Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

PHÂN TÍCH BÀI TÂY TIẾN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (531.54 KB, 19 trang )

PHÂN TÍCH BÀI TÂY TIẾN
(Quang Dũng)
I.Tìm hiểu chung
1. Tên gọi Tây Tiến
- Tây Tiến là tên đơn vị bộ đội – binh đoàn được thành lập từ những ngày đầu
cuộc kháng chiến chống Pháp – đầu năm 1947.
- Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến là vùng rừng núi rộng lớn, hiểm
trở từ miền Tây Bắc của Tổ quốc kéo dài đến tận vùng biên giới Thượng Lào xa
xơi.
- Nhiệm vụ của đồn qn Tây Tiến là vũ trang tuyên tuyền, vừa đánh tiêu hao
lực lượng địch, vừa tuyên truyền, vận động nhân dân kháng chiến.
- Thành phần xuất thân của lính Tây Tiến: Chiến sĩ Tây Tiến phần đơng là
những thanh niên trí thức Hà Nội vừa mới rời sách vở học đường “xếp bút nghiêng
theo nghiệp binh đao”. Họ lên đường theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, một
phần cũng vì bị hấp dẫn bởi hình tương những trang tráng sĩ lung linh trang sách
vở học đường, nên cảm nhận về cuộc kháng chiến vẫn còn “thơm mùi sách vở”.
Quang Dũng là Đại đội trưởng của binh đoàn Tây Tiến nên cảm hứng của bài thơ
là cảm hướng của người trong cuộc – hào hoa, lãng mạn, lịch thiệp.
2. Hoàn cảnh ra đời
- Năm 1947, binh đoàn Tây Tiến được thành lập. Một năm sau đó đơn vị
chuyển địa bàn hoạt động. Quang Dũng được điều về Phịng chính trị Liên khu III.
- Một thời Tây Tiến đã trở thành quá vãng, ngồi ở Phù Lưu Chanh (tỉnh Hà
Đông cũ) bồi hồi nhớ lại, Quang Dũng viết Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, Quang Dũng
lượt bớt chữ “nhớ”, chỉ còn lại Tây Tiến. So sánh hai nhan đề, ta thấy:
+ Nhan đề Tây Tiến kín đáo hơn, khơi gợi hơn (bởi lẽ trong thơ ý kị nơng,
mạch kị lộ”).
+ Trong bài thơ, có bốn lần chữ “nhớ” được lặp lại (Nhớ về rừng núi nhớ chơi
vơi, Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói, Có nhó dáng người trên độc mộc) nên sẽ không
cần thiết khi đặt tên bài thơ là Nhớ Tây Tiến.



+ Xúc cảm thể hiện trong bài thơ không chỉ có nỗi “nhớ” mà cịn là sự gắn bó,
tình u thương, niềm tự hào… của nhà thơ đối với thiên nhiên Tây Bắc và con
người Tây Tiến. Tên gọi Nhớ Tây Tiến sẽ khiến ý nghĩa, nội dung của bài thơ bị bó
hẹp.
+ Sự gắn bó máu thịt đối với Tây Tiến đã khiến Quang Dũng chưa bao giờ
thấy xa mảnh đất ấy, Tây Tiến ln sống trong lịng nhà thơ (Ai lên Tây Tiến mùa
xuân ấy/ Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi) nên không thể gọi là “nhớ” Tây Tiến.
+ Tên gọi “Tây Tiến” có tầm khái quát hơn, chứa đựng nhiều ý nghĩa hơn: là
tên một địa danh, tên một binh đoàn, tên chung của cả một thế hệ thanh niên hăng
hái lên đường trong những ngày đầu khó khăn, gian khổ của cuộc kháng chiến
chống Pháp.
+ Quang Dũng nói rằng bài thơ Nhớ Tây Tiến là thừa chữ "nhớ" bởi vì nhắc tới
Tây Tiến là ơng đã thấy nhớ, thấy thương rồi.
3. Cảm xúc chủ đạo của bài thơ
Là nỗi nhớ mênh mông, da diết về những kỉ niệm vui buồn trên suốt những
nẻo đường hành quân đầy gian nan vất vả nhưng cũng rất hào hùng và lãng mạn.
Qua đó tác giả đã làm sống dậy khí thế của một thời “Quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh”.
II. Phân tích bài thơ
1. Nỗi nhớ về những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và
khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội.
a. 2 câu đầu – Tiền đề xúc cảm của bài thơ
- Âm điệu: Vần ơi có độ mở lớn, kết hợp với 2 thanh bằng khiến nỗi nhớ bị
kéo dài đến vô hạn. Trạng thái lơ lửng, bồng bệềnh cộng hưởng với niềm xúc cảm
nồng nàn đánh lên hồi chuông thương nhớ. Tác giả gọi về đơn vị cũ mà thiết tha,
trìu mến như gọi bạn tình.
- Nhịp điệu: Nhịp điệu 4/3 khiến câu thơ dàn trải mênh mông, khoan thai,
chậm rãi, khoảng cách về câu chữ đã tạo nên khoảng cách về không gian và thời
gian giữa Quang Dũng với Tây Tiến, ở hiện tại với quá khứ. Khoảng cách đó được
đo bằng nỗi nhớ dịu vơi, mênh mơng.



