Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Triển vọng xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ của việt nam sang thị trường mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.83 MB, 28 trang )

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA KINH TẾ QUỐC TẾ

TIỂU LUẬN
MÔN: THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Đề tài
TRIỂN VỌNG XUẤT KHẨU GỖ VÀ CÁC SẢN PHẨM GỖ CỦA VIỆT
NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ

Giảng viên hướng dẫn : TS. Lâm Thị Thanh Hà
ThS. Nguyễn Thị Minh Hiền
Nhóm thực hiện

: Nhóm 5 –KT46B

Thành viên:

: Đỗ Lê Huyền Ngọc: KT46B-065-1923
Trần Thị Thu Thảo: KT46B-074-1923
Nguyễn Thị Bích Hằng: KT46B-053-1923
Bùi Thị Linh:KT46B-060-1923
Nguyễn Kim Oanh: KT46B-067-1923
Nguyễn Thảo Nguyên: KT46B-066-1923
Đặng Thị Hồng Huế: KT46B-055-1923


2

MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG


3

LỜI MỞ ĐẦU

4

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Khái niệm về xuất khẩu
1.1.2 Các hình thức của xuất khẩu
1.1.3 Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân
Phòng vệ thương mại
1.2 Tổng quan về xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ của Việt Nam
1.2.1 Giá trị kim ngạch xuất khẩu
1.2.2 Các thị trường xuất khẩu chính
1.2.3. Các sản phẩm xuất khẩu chính
1.3. Tổng quan về nhu cầu gỗ và các sản phẩm gỗ của thị trường Mỹ

5
5
5
5
6
7
8
8
10
11
12


CHƯƠNG II: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC XUẤT KHẨU GỖ VÀ CÁC SẢN
PHẨM GỖ CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ

14

2.1. Cơ hội xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ của Việt Nam sang thị trường Mỹ 14
2.1.1. Xét từ góc độ Mỹ
15
2.2.2 Xét từ góc độ Việt Nam
16
2.2. Thách thức xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ của Việt Nam sang thị trường
Mỹ.
18
2.2.1. Thách thức từ những nhân tố khách quan
18
2.2.2 Thách thức từ những nhân tố chủ quan.
21
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP VÀ TRIỂN VỌNG XUẤT KHẨU GỖ VÀ SẢN
PHẨM GỖ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ
3.1 Giải pháp xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Mỹ
3.1.1 Giải pháp ngắn hạn sau bùng phát dịch bệnh COVID - 19
3.1.2 Giải pháp dài hạn
3.2. Triển vọng xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Mỹ

22
22
22
23
24


KẾT LUẬN

26

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

27


3

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
STT

BIỂU ĐỒ

TRANG

1

Kim ngạch xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ Việt
Nam giai đoạn 2010-2020

9

2

Thị phần kim ngạch xuất khẩu G&SPG Việt Nam 6
tháng năm 2021


10

3

Cơ cấu mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ xuất khẩu

11

4

Danh sách thị trường cung cấp sản phẩm gỗ và các
sản phẩm bằng gỗ, than gỗ cho Mỹ giai đoạn 2016 2020

13

DANH MỤC BẢNG
STT
1

BẢNG

TRANG

Thị trường xuất khẩu G&SPG của Việt Nam 6 tháng
2021

11


4


LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế tồn cầu hóa hiện nay, việc chủ động tham gia hội nhập
kinh tế quốc tế là chủ trương được Đảng và Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan
tâm. Để thúc đẩy tiến trình tồn cầu hóa và hội nhập của đất nước, chúng ta
khơng thể không đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu. Bên cạnh cung cấp nguồn
ngoại tệ phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xuất khẩu hàng
hóa cịn là một trong những hoạt động quan trọng hàng đầu trong quá trình hội
nhập quốc tế.
Hiện nay, Hoa Kỳ là đối tác quan trọng và thị trường tiềm năng trong
hoạt động xuất khẩu hàng hóa của nước ta. Kể từ hiệp định thương mại Việt
Nam - Hoa Kỳ được phê chuẩn, kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
tăng trưởng mạnh mẽ. Một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt
Nam là gỗ và các sản phẩm gỗ với tốc độ tăng trưởng nhanh và đạt kim ngạch
xuất khẩu cao. Mặc dù đã đặt chân vào thị trường lớn như Hoa Kỳ và có những
bước đi khá vững chắc và đầy triển vọng nhưng sản phẩm gỗ của Việt Nam vẫn
chỉ chiếm một thị phần nhỏ. Vì vậy, để đẩy mạnh xuất hàng hóa nói chung và
đẩy mạnh xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ nói riêng vào thị trường Hoa Kỳ,
Việt Nam cần tập trung nghiên cứu biện pháp giải quyết các vướng mắc, cản trở
cịn tồn đọng và tìm một hướng đi đúng trong tương lai.
Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề này, nhóm em đã quyết định
chọn đề tài: “Triển vọng xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ của Việt Nam sang
thị trường Mỹ” làm đối tượng nghiên cứu trong bài tập giữa kỳ cho môn học
Thương mại quốc tế. Với những tài liệu tham khảo của mình kết hợp các phương
pháp phân tích, so sánh và tổng hợp, bài tiểu luận này nhóm sẽ tập trung tìm hiểu
thực trạng xuất khẩu gỗ của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong những năm
gần đây, phân tích những cơ hội và thách thức mà Việt Nam có thể gặp phải. Từ
đó, nhóm sẽ đưa ra một số giải pháp thích hợp để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu
gỗ và các sản phẩm gỗ sang thị trường này cũng như đánh giá triển vọng của
Việt Nam trong những năm tới.

Trong quá trình tìm hiểu sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót thơng tin,
nhóm em rất mong nhận được sự nhận xét, góp ý của cơ và các bạn để bài tiểu
luận này được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!


5

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Khái niệm về xuất khẩu
Theo lý thuyết thương mại quốc tế cổ điển, khi phân công lao động xã
hội đạt được mức độ nhất định, chun mơn hóa sản xuất được thực hiện cho
phép tạo ra năng suất cao hơn, hàng hóa ngày càng nhiều không chỉ đáp ứng đầy
đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước mà tất yếu sẽ dẫn tới sự trao đổi hàng hóa ra
bên ngồi phạm vi lãnh thổ quốc gia. Như vậy, xuất khẩu thực chất chính là sự
trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia.
Khái niệm xuất khẩu có thể được định nghĩa như sau: Xuất khẩu hàng
hóa là hoạt động kinh doanh ngoại thương mang hàng hóa, dịch vụ của quốc gia
này bán cho quốc gia khác. Đây không phải là hoạt động bán hàng đơn lẻ mà là
một hệ thống bán hàng có tổ chức, có sự giám sát quản lý của cấp nhà nước cả
bên trong lẫn bên ngồi với mục đích thu lợi nhuận, tăng thu ngoại tệ, phát triển
nền kinh tế quốc gia,...1
1.1.2 Các hình thức của xuất khẩu
i.
Xuất khẩu trực tiếp
Là hình thức được thực hiện trực tiếp giữa hai bên, bên mua hàng và đơn
vị bán hàng sẽ trực tiếp ký kết hợp đồng ngoại thương với nhau. Điều kiện là
hợp đồng này phải tuân thủ và phù hợp với pháp luật của từng quốc gia, đồng
thời đúng tiêu chuẩn của điều lệ mua bán quốc tế.

