Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

Áp dụng biện pháp tạm giam từ thực tiễn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.2 KB, 51 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

NGUYỄN NHƯ SƠN

ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, năm 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

NGUYỄN NHƯ SƠN

ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS NGUYỄN VĂN HIỂN



LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan luận văn là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Những tài liệu, số liệu sử dụng trong luận văn là trung
thực, chính xác. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác. Tơi xin chịu
trách nhiệm về những lời cam đoan trên.
Người cam đoan

Nguyễn Như Sơn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................................................ 1
Chương 1: CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIAM.....................8

1.1.
1.2.

Các vấn đề lý luận về áp dụng biện pháp tạm giam trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam..................8

Áp dụng biện pháp tạm giam theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2015.....................................................................................................................................................15

1.3. Khái quát lịch sử lập pháp về biện pháp tạm giam trong pháp luật tố

tụng hình sự Việt Nam và quy định về

biện pháp này trong pháp luật của một số nước trên thế giới...........................................................................30
Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIAM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH
TÂY NINH...................................................................................................................................................................... 36

2.1.


Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội có ảnh hưởng đến việc áp dụng biện pháp tạm giam trong hoạt động giải

quyết vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh............................................................... 36

2.2. Thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.....................38
2.3. Đánh giá thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam trên địa bàn thành

phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh....42

Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIAM VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIAM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ TÂY NINH,
TỈNH TÂY NINH........................................................................................................................................................... 59

3.1.

Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình

sự về biện pháp tạm giam.................................................................................................................................59

3.2. Những giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về biện pháp tạm giam......................................................61
3.3.

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tạm

giam trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây

Ninh 67
KẾT LUẬN..................................................................................................................................................................... 79



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố

tụng hình sự CQĐT:

Cơ quan điều tra HĐXX:

Hội đồng xét xử
KSV:

Kiểm sát viên

TAND:

Tịa án nhân dân TNHS:

nhiệm hình sự TTHS:

Trách

Tố tụng hình sự

VAHS:

Vụ án hình sự

VKS:


Viện kiểm sát VKSND:

sát nhân dân
VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Viện kiểm


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Tình hình khởi tố các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh từ năm 2016 đến năm 2020
........................................................................................................................................................................................ 39
Bảng 2.2. Tình hình áp dụng biện pháp tạm giam trên địa bàn thành phố

Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh từ năm 2016 đến năm

2020................................................................................................................................................................................. 40
Bảng 2.3. Tình hình giải quyết các trường hợp tạm giam trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh từ năm 2016 đến
năm 2020......................................................................................................................................................................... 41
Bảng 2.4: Tình hình áp dụng biện pháp tạm giam trong tổng số bị can bị khởi tố mới hàng năm trên địa bàn thành phố Tây
Ninh, tỉnh Tây Ninh từ
năm 2016 đến năm 2020..................................................................................................................................................52


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thành ngữ Việt Nam có câu: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại” có nghĩa là một ngày trong tù bằng nghìn năm ở
ngồi. Điều đó nói lên sự ảnh hưởng của hình phạt tù giam đối với con người dù người đó phạm tội cố ý hay vơ ý. Trong giai
đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay, việc bảo đảm quyền con người có ý nghĩa vơ