- Địa danh và địa bàn: 2 câu thơ chỉ cần thông qua địa danh “Sông Mã” và địa
bàn “rừng núi” Quang Dũng đã khái quát trọn vẹn không gian Tây Tiến và không
gian nghệ thuật của cả bài thơ.
- Từ ngữ: nhớ: lặp lại 2 lần. Nhớ về rừng núi là đối tượng của nỗi nhớ, nhớ
chơi vơi là trạng thái, tính chất của nỗi nhớ. Ca dao có câu: “Ra về nhớ bạn chơi
vơi”, Xuân Diệu cũng có câu: “Sương nương theo trăng ngừng lưng trời/ Tương tư
nâng lịng lên chơi vơi”. Có thể hình dung nhớ chơi vơi là nỗi nhớ lơ lửng, vơ
lượng, vơ hình, là trạng thái chống chếnh, hụt hẫng, chập chờn, đứt quãng nhưng
khó ngi ngoai khi Tây Tiến đã thành q vãng, đồng đội đã xa. Câu thơ nêu lên
cảm xúc chủ đạo của bài thơ.
- Vai trị: 2 câu đầu có ý nghĩa như lối vào đề, là cánh cửa nghệ thuật mở ra
tồn bộ thế giới hình ảnh khách thể và tâm trạng chủ thể.
b. Vẻ đẹp của thiên nhiên miền Tây
* Ấn tượng về một không gian xa lạ, bí hiểm
- Khơng gian vận động: Đoạn thơ ghi lại những kỉ niệm đầu tiên của cuộc
hành trình Tây Tiến. Không gian nghệ thuật của cả đoạn là Tây Bắc (kéo dài từ
vùng núi phía Tây Thanh Hóa cho đến Lai Châu – Sơn La) nhưng nó khơng định
vị ở một địa điểm cố định mà trái lại nó là không gian vận động dọc theo con
đường của cuộc hành quân. Từng bước đi người lính lại đối diện với những vùng
đất mới.
- Những địa danh này vốn có ý nghĩa địa lí xác định nhưng khi đi vào bài thơ
chúng không nhằm chỉ nơi chốn, sự kiện hoạt động xảy ra, mà nhằm thực hiện hai
chức năng quan trọng: tạo ra những cái tên lạ tai rất rừng rú, xa xơi, bí mật và bao
chụp khơng gian Tây Tiến rộng lớn, thăm thẳm, bí mật cái bí mật của đại ngàn.
- Âm hưởng lạ lùng của đoạn thơ trước hết bắt nguồn từ sự hoang vắng xa xôi
của

những


tên

đất

lạ.

Sài

Khao,

Mường

Hịch,

Mường

Lát, Mai Châu, Pha Luông. Những cái tên không chỉ gợi sự hoang sơ, bí hiểm mà
cịn thể hiện tình cảm của Quang Dũng với đất với người miền Tây. Sau bao nhiêu
ân tình với đất với người Tây Tiến, những địa danh kia khơng cịn là những dịng


tên vô nghĩa thuần túy mà đã trở thành những vùng ân tình, những vùng kỉ niệm, là
nơi đi về của nối nhớ chơi vơi kia.
* Câu 3,4 - Ấn tượng về khơng gian đẫm sương
- Hình ảnh “sương lấp – đồn qn mỏi” đã tơ đậm hiện thực trĩu nặng, sự
thực gian nan của đoàn quân Tây Tiến. Những chàng trai Hà Thành chỉ quen với
phố phường lần đầu tiên đến với Tây Tiến nhưng lạc vào thế giới nguyên sơ nào.
Ấn tượng điệp trùng ấn tượng khiến họ không khỏi ngỡ ngàng. Không gian đất trời
mờ mịt sương như trì níu bước chân họ, khiến cho hành trình trở nên nặng nhọc.

- Câu thơ sau “hoa về trong đêm hơi” làm giảm bớt độ căng của gian khổ, tỏa
ra chất thơ mơ màng, khiến cảnh thực mà có chút thi vị. Sương núi vốn là nét riêng
của không gian Tây Bắc. Màn sương đậm đặc được diễn đạt bằng hình ảnh giàu
khả năng gợi tả: “đêm hơi”. Cảnh vật xa vắng nhưng vẫn không thiếu cái đẹp,
không thiếu chất thơ, rất hoang sơ mà tươi tắn.
- Hình ảnh đoàn quân mỏi im phăng phắc đi trong sương lấp nhạt nhịa, rồi
hình ảnh những lồi hoa rừng khơng tên cũng lại nhạt nhòa, trong đêm hơi sương
mờ bảng lảng (…) được phủ một lớp hồi ức bảng lảng làm cho các đường nét nhòe
mờ, chưa nhiều rung cảm.
Hoa về:

- Hoa rừng, chợt thấy trong ánh đuốc
- Người chiến sĩ Tây Tiến
- Ánh đuốc

- Nhà phê bình Văn Giá cho rằng: “Tây Tiến cũng kể, tả. Nhưng Quang Dũng
đã đưa tất cả nội dung kể, tả vào một trạng thái hồi nhớ chơi vơi theo kiểu ấn
tượng chủ nghĩa, thành ra các câu thơ thoát ra khỏi miêu tả thực liệt kê thật thà để
bay vào chân trời tâm tưởng đạt tới độ mờ sâu của nó”.
* Câu 5-8: Ấn tượng về địa hình hiểm trở
- Nghệ thuật sử dụng từ ngữ giàu giá trị tạo hình: Hình ảnh điệp trùng, dốc lên
khúc khuỷu, dốc thăm thẳm được thể hiện bằng hàng loạt từ ngữ có tính tượng hình
và đều là thanh trắc: khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, súng ngửi trời. Câu thơ như
vẽ ra trước mắt người đọc những đỉnh dốc chờn vờn trong mây trời, vừa gãy khúc
gập gềnh, vừa hướng về tâm cao với độ cao ngất trời, vừa hun hút độ sâu tạo nên


cảm giác rợn người, khiến người đọc có cảm giác như đang tham gia vào trò chơi
cảm giác mạnh. Cụm từ “súng ngửi trời” vừa diễn tả chính xác độ cao của núi,
người lính đi trên những ngọn núi cao dường như đang đi trong mây, mũi súng