ii. Xuất khẩu gián tiếp (ủy thác)
Là hình thức đưa hàng hóa ra nước ngồi qua đơn vị trung gian. Với hình
thức này, đơn vị có hàng sẽ ủy thác quyền cho một đơn vị thứ ba với danh nghĩa
bên nhận ủy thác để thay bạn đưa hàng hóa ra nước ngồi.
iii. Gia cơng hàng xuất khẩu
Là phương thức sản xuất mà công ty trong nước nhận tư liệu sản xuất
(máy móc, thiết bị, nguyên phụ liệu) từ cơng ty nước ngồi về để sản xuất hàng
Quang Sơn. “Xuất khẩu là gì? Những thơng tin liên quan đến xuất khẩu”. Trích xuất từ
ngày 15/10/2021.
1


6

dựa trên yêu cầu của bên đặt hàng. Hàng hóa làm ra sẽ được bán ra nước ngoài
theo chỉ định của cơng ty đặt hàng.
iv. Xuất khẩu tại chỗ
Là hình thức giao hàng tại chỗ, trên lãnh thổ Việt Nam, thay vì phải
chuyển ra nước ngồi như xuất khẩu hàng hóa thơng thường. Điều này xuất hiện
khi người mua nước ngoài muốn hàng họ mua được giao cho đối tác của họ ngay
tại quốc gia đó.
v.
Tạm xuất tái nhập, tạm nhập tái xuất
Với tạm nhập tái xuất, hàng hóa chỉ tạm thời đưa vào lãnh thổ một quốc
gia rồi sau đó sẽ được xuất sang nước thứ ba. Với tạm xuất tái nhập, hàng hóa
trong nước sẽ được tạm xuất ra nước ngoài và sau một thời gian nhất định lại
được nhập về nước ban đầu.2
1.1.3 Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân
Hoạt động xuất khẩu là nội dung chính trong hoạt động ngoại thương và
thương mại quốc tế. Xuất khẩu đóng vai trị đặc biệt quan trọng trong quá trình

phát triển kinh tế của một quốc gia cũng như trên toàn thế giới:
i.
Mang lại nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước
Ngoại tệ được sử dụng làm phương tiện thanh tốn, do đó xuất khẩu góp
phần làm tăng dự trữ ngoại tệ của một quốc gia. Đặc biệt với các nước đang phát
triển, đồng tiền khơng có khả năng chuyển đổi thì ngoại tệ có được nhờ xuất
khẩu đóng vai trị quan trọng trong việc tăng tích lũy ngoại tệ, cân bằng cán cân
thanh tốn từ đó góp phần thúc đẩy nền kinh tế quốc gia.
ii. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH
Xuất khẩu tạo tiền đề cho các ngành khác cùng có cơ hội phát triển, tạo
điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, mở rộng thị trường
tiêu dùng của một quốc gia. Đồng thời, xuất khẩu cũng góp phần thúc đẩy
chuyên mơn hóa, tăng cường hiệu quả sản xuất của quốc gia.
iii. Thúc đẩy đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất hiện đại
Trong quá trình xuất khẩu, hàng hóa các nước sẽ bước vào cuộc cạnh
tranh trên thị trường quốc tế. Vì vậy, mỗi quốc gia buộc phải đổi mới trang thiết

14/04/2021. “Xuất khẩu là gì? Vai trị và các hình thức xuất khẩu phổ biến”. Trích xuất từ
/>ngày 15/10/2021.
2


7

bị và cơng nghệ sản xuất hiện đại hơn, địi hỏi năng lực sản xuất, phát triển để
thích nghi, xúc tiến mở rộng thị trường.
iv. Tạo công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân
Sản xuất hàng xuất khẩu thu hút nhiều lao động. Xuất khẩu càng nhiều
thì việc sản xuất hàng hóa càng phát triển và địi hỏi nhiều lao động, do đó tạo
cơng ăn việc làm cho hàng triệu lao động với mức thu nhập chính đáng giúp cải

thiện đời sống của người lao động.
v. Mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại
Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu phát triển đồng
nghĩa với các quan hệ kinh tế đối ngoại khác phát triển, giúp mở rộng việc giao
lưu với các nước bạn trên quốc tế.3
1.1.4 Phòng vệ thương mại
Sự ra đời của biện pháp phòng vệ thương mại là một trong những hệ quả
của tiến trình tự do hóa thương mại nhằm bảo hộ ngành sản xuất nội địa trước sự
cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu bên ngoài cũng như tạo ra hàng rào ngăn cản
gia nhập thị trường. Theo đó, ta có định nghĩa như sau:
Phòng vệ thương mại là những biện pháp ngăn chặn, hạn chế áp dụng
đối với hàng hóa xuất khẩu từ nước này sang nước kia và được nước nhập khẩu
áp dụng. Phòng vệ thương mại được quy định trong nhiều Hiệp định về thương
mại như Hiệp định TPP, Hiệp định GATT 1994, các Hiệp định chống bán phá
giá, Hiệp định về các biện pháp tự vệ, Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối
kháng của WTO…4
Các biện pháp phổ biến được sử dụng trong phòng vệ thương mại là:
i.
Biện pháp chống bán phá giá
Là biện pháp để đối phó với hành vi bán sản phẩm với giá thấp nhằm
chiếm lĩnh thị trường và tiến tới loại bỏ dần các đối thủ cạnh tranh. Khi hàng hoá
bị xem là bán phá giá thì chúng có thể bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá
như thuế chống phá giá, đặt cọc hoặc thế chấp, can thiệp hạn chế định lượng
hoặc điều chỉnh mức giá của nhà xuất khẩu nhằm triệt tiêu nguy cơ gây thiệt hại
Đinh Hà Uyên Thư, 16/01/2020. “Lý luận về xuất khẩu và các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu”. Trích xuất
từ ngày
15/10/2021.
4
Nguyễn Văn Dương, 08/02/2021. “Phịng vệ thương mại là gì? Các biện pháp phịng vệ thương mại?”.
Trích xuất từ ngày

21/20/2021.
3


8

cho ngành sản xuất trong nước nhập khẩu, trong đó thuế chống bán phá giá và
biện pháp phổ biến nhất hiện nay.
ii. Biện pháp chống trợ cấp
Là biện pháp được áp dụng để loại bỏ tác động tiêu cực gây ra cho ngành
sản xuất hàng hóa trong nước xuất phát từ các chính sách trợ cấp của chính phủ
nước xuất khẩu.
iii. Biện pháp tự vệ
Là một công cụ bảo vệ ngành sản xuất hàng hóa tương tự hoặc cạnh
tranh trực tiếp trong nước trong trường hợp khẩn cấp nhằm hạn chế những tác
động không thuận lợi gây thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất trong nước do tình
trạng gia tăng bất thường của hàng hóa nhập khẩu.
iv. Chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại
Là hành vi thay đổi nguồn gốc hoặc loại hàng hóa để tránh biện pháp
phịng vệ thương mại đang áp dụng, từ đó làm giảm hiệu quả các biện pháp này.5
Những biện pháp này chỉ được áp dụng sau khi nước nhập khẩu đã tiến
hành điều tra và chứng minh được sự tồn tại đồng thời của 3 điều kiện: Số lượng
của hàng hóa liên quan đến nhập khẩu tăng đột biến; Ngành sản xuất sản phẩm
tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp bị thiệt hại hoặc đe dọa bị thiệt hại nghiêm
trọng; Xuất hiện mối quan hệ nhân quả giữa hai điều kiện trên.
1.2 Tổng quan về xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ của Việt Nam
1.2.1 Giá trị kim ngạch xuất khẩu
Xuất khẩu hàng hóa là một trong những trụ cột chính đóng góp vào tăng
trưởng kinh tế Việt Nam. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đang
trên đà phát triển và ln giữ vị trí cao trong thị phần xuất khẩu hàng hóa Việt

