18 tháng. Đồng thời, do đàm phán
về thanh tra thực phẩm kéo dài từ 2-5 năm, nên sự thay đổi đột ngột về cơ quan quản lý
nói trên, có thể làm gián đoạn việc nhập khẩu cá tra Việt Nam vào Mỹ trong suốt thời

gian đàm phán.
Ngoài mối lo đó, nếu cá tra Việt Nam bán vào Mỹ phải được nuôi theo đúng phương
pháp và tiêu chuẩn áp dụng đối với ca da trơn nuôi tại Mỹ. Chỉ cần so sánh môi trường
sống của cá tra Việt Nam với cá da trơn Mỹ, đã đủ thấy đây là điều rất khó thực hiện
được. Cá da trơn ở Mỹ hiện đang được nuôi trong các ao nông, sử dụng nguồn nước
giếng khoan. Còn cá tra Việt Nam lại đang được nuôi trong nguồn nước của sông
Mekong. Nếu bắt cá tra Việt Nam phải sống trong ao nông và dùng nước giếng khoan,
chẳng khác gì đem giống cá này nhốt vào tù. Mặt khác, thức ăn giành cho cá tra Việt
Nam cũng khác hẳn so với thức ăn dùng cho cá da trơn ở Mỹ.
Sau khi con cá tra bị “nói xấu”, một cuộc điều tra mới đây cho thấy cá tra Việt Nam
tốt cho người tiêu dùng và đảm bảo an toàn vệ sinh. Sản phẩm philê cá tra Việt Nam
được bán trên thị trường Ý (dưới tên gọi sutchi catfish) là sản phẩm đảm bảo an toàn cho
người tiêu dùng. Philê cá tra Việt Nam có hàm lượng nước cao và hàm lượng chất béo
tương đối thấp. Đây là kết quả phân tích của bản nghiên cứu về cá tra đang được tiêu thụ
trên thị trường Ý của bà Elena Orban (chuyên gia thuộc Phòng nghiên cứu Thủy sản) và
cộng sự tại Viện nghiên cứu Thực phẩm và Dinh dưỡng Quốc gia Italia (INRAN).
Với khoảng 6 trang A4, bản nghiên cứu tập trung chủ yếu vào phân tích phương thức
nuôi, phương thức quản lý chất lượng và thành phần dinh dưỡng của loài sutchi catfish
(P.hypothalmus) hay còn gọi là cá tra Việt Nam.
Nguyễn Chí Hiếu-08141015 DH08NY
Tình hình chế biến và xuất khẩu cá tra
14

Các mẫu thử được lấy từ nhiều chợ và siêu thị khác nhau, bao gồm philê cá tra cỡ
170-260g, lột da, lọc xương dưới dạng đông lạnh và rã đông.
Các nhà nghiên cứu đã sử dụng các phương pháp hiện đại nhất để phân tích hàm
lượng nước, protein, chất béo, natri, kali, magiê, thủy ngân…có trong philê cá tra Việt
Nam.
Kết luận cho thấy sản phẩm philê cá tra (cả thịt trắng và thịt hồng) của Việt Nam
được bán trên thị trường Ý (dưới tên gọi sutchi catfish) là sản phẩm đảm bảo an toàn cho