chạm trời, vừa thể hiện tầm kích lồng lộng của người lính, vừa là cách nói lính
tráng trẻ trung, tinh nghịch: ta tưởng chừng như sau cách nói là tràng cười giải tỏa
bao nỗi nhọc nhằn trên đường hành quân.
- Nhịp điệu: Hai câu thơ 5-6 với sự tác động của những thanh trắc đã làm cho
nhịp điệu câu thơ trở nên trúc trắc, vần điệu đối lập, diễn tả chính xác cảm giá khó
khăn, nhọc nhằn của người lính Tây Tiến khi phải đối mặt với những đỉnh dốc
cheo leo, đầy mạo hiểm.
+ Cảm giác về non cao, vực sâu càng rõ rệt hơn trong câu thơ Ngàn thước lên
cao ngàn thước xuống với cách ngắt nhịp bẻ đôi, vần điệu đối lập, ngàn thước lên cao - ngàn thước xuống, phép đối (đối ý lẫn đối thanh) của 2 từ “lên”, “xuống”.
Chữ “cao” nằm giữa lưng câu chia câu thơ thành 2 vế đối xứng là 2 mái núi chon
von. Câu thơ tạo được cảm giác mạnh cho người đọc khi nó diễn tả dốc núi vút lên
đổ xuống gần như thẳng đứng nhìn lên thì cao chót vót nhìn xuống thì sâu thăm
thẳm.
- Nghệ thuật hài thanh - phối thanh bằng trắc
+ 3 câu thơ đầu nhiều vần trắc làm cho nét bút trở nên gân guốc dùng để đặc tả
sự chênh vênh, cheo leo của đèo và dốc. Những câu thơ vì thế mà rắn rỏi, khó chịu
truyền lại cho người đọc nguyên si cảm giác chông chênh, nhọc nhằn của người đi
qua núi cao vực thẳm.
+ Câu cuối của đoạn thơ tồn vần bằng Nhà ai Pha Lng mưa xa khơi như
nét bút mềm mại, tài hoa làm dịu mát cả không gian. Từ trên đỉnh cao mây trời ấy
nhìn xuống thung lũng sâu, cơn mưa rừng giăng mắc, màn mưa nhạt nhòa, mung
lung, bốn bề trời nước như giữa biển khơi. “Nhà ai Pha Luông” như con thuyền
mỏng manh, bồng bềnh. Cảnh vật trải ra theo bề rộng nên cảm giác mông lung như
càng nhân đôi. Câu thơ thể hiện cái nhìn thơ mộng của người lính, cũng là phút
giây người lính tạm quên những gian lao để thảnh thơi hịa mình trong cơn mưa
rừng.


- Tiểu kết:
+ Bốn câu miêu tả địa hình là bằng chứng trong thơ có họa “thi trung hữu họ.

Chỉ với 4 câu thơ, Quang Dũng đã vẽ ra bức tranh hoành tráng diễn tả rất đạt sự
hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng miền Tây.
+ Sau này trang tùy bút Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã gọi Tây Bắc là
cái giường đá vĩ đại. Bản thân địa lí tự nhiên của Tây Bắc đã mang vẻ đẹp kì vĩ
nay lại được cảm nhận bằng tâm hồn người lính trẻ được tái hiện bằng bút pháp
lãng mạn nên càng trở nên sinh động như bức tranh hài hóa những nét vẽ thơ mộc
mà uyển chuyển của hội họa hiện tại.
c. Nỗi nhớ về những cuộc hành quân của binh đoàn Tây Tiến
* Đối mặt cái chết (câu 9,10)
+ Tác động từ thiên nhiên: Thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ và dữ dội đã trở
thành thách thức lớn với từng bước chân của người lính Tây Tiến. Và khơng ít
người đã ngã xuống trên đường hành quân vì những chặng đường hành quân gian
khổ đã vắt kiệt sức lực của họ, thật không giống với những gì mà thế hệ các nhà
thơ trẻ thời chống Mĩ cảm nhận: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm” hay “ Đường
nào vui bằng đường ra trận tuyến”.
+ Cái chết của những người lính Tây Tiến: Cái hay mà câu thơ mang đến cho
người đọc là ở cách nói của Quang Dũng khi diễn tả về sự ra đi của những đồng
đội. Cái chết của họ không mang lại cảm giác nặng nề, ám ảnh bởi vì nó hiện lên
trong tư thế tiếp tục cuộc hành trình. Anh bạn dải dầu không bước nữa/ Gục lên
súng mũ bỏ quên đời. Cách nói giảm nói tránh cùng với giọng điệu lính tráng
ngang tàng khiến người đọc có cảm tưởng rằng đó chỉ là phút dừng chân để người
lính tiếp thêm sức lực trong cuộc trường chinh vạn dặm sắp tới.
* Đối mặt với rừng thiêng nước độc
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
4 bằng

trắc bằng trắc

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Từ ngữ


Từ ngữ


- Từ dạng láy chỉ thời gian: Với người lính Tây Tiến, thiên nhiên hoang dã của
Tây Bắc như một thế lực hiểm ác, từ thác nguồn suối lũ đến rừng hoang thú dữ.
Hai cụm từ biểu thị thời gian “chiều chiều”, “đêm đêm” mang ý nghĩa tấn số hay
sự lặp đi lặp lại tạo ra cảm giác thường xuyên thường trực về cái âm u, bí hiểm của
thiên nhiên miền Tây. Bốn phía núi non rừng thẳm như bủa vây từng bước chân
người lính.
- Nghệ thuật phối thanh: Quang Dũng như cố ý khắc sâu ấn tượng cho người
đọc về thế núi, thế đèo hiểm ác của miền Tây. Câu thơ “chiều chiều oai kinh thác
gầm thét” như biểu tượng ngữ âm, 4 thanh bằng như dòng suối đang chảy mềm
mại bỗng xuất hiện một thanh trắc chắn ngang như dịng sơng bị chặn đứng bởi
vách đá rồi dịng nước đổ ầm xuống tung lên những bọt trắng xóa, đặc tả sự dữ dội,
hùng vĩ của đại ngàn.
- Tên địa danh: Bằng sự tinh tế của mình, nhà thơ Vũ Quần Phương đã nhận ra
rằng: Hai tiếng “Hịch”, “cọp” là hai thanh nặng khiến ta khi đọc câu thơ nghe như
có tiếng chân cọp hậm hịch trong đêm, mà nếu thay bằng một địa danh khác thì
cảm giác ấy sẽ mất hẳn. Thiên nhiên như một thế lực hung hiểm, qi ác ln rình
rập, vờn bắt, bủa vây những người lính trẻ.
* Đón nhận bữa cơm ấm tình qn dân:
Câu 13,14: Hai câu thơ mở ra cảnh tượng thật đầm ấm, cảm giác khác hẳn,
khơng cịn cái rùng rợn ghê người của rừng thiêng nước độc khiến người lính phải
ln đề cao cảnh giác mà là khơng khí ấm áp, vui tươi. Sau chặng đường hành
quân dừng chân vùng làng được hưởng ngọn khói bếp cay nồng, được hịa mình
vào buổi cơm lam thơm thảo của em gái Mai Châu là niềm hạnh phúc khơng gì
sánh bằng của người lính Tây Tiến.
Cách nói “Mai Châu mùa em” khiến câu thơ trở nên sâu nặng ân tình hơn, đằm
thắm hơn mà cũng tình tứ hơn rất phù hợp với tâm lý và tính cách hào hoa, lãng

mạn của chàng trai Hà Nội. Ý thơ của Quang Dũng khiến ta nhớ đến 1 câu thơ
tương tự của Chế Lan Viên:
Đất Tây Bắc tháng ngày khơng có lịch
Bữa xơi đầu cịn tỏa nhớ mùi hương