Nam.
Năm 2020 mặc dù chịu ảnh hưởng lớn từ đại dịch COVID-19, kim ngạch
xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ vẫn đạt một con số ấn tượng, đánh dấu một năm
thành công của ngành. Xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đã vươn lên vị trí thứ 6
trong kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam năm 2020. Cụ thể, tổng giá trị
Hoàng Thị Huệ, 26/07/2021. “Phịng vệ thương mại là gì? Các biện pháp sử dụng trong phịng vệ thương
mại là gì?”. Trích xuất từ
/>.aspx ngày 21/10/2021.
5


9

xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ năm 2020 đạt 12,37 tỷ USD tăng 16,3% so với
năm 2019.
Biểu đồ 1: Kim ngạch xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ Việt Nam giai đoạn
2010-2020

Nguồn: Thống kê số liệu từ Tổng cục Hải Quan

Bước sang năm 2021, các doanh nghiệp ngành gỗ tiếp tục vượt lên
những khó khăn do đại dịch và duy trì giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ ở
mức tăng trưởng cao và ổn định. Trong quý 1/2021, giá trị xuất khẩu gỗ và sản
phẩm gỗ đạt 3,78 tỷ USD tăng 44,9% so với cùng kỳ năm 2020. Theo Tổng cục
Lâm nghiệp, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ trong 7 tháng đầu năm
2021 đạt 9,58 tỷ USD tăng 55% so với cùng kỳ6.
Như vậy, mặc dù gặp khó khăn do diễn biến căng thẳng của đại dịch
COVID-19, tổng giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ vẫn ghi nhận những con số
tăng trưởng ấn tượng. Thị trường đồ gỗ, nội thất của thế giới cịn nhiều dư địa để
phát triển. Trong đó, thị phần gỗ và sản phẩm gỗ do Việt Nam xuất khẩu hiện chỉ

chiếm 9 %. Do đó, các doanh nghiệp ngành gỗ của Việt Nam còn hơn 90% thị
phần của thế giới để tiếp cận và chiếm lĩnh thị trường

Nhung Hồng, & Hưng Minh, 09/08/2021. Xuất khẩu gỗ Việt Nam tăng trưởng vượt trội trong bối cảnh dịch.
TTXVN/Vietnam+. Từ
/>6


10

1.2.2 Các thị trường xuất khẩu chính
Các mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam hiện đang được xuất
khẩu sang nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ.
Biểu đồ 2: Thị phần kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ Việt Nam 6
tháng năm 2021

Nguồn: Tổng Cục Hải quan

Các thị trường xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ chủ yếu của Việt Nam bao
gồm Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước EU. Tổng giá trị xuất
khẩu sang các thị trường này chiếm 90% tổng thị phần xuất khẩu ngành hàng gỗ
và sản phẩm gỗ của Việt Nam ra nước ngồi. Trong đó tỷ trọng xuất khẩu sang
Mỹ chiếm hơn 50% tổng giá trị xuất khẩu ngành hàng này của Việt Nam. Tiếp
sau là các thị trường lớn như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc.


11

Bảng 1: Thị trường xuất khẩu G&SPG của Việt Nam 6 tháng 2021
Nguồn: Gỗ Việt phân tích từ số liệu Hải Quan


So sánh tổng giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ 6 tháng đầu năm 2021
so với năm 2020, Mỹ dẫn đầu cả về số lượng cũng như tỷ lệ tăng trưởng với mức
tăng 93,43% so với cùng kỳ năm 2020. Ngoài ra, xuất khẩu sang các thị trường
Anh, Canada, Malaysia cũng tăng trên 50%.
1.2.3. Các sản phẩm xuất khẩu chính
Biểu đồ 3: Cơ cấu mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ xuất khẩu( % theo kim
ngạch)

Nguồn: Tính toán theo số liệu của Tổng cục Hải quan


12

Các sản phẩm gỗ xuất khẩu chính bao gồm đồ nội thất, ghế khung gỗ,
dăm gỗ và ván sàn. Nhìn chung, các mặt hàng gỗ xuất khẩu năm 2020 đều tăng
so với năm 2019 ngoại trừ mặt hàng dăm gỗ. Mặt hàng đồ nội thất phòng khách
và phòng ăn dẫn đầu trong kim ngạch xuất khẩu năm 2020 đạt 2,73 tỷ USD. Mặt
hàng ghế khung gỗ tăng trưởng ổn định do nhu cầu tiêu dùng lớn và chuỗi sản
xuất không bị đứt gãy do ảnh hưởng của đại dịch.
Năm 2021, nhóm mặt hàng đồ nội thất tiếp tục là nhóm triển vọng nhất
trong bức tranh xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ. Giá trị xuất khẩu đồ gỗ nội thất
nhà bếp 7 tháng đầu năm 2021 đạt 550 triệu USD tăng 66% so với cùng kỳ 2020.
Kim ngạch xuất khẩu đồ nội thất phòng ngủ đạt 1,4 tỷ USD tăng 43,7% so với
cùng kỳ 2020 7.
Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ vẫn duy trì được
đà tăng trưởng cả trong đại dịch COVID-19 do các doanh nghiệp sản xuất, chế
biến các sản phẩm gỗ, đồ nội thất đã ứng dụng các công nghệ hiện đại, phát triển
sản phẩm mới và sử dụng các kênh tiếp thị trực tuyến hiệu quả nhằm khắc phục
khó khăn trong bối cảnh dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp.

1.3. Tổng quan về nhu cầu gỗ và các sản phẩm gỗ của thị trường Mỹ
a) Nhu cầu nhập khẩu:
Cục Xuất Nhập khẩu dẫn số liệu từ Ủy ban Thương mại Quốc tế Mỹ cho
biết, trị giá nhập khẩu đồ nội thất bằng gỗ của Mỹ trong tháng 11/2020 đạt 2,04
tỷ USD, tăng 34,4% so với tháng 11/2019. Trong 11 tháng năm 2020, nhập khẩu
đồ nội thất bằng gỗ của Mỹ đạt 16,8 tỷ USD, giảm 0,6% so với cùng kỳ năm
2019.8
b) Các nguồn cung ứng chính:
Vào năm 2020, tổng giá trị nhập khẩu gỗ và các sản phẩm từ gỗ của Mỹ
lên đến 22,578,485 nghìn USD, cũng là nước có giá trị nhập khẩu gỗ cao nhất
toàn cầu. Các nguồn cung ứng gỗ và các sản phẩm bằng gỗ chính cho Mỹ là:
Canada (11,297,362 nghìn USD), Trung Quốc (2,696,534 nghìn USD), Brazil