người tiêu dùng. Philê cá tra Việt Nam có hàm lượng nước cao (80-85 g/100 g), và chất
béo (1,1-1,3 g/100 g) tương đối thấp.
Philê cá tra còn có hàm lượng cholesterol thấp (21-39 mg/100g), do đó sẽ giúp người
tiêu dùng giảm thiểu lượng cholesterol dung nạp vào cơ thể trong bữa ăn hằng ngày.
Về an toàn thực phẩm, kết quả phân tích cho thấy, chất lượng cá tra hoàn toàn đạt
tiêu chuẩn, ít nhất là về dư lượng thuỷ ngân, dư lượng thuốc trừ sâu và hoá chất độc hại.
Với những đặc điểm không có mùi tanh, xương nhỏ, thịt trắng và chắc, philê cá tra
Việt Nam được coi là sản phẩm thích hợp cho nhu cầu của ngành dịch vụ thực phẩm và
các nhà hàng tại Ý.
Dự kiến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu cá tra, basa vào Nga sẽ đạt 100 triệu USD.
Thị trường này sẽ trong tốp 10 thị trường nhập khẩu cá tra, basa Việt Nam.
Bên cạnh đó, giá bán sản phẩm cũng cao hơn trước, từ 5 - 7%, thậm chí giá bán sản
phẩm vào Nga cao hơn vào thị trường châu Âu. Dự kiến năm 2010, số doanh nghiệp
xuất khẩu vào thị trường Nga sẽ được mở rộng, một số mặt hàng mới cũng được giới
thiệu. Từ chỗ khó khăn, Nga lại trở thành thị trường hấp dẫn và tin cậy đối với các nhà
xuất khẩu Việt Nam. Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Lương
Lê Phương, để đạt được mục tiêu của năm 2010, các doanh nghiệp phải chú trọng vào
chất lượng sản phẩm, kiểm soát được sản phẩm đầu vào, giảm tỷ lệ mạ băng (đá ở trong
cá) từ 30% xuống còn 15% Cũng theo ông Dương Ngọc Minh, lượng thủy sản xuất đi
dựa trên sự thỏa thuận, cụ thể là chia đều hạn mức cho tất cả doanh nghiệp cùng tham
gia. Do đó, doanh nghiệp xuất khẩu vào Nga đều chịu sự giám sát chặt chẽ về chất lượng
từ Bộ chủ quản và Ban điều hành; đồng thời, các hoạt động xuất khẩu cũng được minh
bạch và có những lộ trình rõ ràng.
Năm nay, xuất khẩu thủy sản sẽ khả quan hơn năm 2009, do một số nền kinh tế lớn
như: EU, Mỹ, Nhật Bản đang trên đà phục hồi. Ngoài ra, Hiệp định Đối tác kinh tế
Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) đã chính thức có hiệu lực, hàng nông sản, thủy sản của
Việt Nam được hưởng ưu đãi rất lớn về thuế. Xuất khẩu thủy sản vào Mỹ sẽ tăng mạnh
nếu các doanh nghiệp chú trọng đầu tư xây dựng hệ thống kho bãi hiện đại, xây dựng
thương hiệu, tập trung sản xuất những mặt hàng có chất lượng cao Tuy nhiên, năm
2010, xu hướng bảo hộ thương mại, các hàng rào kỹ thuật, kiểm dịch dư lượng kháng

Nguyễn Chí Hiếu-08141015 DH08NY
Tình hình chế biến và xuất khẩu cá tra
15

sinh và an toàn vệ sinh thực phẩm tại các thị trường nhập khẩu sẽ tiếp tục là những trở
ngại cho doanh nghiệp Việt Nam. Năm 2010, các doanh nghiệp tiếp tục đau đầu với bài
toán nguyên liệu, khi mà đầu vào cho sản xuất nguyên liệu như vốn, thức ăn thủy sản và
chi phí khác còn khó khăn, trong khi thuế nhập khẩu nguyên liệu một số mặt hàng vẫn
chưa đưa về mức 0%.
Xuất khẩu cá tra của cả nước trong tháng 2/2010 đạt 35,8 nghìn tấn với kim ngạch 76
triệu USD giảm 8,8% về khối lượng và 15% về giá trị so với cùng kỳ năm 2009. 2 tháng
đầu năm 2010, cả nước đã xuất khẩu 87,6 nghìn tấn cá tra, basa đạt kim ngạch 184,3
triệu USD, tăng 20,7% và 10,9% về khối lượng và giá trị so với cùng kỳ năm ngoái.
Tháng 2/2010, xuất khẩu sang các nước thuộc nhóm EU giảm mạnh về giá trị (từ 14,1%
- 27,2%), riêng thị trường Ba Lan đạt mức tăng trưởng khá cao với 152,2% so với cùng
kỳ năm 2009. Ngoài ra, trong tháng 2 này, các nước ASEAN cũng giảm giá trị nhập
khẩu mặt hàng này từ Việt Nam (từ 16,2% - 62,2%), trong khi đó xuất khẩu sang Ả rập
Xêút lại đạt mức tăng trưởng dương cao với 125,3% so với cùng kỳ năm 2009.
XK cá tra, basa trong T2/2010
XK cá tra, basa 2 tháng đầu năm
2010
Tháng 1/2010
T2/2010
Cùng kỳ
2009(%)
Giá trung
bình
XK từ 1/1 - 28/2/2010
Cùng kỳ
2009(%)