(Tiếng hát con tàu).
d. Nhận xét về đoạn 1 của bài thơ:
Đoạn thơ với những ấn tượng chồng chất và tiếp nối về một không gian Tây
Bắc hoang sơ và hùng tráng, về những cuộc hành quân khắc nghiệt mà không kém
phần thi vị đã thực sự khẳng định rằng nó được xuất phát từ nỗi nhớ của trong cuộc
và được khắc họa bằng cây bút đầy chất thơ, đầy chất họa.
2. Nỗi nhớ về đêm liên hoan văn nghệ ấm tình quân dân và vẻ đẹp của
chiều sương Châu Mộc:
a. Chuyển ý:
- Thiên nhiên và con người miền Tây hiện ra vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng trữ tình.
Đoạn thơ sau mở ra một thế giới khác về miền Tây. Cảnh núi rừng hoang vu, hiểm
trở lùi dần để bất ngờ hiện ra vẻ thơ mộng, duyên dáng, những nét vẽ bạo, khỏe
được thay bằng những nét mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. Sự tài hoa của ngòi bút
Quang Dũng cũng bộc lộ rõ nét nhất ở đoạn này.
b. Kỉ niệm về đêm liên hoan văn nghệ có đồng bào địa phương tham gia
- Nhiệm vụ của đơn vị Tây Tiến là vũ trang, tun truyền vì thế khơng thể
thiếu những đêm liên hoan văn nghệ ấm áp tình quân dân. Khổ thơ là thế giới của
ánh sáng, âm thanh, vũ điệu, một thế giới vừa hư vừa thực đầy mộng và thơ.
- Khơng khí của đêm liên hoan
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ”
Ánh sáng
Bừng


Âm thanh
Sự hân hoan, phấn chấn
Tâm trạng bị bất ngờ

Cả doanh trại như bừng sáng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu. Trong
ánh sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm thanh réo rắc của tiếng khèn cảnh vật,
con người cũng ngả nghiêng bốc men say. Từ “bừng” vừa diễn tả ngọn lửa bốc
cao, vừa diễn tả âm thanh rạo rực, rộn ràng, vừa thể hiện niềm hân hoan, phần chấn
trong tâm hồn lại vừa diễn ta tâm trạng bị bất ngờ như choàng tỉnh của những


chiến sĩ Tây Tiến khi trên sân khấu xuất hiện hình ảnh rực rỡ của những cơ gái
vùng cao. Câu thơ “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” là lời gởi nhắc về địa điểm
diễn ra đêm liên hoan ở vùng biên giới Việt - Lào.
“Hội đuốc hoa” – cảm hướng lãng mạn: Đống lửa giữa rừng với ánh sáng đỏ
rực và sự rực rỡ của những bó đuốc thay cho ánh đèn sân khấu đã được cảm hướng
lãng mạn nâng lên thành vẻ đẹp lung linh, ấm áp của đêm hội đuốc hoa. Ở đêm hội
đó, hoa lửa, hoa người với những sắc độ, những dáng nét khác nhau đã làm nên
sinh khí làm bừng sáng vùng đất vốn âm u và bí hiểm.
Lời đối thoại
“Kìa em”
Lời trầm trồ đầy ngạc nhiên và thích thú
Tâm trạng say sưa, ngây ngất. Trong ánh sáng đêm liên hoan ấy, mọi dáng
nét của con người cũng mang vẻ đẹp riêng. Câu thơ “Kìa em xiêm áo tự bao giờ”
vừa là lời đối thoại rất duyên, rất riêng, vừa là tiếng reo ngỡ ngãng và vui sướng,
say sưa và kinh ngạc, vừa là lời thán phục trầm trồ trước sắc đẹp lộng lẫy của các
sơn nữ vùng cao.
- Nhân vật chính đêm liên hoan: những cô gái vùng cao
+ Trang phục: xiêm áo – lộng lẫy
+ Vũ điệu: man điệu – hoang dã, đầy mê hoặc

+ Dáng vẻ “e ấp” - e thẹn, tình tứ, quyến rũ
Nhân vật trung tâm cũng là linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái nơi
núi rừng với trang phục lộng lẫy, điệu khèn lạ lùng, dáng vẻ kín đáo, e ấp vừa tình
tứ, vừa quyến rũ, nống nàn trong vũ điệu đầy màu sắc xứ lạ phương xa. Vẻ đẹp ấy
đã thổi vào tâm hồn người lính Tây Tiến những xúc cảm thăng hoa bay bổng, hút
hồn họ và để những chàng trai Tây Tiến tự xây hồn thơ, cùng ngả nghiêng theo
những cung bậc âm thanh, sắc màu.
- Bút pháp lãng mạn đã tạo nên vẻ đẹp quyến rũ của đoạn thơ. Một đêm liên
hoan văn nghệ, một nụ cười tình tứ của em gái vùng cao những khoảnh khắc động
lòng, đầy xúc cảm là những phút giây tuy ngắn ngủi nhưng thật ý nghĩa trong cuộc


đời người lính. Nó tiếp thêm sức mạnh tinh thần, nó trung hịa, cân bằng cuộc sống
để người lính cảm thấy nhẹ nhàng hơn trong bước chân hành quân.
Có một cái gì đó thật lãng mạn và say đắm trong tâm hồn Quang Dũng khi
ơng viết những dịng thơ này. Trong ánh đuốc của đêm liên hoan hình ảnh “người”
e ấp áo xiêm lộng lẫy va tiếng khèn “man điệu” khiến nhà thơ thực sự say sưa và
kinh ngạc, hồn thơ Quang Dũng như được chấp cánh bởi vẻ đẹp của con người và
cảnh vật nơi đây.
c. Vẻ đẹp chiều sương Châu Mộc
Nếu câu 15-18 tràn nhập ánh sáng, âm thanh và vũ điệu thì bốn câu thơ tiếp
theo lại giàu chất thơ và chất hoạ.
- Dấu ấn hoài niệm: Một thời gian gắn bó với Tây Tiến và mảnh đất miền Tây,
cảm và yêu cái nét đẹp độc đáo của vùng đất này, Quang Dũng muốn khắc tạc bức
tranh mĩ lệ và trữ tình của Tây Bắc vào tâm hồn những người lính Tây Tiến. Đại từ
chỉ định “ấy” kết hợp với những từ có ý nghĩa nhắc nhở “có thấy”, “có nhớ” rất
nhịp nhàng và phù hợp với tâm trạng hồi niệm. Điều đó cũng có nghĩa là Quang
Dũng không những muốn Tây Bắc xây hồn thơ trong lịng mình mà cịn xây hồn
thơ trong lịng những đồng đội đã xa.
- Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên và con người Tây Bắc