Chu Khôi, 16/08/2021. Tới tấp đơn hàng xuất khẩu nhưng doanh nghiệp đồ gỗ "bó tay" do thiếu lao động.
VnEconomy, truy cập từ
/>8
Nguyễn Hạnh, 04/02/2021. Việt Nam là thị trường cung cấp đồ gỗ nội thất lớn nhất cho Hoa Kỳ, truy cập
ngày 20/10/2021, từ
/>7


13

(1,598,921 nghìn USD), Chile (999,545 nghìn USD), Đức (836,616 nghìn USD),
Việt Nam (836,616 nghìn USD)...9
Đơn vị: nghìn USD

Biểu đồ 4 - Danh sách thị trường cung cấp sản phẩm gỗ và các sản
phẩm bằng gỗ, than gỗ cho Mỹ giai đoạn 2016 - 2020
Nguồn: Trade Map


c) Thị hiếu, xu hướng tiêu thụ:
Theo dự báo từ Hiệp hội Ngân hàng Thế chấp (MBA) Mỹ, năm 2021 thị
trường nhà ở gia đình tại Mỹ đạt khoảng 1,134 triệu ngôi nhà, trong năm 2022
đạt 1,165 triệu ngôi nhà; năm 2023 đạt 1,210 triệu ngôi nhà. Thị trường nhà ở
Mỹ tăng trưởng mạnh, kéo theo nhu cầu về đồ nội thất gia đình tăng trong năm
2021 và những năm tới. Bên cạnh đó, phân tích về tiềm năng của thị trường đồ
gỗ, nội thất Mỹ, ông Thomas Russell Thomas Russell - Biên tập viên cao cấp,
Tạp chí Furniture Today cũng cho biết, năm 2020, doanh số bán đồ nội thất và
bộ đồ giường ngủ của Mỹ đạt 115 tỷ USD, chỉ tăng 0,6% do sự trì trệ trong thời
gian dịch Covid-19. Dự kiến, doanh số bán đồ nội thất và bộ đồ giường ngủ của
Mỹ sẽ đạt 143 tỷ USD trong 5 năm tới, tăng gần 25,5% kể từ năm 2020. Trong
đó, sản phẩm sofa sẽ đạt doanh thu 22 tỷ USD, giường ngủ ở mức 21 tỷ USD;

9

/>

14

các dịng nội thất cho phịng trẻ em, giải trí, phòng ăn, nhà bếp đều tăng trên
20%.10
Các hạng mục đáng chú ý trong phân khúc đồ gỗ bao gồm: (1) bàn, ghế,
tủ tài liệu và tủ sách do nhu cầu về không gian làm việc chuyên nghiệp tại nhà
của người đi làm, học sinh, sinh viên học tập và làm việc tại nhà tăng do dịch
COVID-19; (2) bàn điều khiển tivi, bàn tiếp khách do đây là những mặt hàng
trọng tâm đối với hạng mục phòng khách; (3) bàn ghế ăn thông dụng bởi nhu cầu
ăn uống, vui chơi tại nhà của người dân Mỹ tăng cao. Đặc biệt vật liệu thân thiện
với môi trường như gỗ tự nhiên, mây tre đan lát cũng đang phổ biến hơn trên thị
trường. Dịch Covid-19 khiến người dân Mỹ ở trong nhà nhiều hơn, và họ có nhu

cầu sửa sang nhà cửa, mua sắm đồ đạc mới thay thế đồ gỗ nội thất trong nhà.
Đặc biệt, với thói quen tiêu dùng đồng bộ, đây là lý do vì sao tiêu thụ đồ gỗ tại
thị trường Mỹ sẽ tăng lên.
Mặc dù Mỹ là một thị trường tiềm năng để các doanh nghiệp cung ứng
gỗ và sản phẩm gỗ có thể khai thác, nhưng Mỹ cũng là một thị trường khó tính
địi hỏi những u cầu khắt khe và kiểm soát chặt chẽ về nguồn gốc, tính hợp
pháp của sản phẩm gỗ. Tỷ lệ kiểm tra hàng nhập khẩu vào Mỹ chỉ chiếm từ 1 2% tổng số đơn hàng, nhưng các cơ quan quản lý có nhiều cơng cụ khác nhau để
đảm bảo sự tuân thủ quy định gỗ hợp pháp thông qua giám sát chuỗi cung ứng từ
nguyên liệu đến sản phẩm. Nếu các doanh nghiệp không chú ý sẽ gặp nhiều rủi
ro.

CHƯƠNG II: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC XUẤT KHẨU GỖ
VÀ CÁC SẢN PHẨM GỖ CỦA VIỆT NAM SANG THỊ
TRƯỜNG MỸ
2.1. Cơ hội xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ của Việt Nam sang thị
trường Mỹ
Dịch COVID-19 xảy ra trên toàn cầu gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến hàng
loạt chuỗi cung ứng hàng hóa trên thị trường thế giới, trong đó có ngành chế
10

Thanh Hà, 21/03/2021. Xuất khẩu gỗ vào thị trường Hoa Kỳ: dư địa còn lớn, truy cập ngày 20/10/2021, từ
/>

15

biến và xuất khẩu gỗ Việt Nam. Thế nhưng, bất chấp diễn biến phức tạp của dịch
bệnh, ngành chế biến, xuất khẩu gỗ và đồ gỗ Việt Nam sang Mỹ vẫn đạt được
những kết quả đáng ghi nhận và tạo ra những cơ hội sắp tới.
2.1.1. Xét từ góc độ Mỹ
Thứ nhất, nhu cầu các mặt hàng về gỗ của Mỹ ngày càng tăng cao.

Mỹ là một thị trường lớn và đầy tiềm năng với 333,5 triệu dân, đứng thứ
ba trên thế giới về dân số dẫn tới thị trường nhà ở của Mỹ đang có xu hướng phát
triển mạnh. Điều này kéo theo theo nhu cầu về đồ nội thất gia đình tăng trong
năm 2021 và những năm tới. Cụ thể, Việt Nam là thị trường cung cấp đồ gỗ nội
thất phòng ngủ lớn nhất cho Mỹ với trị giá chiếm 49,7% tổng trị giá nhập khẩu
vào năm 2020. Mỹ cũng tăng mạnh nhập khẩu đồ gỗ nội thất nhà bếp từ Việt
Nam và Malaysia, đạt 410,8 triệu USD và 350 triệu USD, tăng tương ứng
450,8% và 696,6% so với cùng kỳ năm 2019 11. Đây là cơ hội cho các doanh
nghiệp xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam, đặc biệt là mặt hàng đồ nội
thất bằng gỗ.
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế Mỹ đang dần phục hồi sau dịch
COVID-19 đã tác động trực tiếp lên nhu cầu làm việc và sinh sống của người
dân. Người tiêu dùng đã chủ động sắm sửa vật dụng, dụng cụ làm việc để duy trì
cơng việc, cuộc sống tại nhà . Điều này cũng kéo theo ngành chế biến, xuất khẩu
gỗ, đặc biệt là đồ gỗ dùng cho nội thất văn phòng, phòng khách, phòng ăn cũng
rất khả quan.
Thứ hai, gia tăng giá trị xuất khẩu nhờ chiến tranh thương mại Mỹ
-Trung .
Cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung kéo dài, nhu cầu của thị trường Mỹ
với các mặt hàng gỗ từ các quốc gia, trong đó Việt Nam có khả năng sẽ tăng lên
để bù đắp vào phần thiếu hụt hàng hóa do thuế tăng cao từ thị trường Trung
Quốc. Trước cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung, Trung Quốc là quốc gia cung
cấp gỗ và các sản phẩm gỗ lớn nhất cho Mỹ. Cụ thể, năm 2018, tổng số tiền mà
người Mỹ đã bỏ ra để nhập khẩu gỗ và đồ gỗ từ Trung Quốc là gần 30,3 tỷ USD,
tăng lần 2,4 tỷ USD so với năm 2017.12
11