THỊ
TRƯỜNG

KL GT KL GT
KL

GT

2010

2009

KL GT %KL

%GT

KL

GT

EU 17.761

39,851

13.708

31,056

-8,0


-15,5

2,27

2,47

31.469

70,907

35,9

38,5

8,5

-1,0

Đức 3.782

9,387

2.261

5,967

-28,5

-25,4


2,64

2,53

6.043

15,354

6,9

8,3

-4,1

-5,3

Tây Ban
Nha
3.025

6,564

3.317

7,518

-21,5

-27,2


2,27

2,45

6.341

14,082

7,2

7,6

-18,5

-25,5

Hà Lan 2.609

6,698

1.361

3,655

-13,6

-14,1

2,69


2,70

3.969

10,352

4,5

5,6

21,3

15,8

Ba Lan 2.978

5,331

2.468

4,493

182,8

152,2

1,82

2,04


5.446

9,825

6,2

5,3

191,7

170,3

MỸ 3.003

9,475

2.245

7,203

-10,7

-9,5

3,21

3,16

5.248


16,678

6,0

9,0

14,2

13,9

MÊHICÔ 3.716

8,085

2.033

4,361

-5,9

-14,7

2,15

2,37

5.749

12,446


6,6

6,8

65,6

51,2

ASEAN 3.827

6,757

1.590

3,071

-54,7

-58,4

1,93

2,10

5.417

9,829

6,2


5,3

-13,8

-25,4

Xingapo 1.191

2,309

602

1,232

-44,2

-46,5

2,05

2,14

1.792

3,541

2,0

1,9


-2,1

-10,3

Malaixia 1.321

1,684

306

0,431

-61,8

-62,2

1,41

1,43

1.627

2,116

1,9

1,1

16,4


7,9

PhiLipin 575

1,210

380

0,760

-12,3

-16,2

2,00

2,10

955

1,970

1,1

1,1

37,7

33,3


UCRAINA

3.158

5,325

2.177

3,207

-45,6

-53,5

1,47

1,72

5.335

8,532

6,1

4,6

-22,8

-27,0


ẢRẬP
XÊÚT
2.156

4,194

1.230

2,308

115,9

125,3

1,88

1,80

3.386

6,501

3,9

3,5

426,6

451,7


RUMANI 2.367

3,208

1.485

1,996

44,8

24,5

1,34

1,56

3.852

5,204

4,4

2,8

114,1

84,0

TQ&HK 1.884


3,310

964

1,726

-36,3

-37,4

1,79

1,82

2.848

5,037

3,3

2,7

9,7

5,0

Hồng Kông

1.625


2,879

720

1,258

-48,5

-50,7

1,75

1,83

2.344

4,137

2,7

2,2

-1,8

-7,6

CÁC TT
KHÁC
13.947


28,029

10.377

21,130

14,4

5,7

2,04

2,20

24.324

49,160

27,8

26,7

40,5

29,5

TỔNG
CỘNG:
51.820


108,234

35.808

76,058

-8,8

-15,0

2,12

2,28

87.628

184,293

100

100

20,7

10,9

KL: Khối lượng (tấn) GT: Giá trị (triệu USD) GTB : Giá trung bình (USD/kg)
Mới đây, cá tra lại có nguy cơ bị xếp vào nhóm cá da trơn của Mỹ (catfish). Nếu bị
đưa vào nhóm này, cá tra sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi xuất sang thị trường Mỹ và một
số thị trường quen thuộc khác. Khó khăn lại chồng chất khó khăn.

Với khó khăn như vậy, mới đây, tại Hội nghị Bàn biện pháp nâng cao chất lượng cá
tra, basa xuất khẩu do Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Lương Lê Phương chủ trì hồi cuối
tháng 3 vừa qua, một số ý kiến cho rằng nên xem xét đề nghị để đưa cá tra vào diện quản
Nguyễn Chí Hiếu-08141015 DH08NY
Tình hình chế biến và xuất khẩu cá tra
16