+ “Chiều sương”: sương chiều là đặc điểm nổi bật của thiên nhiên miền Tây
Bắc. Khổ thơ về chiều sương Tây Bắc vẫn được đánh giá là nơi hội tụ những gì
nhạy cảm nhất của hồn thơ QD. Khổ thơ là sự thể hiện khung cảnh Tây Bắc trữ
tình và thơ mộng. Hình ảnh sương mờ Tây Bắc lại xuất hiện như một đặc điểm nổi
bật của thiên nhiên ở vùng đất này nhưng không phải là “đêm hơi” mà là “sương
chiều” giữa vùng núi rừng xa thẳm. Có thể trong sự “chiều sương ấy” người lính
Tây Tiến ít nhiều vẫn hiện hữu tâm trạng người lữ thứ trong văn chương cổ điển.
Người đã tàn, bóng tâm trạng người lữ thứ trong văn chương cổ điển. Ngày đã tàn,
bóng núi mịt mờ khuất nẻo thử hỏi mấy ai không quay quắt trước chiều sương kia?
+ “Hồn lau nẻo bến bờ”
dáng người trên độc mộc

gợi tả

Phảng phất buồn vương vất
Dáng người nghệ sĩ tài hoa


Là hình ảnh điểm xuyết cho bức tranh thêm sinh động. Thấp thoáng mờ ảo
trong chiều sương Châu Mộc là chiếc thuyền độc mộc với dáng người mềm mại in
trên nền “dịng nước lũ hoa đung đưa”, những bơng lau ven bờ bỗng trở nên có hồn
và gợi nhớ da diết. Trong niềm tâm trạng ấy, một nẻo bến bờ nào đó cũng trở thành
điểm đến và những ngàn lau bạt ngàn kia cũng là niềm đồng điệu. Nhà thơ chỉ gợi
chứ không tả, điều ấy đã tạo nên không gian liên tưởng rộng rãi. Cái thần thái của
hồn lau vương vất giữa trời chiều làm cho bức tranh phản phất nét buồn thật cổ
điển, trầm mặc. Hình ảnh con người điều khiển con thuyền độc mộc có chức năng
điểm xuyết cho bức tranh thêm phần sinh động. Cái dáng ngồi nghệ sĩ, tài hoa làm
cho hình ảnh trở nên gợi cảm hơn, uyển chuyển hơn như một vũ điệu, vũ điệu lao
động trong vũ khúc chung của rừng già, tô điểm cho con người hoa suối cũng làm
bằng cái đong đưa rất tình tứ: “Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa”

Đoạn thơ là bức tranh lụa, bức tranh thủy mặc với những nét vẽ tài hoa, tinh
tế, mềm mại. Sắc màu và đường nét tối giản, không rườm rà, một bức tranh đậm
màu sắc cổ điểm của hội hoa Phương Đơng về thiên nhiên suối rừng dưới cái nhìn
của khách chinh phu thời đại mới.
3. Chân dung người lính Tây Tiến: Câu 23-30
a. Nhận xét chung:
- Thực ra không phải đến đoạn thơ thứ 3, hình ảnh người lính Tây tiến mới
xuất hiện. Những phần đầu của bài thơ đã ít nhiều thể hiện được vẻ đẹp tâm hồn
cũng như đời sống chiếu đấu của người lính Tây Tiến, nhưng chỉ được thể hiện
gián tiếp. Đoạn thơ thứ 3 trực tiếp và tập trung khắc họa tư thế hiên ngang cùng
tâm hồn lãng mạn của họ.
- Tám câu thơ được chia cắt thành 2 khổ, hình ảnh người lính trong đời sống
chiến đấu và hình ảnh người lính trong mất mát hi sinh. Khái quát hơn đó là chân
dung người lính sống hiên ngang, thác hào hùng. Về phương diện thẩm mĩ, đây
cũng là đoạn thơ làm nổi bật cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.
b. Hình ảnh người lính Tây Tiến trong chiến đấu:
* Ngoại hình – Câu 23,24
- Bi: Bút pháp hiện thực


Bên cạnh hình ảnh anh bộ đội xuất thân từ nông dân được khắc họa bằng bút
pháp hiện thực với vẻ đẹp giản dị “Áo anh rách vai/ Quần tôi có vài mảnh vá” thì
hình ảnh anh bộ đội trong Tây Tiến quả là có những nét khác thường:
“Tây Tiến đồn binh….oai hùm” Quang Dũng khơng hề che giấu những gian
khổ khó khăn và sự hi sinh lớn lao của người lính. Những cái đầu khơng mọc tóc
đâu phải là hình ảnh li kì, sản phẩm của trí tưởng tượng xa rời thực tế mà nó chứa
đựng sự thực nghiệt ngã: Sinh hoạt kham khổ, thiếu thốn mọi bề, bệnh tật thường
xuyên đã lấy đi của người lính Tây Tiến dáng vẻ thanh lịch của chàng trai Hà
Thành. Nói về sức tác động ghê gớm của những cơn sốt rét rừng, Chính Hữu cũng
từng viết: “Anh với tơi biết từng cơn ớn lạnh. Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”.