4/2/2021. Việt Nam là thị trường cung cấp đồ gỗ nội thất phòng ngủ lớn nhất cho Mỹ, truy cập từ:
/>2.html
12

27/6/2019. Gỗ Việt - Cuộc chiến thương mại Mỹ Trung - cơ hội và rủi ro cho ngành gỗ Việt Nam, truy cập
từ :


16

Tuy nhiên, sau chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, thuế các mặt hàng gỗ
từ Trung Quốc xuất vào Mỹ gia tăng làm một số doanh nghiệp Trung Quốc từ bỏ
đơn hàng tạo ra khoảng trống về thị trường. Điều này trở thành cơ hội cho các
doanh nghiệp Việt Nam. Theo thông tin từ Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ
NN-PTNT), 9 tháng năm 2021, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đạt 11,97 tỷ USD,
tăng 31,9% so với cùng kỳ. Trong đó, gỗ và sản phẩm gỗ 11,14 tỷ USD, tăng
30,9%; lâm sản ngoài gỗ đạt 832 triệu USD, tăng 46,4% so cùng kỳ năm 2020.13
Đáng chú ý, xuất siêu của ngành này trong 9 tháng năm 2021 đạt gần 9,7 tỷ
USD, tăng 45% so với cùng kỳ năm ngoái.14 Điều này cho thấy chiến tranh
thương mại Mỹ - Trung đã mang lại cho ngành công nghiệp gỗ một bước tiến
mới.
2.2.2 Xét từ góc độ Việt Nam
Thứ nhất, Việt Nam giàu tài nguyên về rừng.
Mặc dù tình hình dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp ở trong nước và trên
thế giới, ngành gỗ tiếp tục duy trì tăng trưởng nhờ phong phú về tài nguyên rừng
được trồng với diện tích lớn. Hiện nay, tổng diện tích rừng là 14,377 triệu ha,
trong đó diện tích rừng tự nhiên là 10,242 triệu ha và diện tích rừng trồng lại là
4,135 triệu ha.
Nhờ đó, sản lượng gỗ khai thác từ rừng trồng tăng liên tục tăng qua các
năm, từ 3,01 triệu m3 năm 2006 lên 19,5 triệu m3 năm 2019. Đến năm 2020 đạt
20,5 triệu m3 và cơ bản đạt mục tiêu đặt ra trong chiến lược phát triển Lâm
nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-2020 là 20 – 24 triệu m3/năm. Trong 2 tháng
đầu năm 2021, sản lượng gỗ khai thác đạt 1,85 triệu m3, tăng 3,5% so với cùng
kỳ năm trước; sản lượng củi khai thác và thu nhặt đạt 2,73 triệu ste, bằng 98,9%.

15

/>am-8995
13
Tổng cục lâm nghiệp, truy cập từ />14
Tâm An,5/10/2021. Kỷ lục thu gần 12 tỷ USD, lại đón thêm tin vui từ Mỹ. Báo VietNamnet, truy cập từ:
/>15
Tổng Cục Thống kê, truy cập từ:
/>n-pham-tu-go-tre-nua-diem-sang-cua-kinh-te-viet-nam/


17

Sản lượng gỗ rừng trồng tăng đã tạo điều kiện cho ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo chủ động trên 70% nguồn nguyên liệu đầu vào, từng bước giảm
phụ thuộc vào ngun liệu nhập khẩu, góp phần giảm chi phí sản xuất và giá
thành sản phẩm, đồng thời tạo ưu thế cạnh tranh cho các sản phẩm gỗ của Việt
Nam xuất khẩu sang Mỹ.
Thứ hai, ngành chế biến gỗ ứng dụng công nghệ tạo sức cạnh tranh sản
phẩm.
Hiện nay, việc ứng dụng khoa học công nghệ cao trong sản xuất mang lại
lợi thế cạnh tranh đáng kể cho các doanh nghiệp như tăng sản lượng, chất lượng
và tăng tính đồng bộ. Các doanh nghiệp ngành chế biến gỗ đã nhanh chóng thay
đổi về tư duy để cập nhật những kiến thức mới đáp ứng yêu cầu của Mỹ, đồng
thời, nâng cấp các trang thiết bị máy móc tự động và cơng nghệ để đón đầu
những lợi thế mà cuộc cách mạng 4.0 đem lại.
Việc đổi mới dây chuyền sản xuất theo hướng ứng dụng khoa học công
nghệ hiện đại đã giúp doanh nghiệp tiết kiệm thời gian và nguồn lực, sản lượng
tăng gấp đơi, giảm được chi phí giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm. Đây
cũng là những lợi thế để nâng cao giá trị sản xuất của ngành công nghiệp sản

xuất, chế biến gỗ nhằm đáp ứng các yêu cầu khắt khe về chất lượng gỗ của Mỹ
hiện nay.
Cùng với đó, ngành sản xuất đồ gỗ đã đẩy mạnh và phát triển trên các
kênh trực tuyến như Alibaba.com được xem là một bước ngoặt đưa sản phẩm gỗ
của Việt Nam tiếp cận khách hàng tiêu dùng ở Mỹ. Bên cạnh đó, doanh nghiệp
ngành gỗ đã thành cơng trong việc tái cơ cấu ngành hàng, giảm xuất khẩu
nguyên liệu thơ và đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng có giá trị gia tăng cao; trong
đó, đồ nội thất bằng gỗ là mặt hàng xuất khẩu chiếm tỷ trọng cao.
Thứ ba, nguồn nhân lực lao động trẻ và dồi dào.
Một trong những ưu thế lớn nhất của nguồn nhân lực lao động Việt Nam
là có nguồn lực lượng nhân sự lao động dồi dào và cơ cấu nguồn nhân lực lao
động trẻ. Cơ cấu dân số trẻ được coi là “cơ cấu vàng” trong lao động. Theo cập
nhật mới nhất từ Liên Hợp Quốc, dân số hiện tại của Việt Nam là 98.420.467
dân, đứng thứ 15 và chiếm 1,25% dân số thế giới. Trong đó, lực lượng lao động