cùng quan trọng trong mọi mặt đời sống xã hội. Kể từ khi bản Hiến pháp Việt Nam năm 2013 được ban hành, với tinh thần coi
trọng bảo đảm, bảo vệ quyền con người, ở nước ta đã có sự chuyển biến rõ rệt về mặt lập pháp, cũng như thực tiễn về lĩnh
vực quyền con người. Trong hoạt động tư pháp hình sự, nhiệm vụ bảo vệ quyền con người của các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng rất quan trọng, có tính cấp bách. Riêng trong hoạt động TTHS ở nước ta, số người bị áp dụng biện pháp tạm giam
khi bị điều tra, truy tố, xét xử còn rất cao (theo Báo cáo số 139/BC-VKSTC ngày 26/12/2017 của VKSND (VKSND) tối cao
và Báo cáo số 208/BC-VKSTC ngày 28/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về tổng kết công tác kiểm sát năm 2017,
2018 thì năm 2016 chiếm 72%, năm 2017 chiếm 68% và năm 2018 chiếm 59,6%).
Trong TTHS, các biện pháp ngăn chặn đóng vai trị vơ cùng quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cho việc tiến hành các
hoạt động tố tụng nói riêng, cơng tác phịng, chống tội phạm nói chung. Việc quy định và áp dụng đúng đắn, chính xác các
biện pháp ngăn chặn là bảo đảm cần thiết cho việc thực hiện tốt các nhiệm vụ của TTHS nhằm phát hiện nhanh chóng, chính
xác, ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm minh người phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Mặt khác,
đây cũng là phương tiện pháp lý quan trọng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân đối với bị hại, nguyên đơn dân
sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và cả người bị buộc tội cũng như những thân nhân của họ. Việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn đối với người có hành vi phạm tội đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong q trình điều tra, giải quyết vụ án vì
nó ảnh hưởng trực tiếp đến sinh mệnh chính trị và các qùn cơ bản của cơng dân cũng như đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Trong đó, biện pháp tạm giam được xem là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong
TTHS. Biện pháp này có ý nghĩa quantrọng trong đấu tranh phịng, chống tội phạm, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước, thể hiện sự cương quyết của Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm quyền con người,
quyền công dân không bị xâm hại cũng như các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án có thể đạt hiệu quả cao nhất.
Người bị tạm giam sẽ bị cách ly khỏi xã hội trong thời gian nhất định, bị hạn chế một số quyền con người, quyền công dân
như quyền tự do thân thể, cư trú, tự do đi lại…. Đây là những quyền cơ bản của công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp
năm 2013 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục
hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”. Chính vì lẽ đó, việc
áp dụng biện pháp này địi hỏi các chủ thể có thẩm quyền phải hết sức thận trọng, nghiên cứu, vận dụng đúng đắn các quy
định của pháp luật TTHS cùng các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan, đồng thời phải căn cứ tình hình thực tiễn cụ
thể trong từng vụ án, từng đối tượng phạm tội để có thể áp dụng một các phù hợp, hiệu quả nhất.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn áp dụng biện pháp tạm giam ở nước ta nói chung, thành phố Tây
Ninh, tỉnh Tây Ninh nói riêng, bản thân nhận thấy tạm giam là một trong những biện pháp được áp dụng phổ biến trong quá
trình TTHS. Trong nhiều trường hợp, việc áp dụng biện pháp này đã góp phần khơng nhỏ trong việc ngăn chặn tội phạm kịp

thời, không để bị can, bị cáo trốn tránh pháp luật, bảo đảm cho việc thi hành án đạt hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh những kết
quả đã đạt được trong thời gian qua, việc áp dụng biện pháp tạm giam vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập nhất định. Đó là
những hạn chế trong quy định của pháp luật về biện pháp tạm giam; sự yếu kém về nhận thức của tiến hành tố tụng khi áp
dụng biện pháp này dẫn đến việc tạm giam bị can, bị cáo một cách tràn lan, khơng có căn cứ, nhiều trường hợp áp dụng trái
quy định của pháp luật; coi tạm giam như một biện pháp nghiệp vụ điều tra để giải quyết vụ án; thời hạn tạm giam kéo dài…
Thêm vào đó là khơng ít trường hợp việc áp dụng, thay thế, hủy bỏ biện pháp tạm giam có dấu hiệu của sự tác động tiêu cực
đối với các chủ thể có thẩm quyền. Điều này làm suy giảm niềm tin của người dân đối với tính tơn nghiêmcủa pháp luật, vào
chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước trong giải quyết các VAHS.
Những hạn chế, thiếu sót trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong đó, chủ yếu là do những quy định
của pháp luật TTHS về biện pháp tạm giam cịn nhiều sơ hở, thiếu sót, thiếu chặt chẽ dẫn đến việc áp dụng gặp nhiều khó
khăn, thiếu thống nhất. Nhiều vấn đề về khoa học pháp lý TTHS về biện pháp tạm giam cần phải được làm sáng tỏ nhằm đảm
bảo có được quan điểm thống nhất, toàn diện trong áp dụng biện pháp này như mục đích, căn cứ áp dụng, bản chất pháp lý và
những căn cứ thay thế, hủy bỏ biện pháp tạm giam; chưa có những đánh giá, tổng kết thực tiễn áp dụng, thay thế, hủy bỏ biện
pháp tạm giam để làm cơ sở đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này… Bên cạnh đó, trình độ, năng