Và Tố Hữu cũng viết: “Giọt giọt mồ hôi rơi/ Trên trán anh vàng nghệ”.
+ Quân xanh màu lá: Vẫn là lối đặc tả không hề che giấu hiện thực đói rét và
bệnh tật khiến cho màu da ai nấy nhợt nhạt, xanh trong, xanh lọc. Chất hiện thực
của đời sống kháng chiến thấm đẫm câu thơ.
- Hùng:
+ Đoàn binh = đoàn quân: Cổ điển - hiện đại: Quân và binh là một nhưng
Quang Dũng khơng gọi là đồn qn theo cách hiện đại mà gọi là đoàn binh tạo ra
cảm giác cổ kính, lời thơ trở nên khỏe khoắn với màu sắc tráng ca rõ nét.
+ Dữ oai hùm: hình hài tiều tụy, xơ xác mâu thuẫn với tư thế oai hùng của
những chúa sơn lâm trấn giữ nơi rừng thiêng nước độc. Mặc khác nếu nói cảm
hứng lãng mạn thường có xu hướng tìm đến sự đối nghịch, tương phản thì 2 câu
thơ này là ví dụ. Vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt, thiếu thốn và bệnh tật, người lính
vẫn ngời ngời tư thế làm chủ biên cương, đất nước, đằng sau dáng vẻ xanh xao tiều
tụy vẫn bừng lên hùng tâm tráng chí, khí phách hiên ngang của chúa sơn lâm ngự
trị nơi rừng thiêng nước độc.
* Vẻ đẹp tâm hồn - Câu 25-26
- Vẫn là sự khai thác những mặt đối lập giữa cái bên trong với cái bên ngồi,
giữa hình hài, vóc dáng với tâm hồn, giữa cái chí với cái tình, QD đã thể hiện về
đời sống tình cảm của người lính Tây Tiến một cách đầy lãng mạn.


+ Chí: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”: ánh mắt quyết tử, là tinh thần
chiến đấu quyết liệt nhìn thẳng về phía trước và sẵn sàng nổ súng, là chí khí anh
hùng được tơi luyện qua thử thách chiến tranh, là tinh thần cảm tử “quyết tử cho
Tổ quốc quyết sinh”, là mộng hịa bình, mộng chinh phu, là mộng ước về xứ lạ
phương xa, về những chân trời chưa tới để thỏa chí bình sinh của chàng trai thời
loạn. Ở đây là sự hòa điệu nhịp nhàng giữa trách nhiệm với Tổ quốc và khát vọng
của trang nam tử.
Liên hệ:
“Thôi hãy lên đường tráng sĩ ơi

Quê hương mong đợi đã bao đời
Biên thùy nghe dậy niềm ai oán
Gươm hận mài chưa? Khát máu rồi”
(Biết gửi đưa ai – Báo vệ quốc)
+ Tình: Sẽ thật thiếu hụt nếu ta chỉ nhìn thấy ở người lính Tây Tiến qua
những nét chạm khắc rạch ròi, gân guốc, mạnh mẽ, can trường. Ở họ cịn có nét đa
tình, lãng mạn, bay bổng, là đời sống, tình cảm dạt dào vốn thường bị che phủ một
cách khơng tự giác hoặc cố ý vì nhiều lẽ mềm mại trong tâm hồn người lính chắc
chắc đã tạo nên thế cân bằng trong tâm lí và giúp họ có thêm sinh lực vượt qua
những gian truân phía trước. Hồn cảnh khắc nghiệt của kháng chiến khơng làm
chai sạn được tâm hồn trẻ trung của người lính Tây Tiến. Cái vẻ đẹp hào hoa, lãng
mạn của những chàng trai thủ đơ vẫn ngun vẹn giữa khói lửa của chiến tranh.
Đêm giữa mặt trận khơng chỉ có sự ác liệt căng thẳng hay những thách thức,
gian lao mà cịn ẩn chứa những giấc mơ tươi tắn về bóng hình đẹp nơi phố phường
Hà Nội. Dáng kiều thơm có thể là một nàng thơ trong hồi ức tươi đẹp về thủ đơ, có
thể là người thương nơi q nhà. Lính Tây Tiến là những người có tâm hồn, có trái
tim rạo rực khát khao những yêu đương. Cùng cách nhìn như thế về đời sống tâm
hồn của người lính, Nguyễn Đình Thi từng viết:
“Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”
(Đất nước)


Những câu thơ thế này là một thời bị lên án kịch liệt, bị cơng kích vì cho
rằng đó là biểu hiện của mộng rớt, tiểu tư sản. Khi văn học được nhìn nhận lại trên
tinh thần đổi mới, người ta mới thấy rằng đó là những câu thơ thể hiện cái nhìn hết
sức nhân văn về đời sống tình cảm của người lính. Họ khơng chỉ có lí trí tỉnh táo,
sắc nhọn mà cịn có cái tình lãng mạn, hào hoa. Ánh mắt của người thương nhiều
khi là động lực để người lính tiếp thêm sức mạnh cho mình. Và QD đã nói rất hay,
rất chính xác cái tâm tư đó ở người lính Tây Tiến: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều

thơm”.
c. Hình ảnh người lính trong mất mát hi sinh
* Hai câu 27,28
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Bi: Nhớ về một thời Tây Tiến, QD không thể nào quên những đồng đội đã
vĩnh viễn nằm lại nơi rẻo đất miền Tây này. Đơn vị về xuôi những đồng đội lại tỏa
đi khắp các mặt trận riêng các anh nằm lại nơi chiến trường. Những nấm mộ chí rải
rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, đó là hiện thực bi thương không thể che
giấu. Cái chết, dù là hi sinh cũng không thể nào không gợi lên cảm xúc bi thương.
Hùng: Nhưng để phần nào vơi đi, vơi bớt niềm thương cảm ấy QD đã dùng
từ Hán Việt “biên cương”, “viễn xứ” với màu sắc tráng ca. Nhờ đó người lính Tây
Tiến của thời hiện đại nằm lại trên dải đất biên cương kia khơng khác gì những
người anh hùng “da ngựa bọc thây” trong văn chương cổ điển và những nắm mồ
của họ là những cột mốc biên cương.
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
- Viết về những mất mát, hi sinh QD đã tô đậm vẻ đẹp cao cả và thiêng liêng
của sự hi sinh đó: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh, xả thân vì Tổ quốc. Đời
xanh là tuổi trẻ và đời xanh cũng chỉ có 1 lần ở mỗi người nhưng khi Tổ quốc cần,
họ dám hi sinh và biết hi sinh. Câu thơ khẳng định mạnh mẽ khí phách của tuổi trẻ
một thời khơng chỉ tự nguyện chấp nhận, mà cịn vượt lên cái chết, sẵn sàng dâng
hiến cả tuổi trẻ cho dân tộc. Khơng phải là tiếng nói của thi ca mà là dũng khí tinh
thần của con người thời đại cách mạng. Người lính Tây Tiến tuy có lúc tàn tạ trong
hình hài nhưng lại chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng dấp những tráng sĩ thuở


xưa ra đi vì nghĩa lớn. Ta nhìn thấy trong âm điệu của câu thơ hình ảnh Kinh Kha:
“Gió đìu hiu sông Dịch lạnh hùng ghê/ Tráng sĩ một đi không trở về” và lời thề
“Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” của đoàn cảm tử quân Hà Nội cũng như anh vệ
quốc quân như bài hát cùng tên của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu:
“ Đoàn Vệ quốc quân một lịng ra đi