18

từ 15 tuổi trở lên trong năm 2021 là 51,1 triệu người, tăng 44,7 nghìn người so
với cùng kỳ 2020. Trong năm 2021, lao động Việt Nam tiếp tục tăng trưởng.
Hiện nay Việt Nam đang dần chuyển dịch từ sử dụng nhóm lao động đơn giản
sang nhóm có trình độ cao. Đây là sự chuyển dịch tích cực và tất yếu theo xu thế
phát triển kinh tế.
Cụ thể, trong ngành sản xuất gỗ, theo báo cáo của Tổng Cục Lâm nghiệp
(Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), hiện cả nước có khoảng 5.539 doanh
nghiệp, trong đó có 2.372 doanh nghiệp trực tiếp xuất khẩu, 662 doanh nghiệp
FDI và 340 làng nghề chế biến gỗ, với hơn 420.000 lao động thường xuyên tại
các nhà máy chế biến gỗ và lâm sản và hàng triệu lao động gián tiếp có liên quan
16
. Với ưu thế này nếu được khai thác triệt để sẽ là yếu tố quan trọng cho phát

triển ngành sản xuất gỗ cho nước ta hiện nay trong xuất khẩu các mặt hàng gỗ
sang Mỹ.
2.2. Thách thức xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ của Việt Nam
sang thị trường Mỹ.
Ngành xuất khẩu gỗ sang Mỹ được đánh giá là ngành có tốc độ phát triển
bền vững, tuy nhiên ngành cũng gặp khơng ít khó khăn khi đây là sản phẩm bị
nhiều nước điều tra thương mại và nhất là trong tình hình dịch bệnh COVID-19
diễn biến phức tạp trên toàn thế giới hiện nay.
2.2.1. Thách thức từ những nhân tố khách quan
Thứ nhất, nguy cơ về điều tra nguồn gốc, xuất xứ nguyên liệu
Trong những năm gần đây, nhiều mặt hàng gỗ xuất khẩu Việt Nam phải
đối mặt với nhiều vụ khởi xướng điều tra liên quan đến phòng vệ thương mại
bao gồm bán phá giá và lẩn tránh xuất xứ. Cụ thể mặt hàng gỗ dán của Việt Nam
đang bị chính phủ Mỹ điều tra, một số mặt hàng khác như tủ bếp, ghế sofa cũng
có tín hiệu rủi ro. Tháng 10 năm 2019, Cơ quan Hải quan và Bảo vệ biên giới
Mỹ thơng báo chính thức điều tra trốn thuế phòng vệ thương mại đối với một số
công ty Mỹ nhập khẩu gỗ dán từ Việt Nam. Tháng 6 năm 2020, Bộ Thương mại
Mỹ đã khởi xướng điều tra lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại đối với toàn bộ
sản phẩm gỗ dán nhập khẩu từ Việt Nam.
16

Tổng Cục Lâm nghiệp, truy cập từ />

19

Chính phủ và người tiêu dùng Mỹ địi hỏi khắt khe về nguồn gốc gỗ hợp
pháp nhằm đảm bảo thực thi các chính sách về mơi trường và chống gian lận
thương mại. Bởi vì Việt Nam mới chỉ tự chủ được 60 – 70% nguồn nguyên liệu
gỗ đầu vào. Khối lượng gỗ nguyên liệu không đủ để chế biến phục vụ tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu, vậy nên hàng năm nước ta phải nhập một lượng gỗ

nguyên liệu rất lớn từ nước ngoài chủ yếu là từ Trung Quốc, Lào, Campuchia...
Đây là cơ sở cho Mỹ nghi ngờ về nguồn gốc gỗ của Việt Nam nhất là khi cạnh
tranh thương mại Mỹ - Trung xảy ra gay gắt.
Các công ty đầu tư trực tiếp nước ngồi cũng có nguy cơ gây rủi ro về
nguồn gốc, xuất xứ gỗ. FDI hiện là bộ phận quan trọng và không thể tách rời của
ngành gỗ. Theo tổng cục thống kê năm 2021, cho thấy xuất khẩu của các doanh
nghiệp gỗ khối FDI thể hiện sự vượt trội cả trong số lượng doanh nghiệp và kim
ngạch xuất khẩu so với khối các doanh nghiệp gỗ nội địa. Tuy nhiên một số hoạt
động đầu tư FDI ẩn chứa rủi ro lớn đặc biệt là tình trạng đầu tư "chui,” đầu tư
“núp bóng”. Điều này đã và đang làm tổn hại tới toàn ngành.
Các doanh nghiệp đầu tư chui ở Việt Nam diễn ra bằng nhiều hình thức.
Đó là doanh nghiệp núp bóng dưới hình thức nhập khẩu mặt hàng bộ phận các
sản phẩm này sau đó gia cơng, lắp ráp thành sản phẩm hồn chỉnh, hoặc mua bán
lịng vịng qua các cơng ty khác nhau, các bộ phận mặt hàng này sẽ tập hợp lại
một công ty và công ty lắp ráp, lấy danh nghĩa sản phẩm của Việt Nam để xuất
khẩu sang Mỹ nhằm trốn thuế. Một dạng đầu tư núp bóng khác đó là các cơng ty
nước ngồi vào đầu tư sản xuất tại Việt Nam nhưng không thuê nhà xưởng, nhân
viên... Họ để người Việt đứng tên công ty của người Việt, hoạt động sản xuất của
công ty Việt và kho tàng, bến bãi của Việt Nam.
Thứ hai, rủi ro từ cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung.
Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung mang đến cho ngành xuất khẩu gỗ
của Việt Nam sang thị trường Mỹ cả những lợi thế và những bất lợi. Lợi thế là
Việt Nam có thể đón nhận được nhiều hơn sự hợp tác của các doanh nghiệp Mỹ
còn bất lợi là đối mặt những nguy cơ về gian lận thương mại, lẩn tránh thuế của
các công ty Trung Quốc, do họ dùng Việt Nam là nơi trung chuyển để né thuế
xuất khẩu sang Mỹ.
Mặt hàng gỗ của Việt Nam có sự tăng trưởng mạnh khi cuộc chiến
thương mại giữa hai cường quốc Mỹ - Trung đang xảy ra. Nhưng mặt hàng gỗ
của Việt Nam lại chịu nhiều sức ép khi xuất khẩu sang Mỹ. Đặc biệt kể từ tháng
2 năm 2020 khi Mỹ áp dụng thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với



20

một số sản phẩm gỗ của Trung Quốc. Việc kiểm soát này khiến một số doanh
nghiệp Trung Quốc chuyển hướng đầu tư hoặc tìm các biện pháp để lẩn tránh
mức thuế trên. Do đó Việt Nam có thể được chọn là một trong những điểm đến
cực kì hấp dẫn.
Rủi ro xảy ra khi các mặt hàng của Trung Quốc được nhập khẩu vào Việt
Nam lấy nhãn mác, xuất sứ sau đó được xuất khẩu vào Mỹ. Theo Hiệp hội gỗ và
Lâm sản Việt Nam, các doanh nghiệp hội viên phản ánh, thời gian từ đầu năm
2019 có một số doanh nghiệp đã nhập khẩu bộ phận chi tiết của các sản phẩm tủ
bếp, tủ nhà tắm là những mặt hàng rủi ro cao từ Trung Quốc về Việt Nam sau đó
hồn thành cơng đoạn hồn thiện rồi lấy nhãn mác “made in Viet Nam” xuất
khẩu sang Mỹ nhằm mục đích trốn thuế. Mỹ đã nghi ngờ những hành vi gian lận
này và yêu cầu điều tra ngành gỗ Việt Nam theo Điều 301 dựa trên cáo buộc này
17
. Nếu không chứng minh được nguồn gốc gỗ dán xuất khẩu vào Mỹ, gỗ dán
Việt Nam có thể phải đối mặt với mức thuế chống lẩn tránh tương đương với
mức thuế mà Mỹ đang áp lên gỗ dán của Trung Quốc là hơn 200% và kéo theo
rủi ro tương tự cho các sản phẩm được làm từ gỗ dán như tủ bếp, ván sàn, nội
thất. Điều này không chỉ gây thiệt hại cho việc xuất khẩu gỗ sang thị trường Mỹ
mà nó đã và đang gây tổn hại vô cùng lớn đến hình ảnh và vị thế của ngành trên
thế giới.
Thứ ba, thách thức từ đại dịch COVID-19
Mặc dù, ngành gỗ là một trong số ít những ngành phát triển tốt trong đại
dịch COVID-19, nhưng xuất khẩu gỗ cũng chịu khơng ít những khó khăn do
dịch bệnh.
Ở làn sóng dịch COVID-19 thứ nhất, 6 tháng đầu năm 2020, các sản
phẩm chủ yếu của các ngành lâm nghiệp chững lại, đặc biệt là sản xuất gỗ khai