lý giá sàn như gạo. Nhưng cũng có nhiều ý kiến lại cho rằng cá tra khó có thể đưa ra
mức giá sàn giống như gạo vì philê cá tra xuất khẩu có rất nhiều dạng sản phẩm. Tuy
nhiên các doanh nghiệp đều thừa nhận rằng giá cá xuất khẩu có liên quan chặt chẽ tới
chất lượng sản phẩm. Sản phẩm có giá thấp thì chất lượng không tốt làm ảnh hưởng tới
hình ảnh của sản phẩm cá tra trên thị trường thế giới.
Tổng Thư ký VASEP Trương Đình Hoè cho rằng, trước đây VASEP đã tiến hành thử
nghiệm nhiều lần về mức giá sàn tuy nhiên qua thực tế là khó thực hiện vì quy cách của
sản phẩm cá tra khá đa dạng, thị trường thay đổi, và quan trọng là chưa có chế tài xử
phạt khi doanh nghiệp vi phạm. Nhưng chủ trương của Nhà nước, VASEP cùng với
doanh nghiệp tiếp tục thực hiện trên cơ sở xác định doanh nghiệp dẫn đầu cũng như đặc
điểm của từng thị trường.
Ông Dương Ngọc Minh Giám đốc Công ty Cổ phần Hùng Vương khẳng định với
mức giá sàn cá tra philê xuất khẩu là 2,75 USD/kg cho 100% net mà Cục Chế biến
Thương mại Nông lâm Thủy sản và Nghề muối đề xuất thì doanh nghiệp chỉ cần tăng
trọng 5% trong sản phẩm thành phẩm là sẽ bị lỗ vì hiện nay giá thu mua nguyên liệu
bình quân là 18.000 đồng/kg tại ao sau khi đã loại trừ cá bệnh và chết trên đường vô nhà
máy. Đó là chưa kể lượng hàng trong kho của doanh nghiệp đã sản xuất trước đó nếu
bán với giá sàn 2,75 USD/kg thì hoàn toàn không có lời.
Trong khi đó, ông Nguyễn Văn Kịch, Giám đốc Công ty Cổ phần Thủy sản Cafatex
cho hay giá liên quan đến chất lượng. Vì vậy, quản lý được giá cũng đồng thời quản lý
được chất lượng nhưng ông Kịch băn khoăn vì cá tra philê có hàng chục loại sản phẩm
khác nhau nên việc đề xuất chung một mức giá sàn là không hợp lý.
Đó là chưa kể mức giá sàn 2,75 USD/kg với 100% net tại Âu Châu và kèm theo đó là

thực hiện quyết định kiểm tra hàm lượng nước trong cá tra thành phẩm dưới 83% thì với
giá đó doanh nghiệp cầm chắc lỗ. Ngoài ra là công tác quản lý giá. Doanh nghiệp bán sai
giá sàn cơ quan nào sẽ xử lý và xử lý như thế nào. Liệu Chính phủ có bảo hộ về luật
pháp cho cá tra giống như gạo đang thực hiện không? Cuối cùng ông Kịch cũng thừa
nhận rằng quản lý được giá là quản lý được chất lượng sản phẩm.
Ý kiến cho việc chế biến và xuất khẩu cá tra phát triển bền vững trong
tương lai nếu là lãnh đạo ngành NN&PTNT:
Kết hợp chặt chẽ giữa vùng nguyên liệu và cơ sở chế biến.
Để con cá tra xuất khẩu có chất lượng tốt, cần nghiêm cấm việc bơm chích tạp chất,
gian lận trong việc thương mại. Tăng cường kiểm tra, thanh tra việc sử dụng kháng sinh
trong chăn nuôi, sản xuất kinh doanh thực phẩm đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng
Việt Nam và đáp ứng yêu cầu của thị trường nhập khẩu; hướng dẫn nông dân thực hiện
đi đôi với việc tìm kiếm, áp dụng các giải pháp thay thế kháng sinh cấm sử dụng, xây
dựng vùng nuôi an toàn
Nguyễn Chí Hiếu-08141015 DH08NY
Tình hình chế biến và xuất khẩu cá tra
17

Đề nghị Chính phủ có dành khoảng thích đáng để kích cầu cho các doanh nghiệp vai
nhằm mục đích mua thức ăn cung ứng theo tiến độ cho người nuôi cá tra. Bênh cạnh đó,
cần hỗ trợ lãi suất; giải pháp về tiêu thụ sản phẩm và gắn kết sản xuất nguyên liệu với
tiêu thụ sản phẩm và giải pháp về giống, thức ăn, thời vụ và khoa học công nghệ.
Chỉ đạo Hội nghề cá Việt Nam tổ chức, hướng dẫn cho các doanh nghiệp, các thành
phần kinh tế tích cực triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại, linh hoạt mở rộng thị
trường xuất khẩu nhằm chủ động đối phó với vụ kiện bán phá giá tôm, hạn chế đến mức
thấp nhất ảnh hưởng của vụ kiện đến giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản và hiệu quả
sản xuất kinh doanh.
Phối hợp với Công đoàn các cấp, công đoàn cơ sở phát động phong trào thi đua lao
động sản xuất nhằm huy động mọi nguồn lực, thực hành tiết kiệm, nỗ lực phấn đấu hoàn
thành các chỉ tiêu kế hoạch của năm này, làm tiền đề phát triển cho năm tới.

Đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu. Phát triển các mặt hàng xuất khẩu có tiềm năng
như phile, xông khói, sản phẩm khô…

×