Nào có sá chi đâu ngày trở về
Ra đi ra đi giữ gìn sơng núi
Ra đi ra đi thà chết chớ lui”.
*Hai câu 29,30:
- QD đã ghi lại khung cảnh đưa tiễn đồng đội vào giác ngủ ngàn thu. Người
lính Tây Tiến ngã xuống khơng có manh chiếu để bọc thây. Áo bào thay chiếu tức
là khơng có chiếu đành phải để tử sĩ về với đất mẹ bằng manh áo đơn sơ. Hiện thực
đau xót ấy đã được xóa nhịa bằng cách gọi manh áo kia là tấm áo bào lẫm liệt.
Nhờ tấm áo bào, hình tượng người lính Tây Tiến mang dáng dấp của những dũng
tướng, tráng sĩ thuở xưa, những đại trượng phu ra đi vì nghĩa lớn, xem cái chết nhẹ
tựa lơng hồng.
Từ “về” vốn quen thuộc bỗng nhiên mang sắc thái nghĩa mới. Khơng cịn là
sự mất mát hi sinh mà là sự hóa thân vào hồn thiêng sơng núi. Chiêu hồn tử sĩ để
đưa linh hồn người lính về cõi bất tử là tiếng gầm của dịng sơng Mã. Âm thanh đó
tạo nên sự tiễn đưa mang tầm vóc sử thi hồng tráng. Một sự hi sinh lớn cần sự tiễn
đưa lớn như thế. Đó là lời thay mặt của núi rừng Tổ quốc “gầm” lên tiếng chào
vĩnh quyết trầm hùng.
*Tiểu kết (cho 4 câu thơ)
- Bốn câu thơ không thể hiện tâm trạng bùi ngùi, thương tình mà thể hiện
niềm cảm khái của tác giả về cái chết. Xót xa, đau thương nhưng không bi lụy. Rắn
rỏi mà thương cảm sâu xa. Ngẫm nghĩ về cái chết của đồng đội và người ta cao lớn
thêm và cũng trầm tĩnh, kiên quyết thêm rất nhiều.
- Sự hi sinh của người lính Tây Tiến đã trở thành hình tượng thẩm mĩ sang
trọng. Đoạn thơ nói đến sự hi sinh mất mát mà vẫn khơng bị lụy, vẫn truyền được
ngun vẹn khơng khí hào hùng của một thời kỳ lịch sử. Và QD đã dựng nên một


tượng đài nghệ thuật kiêu hùng bằng sự trải nghiệm máu thịt về thực tế chiến đấu
và bằng tất cả tấm lịng trân trọng, mến u, thành kính đối với đồng đội một thời
Tây Tiến đã xa.

- Bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực
vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới,
thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân
Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng
chiến ấy.
- Một bức tượng đài tập thể - tượng đài bất tử về người lính vơ danh, một
bức phù điêu bằng ngơn từ về một đơn vị có một không hai trong lịch sử dân tộc và
lịch sử thơ ca.
4. Lời thề gắn bó với Tây Tiến: (4 câu kết)
- Hai câu đầu và bốn câu kết là mở ra và gói lại cảm xúc thực tại của QD.
Đoạn kết có ít nhất hai từ phiếm định “người”, “ai” và nhờ những từ phiếm định ấy
nhà thơ đã nói hộ tâm tư của bao người lính Tây Tiến một thời.
- Tây Tiến người đi khơng hẹn ước: chí lớn của những tráng sĩ quyết chí vì lí
tưởng. Đường lên thăm thẳm một chia phôi là ý niệm của thời đại – nhất khứ bất
phục hoàn. Giọng ngang tàng, khinh bạc, thể hiện chất lãng tử kiêu hùng mang vẻ
đẹp lãng mạn, đó là lí tưởng chiến đấu cao cả của anh bộ đội cụ Hồ, làm nổi bật
phẩm chất yêu nước anh hùng. Hoặc cũng có thể tác giả nói đến sự thật khơng thể
khác được: Người đi khơng hẹn ước. Trong hồn cảnh chiến tranh làm sao có thể
nói được lời ước hẹn. Hơn nữa các thành viên của đơn vị Tây Tiến đã tỏa đi khắp
các mặt trận, đường lên Tây Bắc thăm thẳm nghìn trùng. Con đường trở lại càng
thăm thẳm thì niềm nuối tiếc lại càng không thể nguôi ngoai.
- Từ niềm nuối tiếc ấy mà nhà thơ tự nguyện với lịng mình: những kỉ niệm
Tây Tiến không bao giờ phai nhạt:
“Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
“Mùa xuân ấy” là hình ảnh tả thực. Các đơn vị Tây Tiến rời thị xã Hà Đông,
ngược lên Tây Bắc cuối đơng 1946, đầu xn 1947. Cũng có thể hiểu rằng mùa


xuân ấy là ẩn dụ về tuổi trẻ của những người lính Tây Tiến, đó là thời họ đã sống

chết vì lý tưởng Tây Tiến mùa xuân ấy đã thành thời điểm lịch sử, thành dấu son
chói lọi trong cuộc đời của QD nói riêng và của những thanh niên tri thức Hà Nội
nói chung. Sẽ khơng bao giờ lặp lại cái thời mơ mộng lãng mạn, hào hùng giữa
hoàn cảnh khốc liệt ấy. Câu thơ vừa mang dấu ấn cảm xúc của niềm ngưỡng vọng
thiêng liêng về thời vàng son của cuộc đời mình, vừa là niềm tự hào về thế hệ trẻ
thời kháng chiến chống Pháp.
Câu kết cũng là lời tự hứa, tự nhắc nhở để khẳng định : linh hồn vẫn mãi
thuộc về mảnh đất miền tây- nơi đậm tình đậm nghĩa cùng Tây Tiến : “Hồn về Sầm
Nứa chẳng về xuôi”.
5. Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ
a. Hình ảnh: Đa dạng
Thế giới tự nhiên

Con người

(Thiên nhiên Tây Bắc)

(con người Tây Bắc + người lính Tây Tiến)

hoang sơ

Mỹ lệ

dự dội

trữ tình

Hào hùng
(chí khí anh hùng)