thác do chuỗi tiêu thụ sản phẩm chế biến gỗ như gỗ bóc, bột giấy và dăm gỗ của
các doanh nghiệp, nhà máy bị gián đoạn. Thời điểm này ở Mỹ, dịch bệnh
COVID-19 đang diễn biến rất phức tạp đã ảnh hưởng đến khả năng nhận hàng,
phân phối và tiêu dùng đồ gỗ tại nước này. Bên cạnh đó, khó khăn về logistics,
cước phí container và tàu biển vận chuyển tăng cao đã khiến giá gỗ nguyên liệu
nhập khẩu từ nước ngoài tăng và việc vận chuyển hàng hóa sang Mỹ cũng gặp
rất nhiều khó khăn.
mục 301 của Đạo luật Thương mại năm 1974 của Hoa Kỳ:
/>asp
17


21

Khoảng thời gian 6 tháng cuối năm 2021 trong bối cảnh Mỹ đang bắt
đầu quá trình phục hồi sau dịch COVID-19, doanh nghiệp ngành gỗ khá bận rộn
do đơn hàng xuất khẩu đã được ký kết. Tuy nhiên, do ảnh hưởng bởi tình hình
dịch bệnh COVID-19 đang diễn biến phức tạp và việc phải dãn cách xã hội để
kiểm soát tình hình dịch COVID-19, các doanh nghiệp ngành gỗ phải đối mặt
với tình trạng ngưng trệ sản xuất, ảnh hưởng tới tiến độ giao hàng. Theo báo cáo
của VIFOREST, trong số 265 doanh nghiệp chế biến gỗ tại vùng trọng điểm phía
Nam (gồm TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương, Tây Ninh), hiện chỉ có 141 doanh
nghiệp duy trì hoạt động với số lượng công nhân đang làm việc khoảng 30.700
công nhân trong tổng số 119.300 lao động trước khi thực hiện giãn cách xã hội,
tức là 3/4 số lượng công nhân trong các doanh nghiệp này đã phải nghỉ việc. Khó
khăn chồng chất khó khăn, nếu các doanh nghiệp gỗ muốn tiếp tục duy trì sản
xuất thì họ phải chi trả lượng lớn tiền cho việc đảm bảo an toàn cho nhân cơng
khi phải bỏ chi phí test nhanh, test PCR thường xun hay chi phí ăn ở cho nhân
cơng khi thực hiện “3 tại chỗ”.
2.2.2 Thách thức từ những nhân tố chủ quan.

Thứ nhất, bên cạnh những thách thức do những nguyên nhân khách
quan, Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn chủ quan. Đó là việc
các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gỗ phân bố không đều trên cả nước mà
chỉ tập trung vào một số tỉnh vùng Nam Trung bộ và Đông Nam bộ với số lượng
doanh nghiệp chiếm trên 80% tổng số doanh nghiệp chế biến gỗ, xuất khẩu trên
cả nước. Trong khi vùng nguyên liệu lại chủ yếu ở khu vực miền núi phía Bắc và
dun hải miền Trung, điều đó đã làm tăng chi phí vận chuyển và làm tăng giá
thành sản phẩm, giảm sức cạnh tranh.
Thứ hai, nguồn lao động cũng là một trong những điểm khó khăn của
ngành cơng nghiệp chế biến và xuất khẩu gỗ, lâm sản khi lao động lành nghề, có
trình độ mới chỉ chiếm tỷ lệ hơn 40%, cịn lại là lao động phổ thơng, trình độ
chun mơn thấp. Thực tế nguồn nhân lực, lao động chuyên ngành chế biến gỗ
từ các trường đại học, cao đẳng, trung cấp nghề thiếu cả về số lượng lẫn chất
lượng, chưa đủ đáp ứng được yêu cầu của sản xuất.


22

Thứ ba, trình độ cơng nghệ chế biến gỗ của Việt Nam nhìn chung ở mức
độ trung bình của thế giới, chưa đáp ứng được với tiềm năng xuất khẩu. Thực tế,
hiện có rất nhiều doanh nghiệp gỗ khơng đủ năng lực tài chính nhập thiết bị, dây
chuyền sản xuất hiện đại và đào tạo nhân lực có chất lượng để cạnh tranh trong
xu thế hội nhập tồn cầu hóa. Theo chi cục nơng nghiệp, ngành gỗ có cơng suất
chế biến ở mức cao cũng chỉ đạt từ 65 - 78%. Số cơ sở chế biến nơng lâm sản có
quy mơ vừa và nhỏ, hộ gia đình chiếm 95% tổng số cơ sở. Một số cơ sở chế biến
tại một số ngành hàng có tuổi đời trên 15 năm, thiết bị cũ, công nghiệp lạc hậu,
tốn nhiều nguyên liệu, năng lượng, năng suất thấp. Nếu không đầu tư, sớm muộn
những doanh nghiệp cũng rơi vào tình trạng thua lỗ thậm chí là phá sản.

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP VÀ TRIỂN VỌNG XUẤT KHẨU

GỖ VÀ SẢN PHẨM GỖ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG
MỸ
3.1 Giải pháp xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị
trường Mỹ
3.1.1 Giải pháp ngắn hạn sau bùng phát dịch bệnh COVID - 19
Thứ nhất, hiện nay Ngân hàng Nhà nước đã ban hành thông tư 0118 về
giảm lãi suất. Vì vậy, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước nên có biện pháp tháo
gỡ vướng mắc thủ tục và tài liệu chứng minh thiệt hại, giảm thu nhập của các
doanh nghiệp do chịu tác động tiêu cực của dịch bệnh COVID - 19 với các ngân
hàng thương mại theo quy định của Thông tư 01 để giảm lãi suất, cơ cấu lại thời
gian trả nợ đối với các khoản vay từ ngân hàng.
Thứ hai, Chính phủ, Bộ tài chính có thể xem xét miễn thuế xuất khẩu
25% đối với các mặt hàng gỗ xẻ phơi có nguồn gốc từ gỗ nguyên liệu nhập khẩu
từ các nước quản trị rừng tốt. Việc miễn thuế sẽ giúp doanh nghiệp tham gia vào
chuỗi liên kết sản xuất toàn cầu, tạo việc làm cho người lao động, góp phần giải
phóng lượng gỗ nguyên liệu tồn kho rất lớn hiện nay, đồng thời bổ sung kim
18

Thông tư 01/2020/TT-NHNN: quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngồi cơ cấu
lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch
Covid - 19.


23

ngạch xuất khẩu khi các nhóm sản phẩm khác gặp khó khăn. Ngồi ra, việc xuất
khẩu sản phẩm này khơng ảnh hưởng đến nguồn cung nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến gỗ của nước ta.
Thứ ba, thực hiện gói hỗ trợ 50% lương tối thiểu cho những người lao
động tạm mất việc làm do dịch bệnh và cho vay không lãi để doanh nghiệp chi

trả 50% còn lại nhằm hỗ trợ, bảo tồn lực lượng sản xuất của ngành công nghiệp
chế biến gỗ.
Thứ tư, chủ động xây dựng phương án thích nghi với điều kiện mới như
chuẩn bị nguồn cung nguyên liệu, kêu gọi cho người lao động trở lại làm việc và
thông báo với đối tác kế hoạch sản xuất, cung ứng sản phẩm để đảm bảo nguồn
cung ứng đầy đủ cho thị trường gỗ.
3.1.2 Giải pháp dài hạn
Nâng cao năng lực phòng vệ thương mại ngành gỗ.
Với Mỹ là một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam,
kiểm soát hiệu quả vấn đề gian lận thương mại có vai trị sống cịn đối với các
ngành hàng xuất khẩu. Nhận biết được tầm quan trọng này, trong thời gian vừa
qua, Chính phủ Việt Nam đã và nỗ lực đưa ra các cơ chế, chính sách nhằm kiểm
sốt rủi ro về gian lận thương mại.
Ngày 4/7/2019, Chính phủ phê duyệt đề án về tăng cường quản lý nhà
nước về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và gian lận xuất xứ.
Một trong những mục tiêu cơ bản của đề án là “ngăn chặn các hành vi lẩn tránh
biện pháp phòng vệ thương mại, đặc biệt là gian lận xuất xứ hàng hóa”. Bên
cạnh đó, thời gian vừa qua các cơ quan quản lý nhà nước cũng tăng cường các
biện pháp kiểm tra giám sát đối với các nhóm hàng hóa xuất nhập khẩu có tín
hiệu rủi ro về gian lận. Mặc dù các cơ chế, chính sách và các biện pháp thực thi
này trực tiếp góp phần giảm rủi ro trong gian lận, các hình thức này cần liên tục
được duy trì và đẩy mạnh nhằm đạt được hiệu quả trong kiểm soát rủi ro.
Ngày 1/9/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 102/2020/NÐ-CP
quy định hệ thống đảm bảo gỗ hợp pháp thiết lập các cơ chế kiểm soát gỗ nhập
khẩu. Nghị định quy định gỗ nhập khẩu được quản lý rủi ro theo các tiêu chí xác
định quốc gia thuộc vùng địa lý tích cực hoặc khơng tích cực, loại gỗ thuộc loại
rủi ro hoặc không thuộc loại rủi ro. Ðể triển khai Nghị định, ngày 27/11/2020,
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Quyết định số
8432/QÐ-BNN-TCLN công bố Danh sách vùng địa lý tích cực và Danh mục các



24

loại gỗ nhập khẩu vào Việt Nam. Ðây là các hướng dẫn pháp lý quan trọng nhằm
hướng dẫn để tránh rủi ro cho các doanh nghiệp gỗ trong hoạt động xuất, nhập
khẩu.
Chính sách khuyến khích đầu tư phát triển Ngành.
Khuyến khích đầu tư phát triển các vùng nguyên liệu, gắn với chế biến
trung gian, tiêu thụ, vận động các hộ nông dân liên kết thành hợp tác xã hoặc
công ty cổ phần lâm nghiệp để dễ thay đổi phương thức canh tác công nghiệp,
chứng nhận gỗ hợp pháp, nâng cao hiệu quả. Đầu tư phát triển các khu công
nghiệp chế biến gỗ tập trung với công nghệ cao để tạo điều kiện hợp tác sản
xuất, nâng cao hiệu quả trên các lĩnh vực sản xuất, thiết kế, thương mại và xây
dựng thương hiệu. Thúc đẩy hình thành cụm liên kết (cluster) ngành công nghiệp
chế biến lâm sản gắn với quy hoạch, phát triển vùng nguyên liệu tập trung trong
ngành lâm nghiệp như một ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù.
Chính sách đào tạo nguồn nhân lực.
Lập và thực hiện chương trình quốc gia về phát triển nguồn nhân lực cho
ngành chế biến lâm sản. Chú trọng sự kết hợp đồng bộ và hài hịa giữa các nhóm
nhân lực thuộc các loại hình đào tạo: đại học - trung cấp - công nhân kỹ thuật
phù hợp với sự đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Đồng thời, khuyến khích
sử dụng lực lượng giảng dạy là những người ưu tú từ thực tế sản xuất kinh doanh
và quản trị doanh nghiệp để công tác đào tạo gắn liền kiến thức với thực hành và
kỹ năng thực tế.
Chính sách về thương mại.
Cần tăng cường các biện pháp thúc đẩy xây dựng và quảng bá thương
hiệu đồ gỗ Việt Nam, đồng thời tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại
tại chỗ thông qua các hội chợ chuyên ngành như VIFA Home, VIFA EXPO...
3.2. Triển vọng xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị
trường Mỹ

Ngày 1/10/2021, Bộ Trưởng Bộ Nông nghiệp Lê Minh Hoan đã thay mặt
Chính phủ Việt Nam ký thỏa thuận với Trưởng đại diện thương mại (USTR) của
chính phủ Mỹ Katherine Tai về kiểm soát khai thác và thương mại gỗ bất hợp
pháp. Theo Bộ Nông nghiệp, thỏa thuận này là kết quả của nỗ lực không ngừng
nghỉ của Việt Nam trong đàm phán với Mỹ để khép lại vụ Điều tra 301 của chính
phủ Mỹ về khai thác và thương mại gỗ của Việt Nam.


25

Việc ký thỏa thuận thể hiện tinh thần thiện chí và hợp tác của hai bên,
đồng thời là cơ sở để Mỹ khép lại vụ điều tra theo hướng không gây bất lợi cho
việc xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam vào thị trường này, góp phần
nâng cao uy tín của ngành gỗ Việt, làm nền tảng cho phát triển lâm nghiệp bền
vững. Ngoài ra, thỏa thuận thể hiện cam kết của Việt Nam nhằm tăng cường
kiểm soát nguồn gốc và chuỗi cung ứng gỗ, mở rộng thị trường xuất khẩu, cải
thiện thể chế quản lý rừng, giải quyết tình trạng khai thác và thương mại gỗ trái
phép. Việc ký thỏa thuận sẽ thúc đẩy thương mại gỗ và sản phẩm gỗ của Việt
Nam tới thị trường Mỹ.
Về phía Mỹ, họ đánh giá cao thỏa thuận này vì đây là thỏa thuận thương
mại đầu tiên của Mỹ nhằm thúc đẩy mơi trường bền vững, và là hình mẫu cho
Mỹ hợp tác với các nước trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và
tồn cầu.
Qua đây, ta có thể nhận thấy rằng triển vọng xuất khẩu gỗ và sản phẩm
gỗ của Việt Nam sang thị trường Mỹ trong những năm tới là tương đối khả quan,
đồng thời sẽ thúc đẩy phát triển trồng rừng nguyên liệu trong nước, tăng tính
cạnh tranh cho doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam và tạo thêm nhiều việc làm
cho nền kinh tế



×