Hào hoa
(tâm hồn lãng mạn)

Có thể nhận thấy ở bài thơ Tây Tiến hệ thống hình ảnh đa dạng được sáng
tạo bằng nhiều bút pháp khác nhau khi thì rắn rỏi, mạnh mẽ, gân guốc, khi thì lãng
mạn, mền mại, tài hoa tạo nên sắc thái thẩm mĩ phong phú. Thế giới hình ảnh của
Tây Tiến khơng chỉ có tự nhiên mà cịn có con người. Khi khai thác vẻ đẹp của tự
nhiên nhà thơ khám phá vào những phương diện trái chiều: Tây Bắc vừa hoang sơ,
dữ dội, hùng vĩ, khắc nghiệt đồng thời cũng rất đỗi thơ mộng, mĩ lệ, trữ tình. Con
người cũng hội tụ những nét đẹp tưởng chừng như đối lập nhau: vừa có chí khí anh
hùng lại vừa có tâm hồn lãng mạn, bâng khuâng, hào hùng mà hào hoa, phong nhã.
Thật có lí kho Chu Văn Sơn cho rằng: “Nhớ về Tây Tiến là nhớ về những con
người kiêu dũng mà tình tứ, vừa có chí anh hùng, vừa mang hồn nghệ sĩ. Và tất
nhiên đó cũng phải là cái nhớ của một cái tơi rất là Tây Tiến – nghĩa là thật hào
hùng mà cũng thật hào hoa” (Tây Tiến hào hùng và hào hoa).
Bút pháp miêu tả phong phú: Để có hệ thống hình ảnh phong phú như thế,
bút pháp miêu tả cũng phải có sự tương xứng: khi miêu tả thiên nhiên QD kết hợp


miêu tả cận cảnh và bao quát từ xa. Khi khai thác đời sống tình cảm của người lính
Tây Tiến, QD vừa miêu tả lí trí sắc nhọn, tỉnh táo làm bật lên chí khí anh hùng của
họ, vừa dùng tâm hồn nhạy cảm có chiều sâu cảm xúc để nhận thấy tâm hồn hào
hoa, lịch lãm của những đồng đội. Đó là kết quả của q trình trải nghiệm, chung
sống và thấu hiểu, nói dễ hiểu hơn, nó là cảm xúc của người trong cuộc.
b.Ngơn ngữ
Trang trọng, cổ kính
+ Đa sắc thái
Thông tục, đời thường
+ Ngôn ngữ trong Tây Tiến là sự kết hợp nhiều sắc thái phong cách: vừa có
lớp từ trang trọng, cổ kính, vừa có lớp từ thơng tục, sinh động của lời nói hằng

ngày in đậm phong cách người lính. Bên cạnh những từ ngữ Hán Việt trang nhã
như biên cương, viễn xứ, đoàn binh, độc hành thì cũng có những từ ngữ như anh
bạn, súng ngửi trời, bỏ quên đời…
+ Kết hợp từ mới lạ: Trong thơ người đọc cũng dễ dàng phát hiện những kết
hợp từ mới lạ đem đến cho bài thơ 1 phong cách rất riêng của QD như: mưa xa
khơi, Mai Châu mùa em, nhớ chơi vơi.
+ Sử dụng tên các địa danh phong phú khơng chỉ có tác dụng tạo nên tính
chất xa lạ, bí hiểm của địa bàn hoạt động và hành quân của binh đoàn Tây Tiến mà
cịn góp phần làm cho khơng gian nghệ thuật của bài thơ thêm sinh động, hấp dẫn,
làm cho bài thơ mang dấu ấn riêng giữa rừng thơ ca kháng chiến chống Pháp.
c. Giọng điệu:

Cảm xúc, chủ đạo: nỗi nhớ

thiết tha

hào hứng

bâng khuâng

trang trọng

bồi hồi

tươi vui

man mác

bi hùng


Cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ nhưng sắc độ của nỗi nhớ thì khơng
giống nhau qua từng đoạn thơ mà phụ thuộc vào khách thể trữ tình. Nhớ về đơn vị
cũ và địa bàn hành quân khắc nghiệt thì giọng thơ thiết tha, bồi hồi, nhớ về đêm
liên hoan văn nghệ thì âm điệu hào hứng, tươi vui, nhớ về sông nước miền Tây


buổi chiều sương phủ thì bâng khuâng man mác, nhớ về đồng đội thì giọng thơ
trang trọng, bi hùng.
d. Sự kết hợp giữa tinh thần bi tráng và cảm hướng lãng mạn trong bài
thơ:
- Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng không tách bạch với nhau, không
tồn tại độc lập, riêng lẻ mà giao thoa, bổ trợ, kết hợp với nhau làm nên vẻ đẹp độc
đáo của bài thơ. Khơng những thế, tinh thần bi trang cịn được xem là biểu hiện
quan trọng của cảm hứng lãng mạn trong bài thơ.
- Sự kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng đã làm cho Tây
Tiến trở nên rất khác biệt trong thơ ca kháng chiến chống Pháp. Đặt bên cạnh
những Màu tím hoa sim của Hữu Loan, Nhớ của hồng Nguyên, Đồng chí của
Chính Hữu, ta mới thấy rằng chất lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến nói riêng và ở
Quang Dũng nói chung là chất người – là cá tính của nhà thơ – người thanh niên trí
thức rất mực hào hoa, lãng mạn. Nhưng lãng mạn mà không tiêu cực, yếu mềm,
ngược lại chính nó đã nâng người đọc lên, vực dậy những người lính mệt mỏi, xóa
tan đi nhọc nhằn, đau khổ, lãng quên bao nỗi hiểm nguy, lấy lại cân bằng trong tâm
hồn giúp họ vững bước đi lên. Chất lãng mạn ấy, tinh thần bi tráng ấy là sức mạnh
và vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến.
Tây Tiến là trường hợp đặc biệt của thơ ca cách mạng nói riêng và văn học
hiện đại nói chung. Khơng có Tây Tiến mà chỉ có Đơi mắt người Sơn Tây có lẽ
khơng nhiều người biết đến Quang Dũng. Tây Tiến là tác phẩm thể hiện rõ phong
cách sáng tác của nhà thơ Quang Dũng trong lòng bạn đọc. Với Tây Tiến ta có thể
khẳng định “Vận mệnh của thơ văn lớn hơn nhiều lần tên tuổi của người tạo ra
chính nó”.




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×