7


lực của đội ngũ cán bộ trong các cơ quan tiến hành tố tụng còn hạn chế, chưa đáp ứng được u cầu, nhiệm vụ trong tình hình
mới. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Áp dụng biện pháp tạm giam từ thực tiễn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh”
là vấn đề mang tính cấp bách, thiết thực, vừa mang tính thời sự vừa đảm bảo về mặt lý luận và thực tiễn đối với địa phương
trong giai đoạn hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Biện pháp ngăn chặn nói chung, tạm giam nói riêng là vấn đề quan trọng trong TTHS đã được quan tâm nghiên cứu
trong nhiều sách, báo cũng như các cơng trình khoa học với nhiều mức độ, góc độ khác nhau. Trong đó, có thể kể đến các
cơng trình nghiên cứu như:

* Ở cấp độ sách chuyên khảo:
- Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra của TS.Lê Hữu Thể (Chủ

biên), NXB Tư pháp năm 2005.
- Quyền con người tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học của GS.TS. Võ Khánh Vinh (Chủ biên), NXB Khoa
học xã hội năm 2010.

* Ở cấp độ đề tài nghiên cứu khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ:
- Đề tài khoa học cấp Bộ: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp
hành án phạt tù theo yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay của Viện kiểm sát nhân dân tối cao , do Ngô Quang Liễn và các thành
viên thực hiện, năm 2007;

- Luận án tiến sĩ Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam - thực trạng, nguyên nhân và
giải pháp của Nguyễn Văn Điệp, Đại học Luật Hà Nội, năm 2005;

- Luận văn thạc sĩ Cơ sở lý luận và thực tiễn kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam ở tỉnh Hịa Bình của Qch Đình Lực, Học viện
Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2009;

- Luận văn thạc sĩ Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam của Nguyễn Phạm Tố Phong, Đại học Luật
TP. Hồ Chí Minh, năm 2013;

- Luận văn thạc sĩ Kiểm sát tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định

của

Nguyễn Quốc Doanh, Học viện khoa học xã hội, năm 2015.

* Ở cấp độ bài viết nghiên cứu khoa học trên các tạp chí chuyên ngành:
- Bài viết: Áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên theo quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự của tác giả Đồn Tấn Minh, Tạp chí TAND, số 7/2009;
- Bài viết: Thẩm quyền của Viện kiểm sát trong việc quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn và các biện pháp
cưỡng chế tố tụng khác trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp của tác giả Nguyễn Ngọc Khánh, Tạp chí
Kiểm sát, số 1/2011;


-

Bài viết: Những vướng mắc trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và kiến
nghị sửa đổi, bổ sung của tác giả Phùng Văn Tài, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8/2012.
Các cơng trình nghiên cứu trên đây đã nghiên cứu về một số khía cạnh nhất định của các biện pháp ngăn chặn nói
chung, biện pháp tạm giam nói riêng. Thơng qua đó, tác giả có thể kế thừa và phát triển các vấn đề mang tính lý luận về đề tài
nghiên cứu. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về biện pháp ngăn chặn tạm giam cũng như
thực tiễn áp dụng biện pháp này tại địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh. Do đó, việc nghiên cứu đề tài: “Áp dụng biện
pháp tạm giam từ thực tiễn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh” mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng trong việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trên phạm vi cả nước nói chung, địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh nói riêng.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu luận văn nhằm mục đích làm rõ những vấn đề lý luận về biện pháp tạm giam trong TTHS của Việt
Nam cũng như việc áp dụng biện pháp này trong thực tiễn giải quyết các VAHS trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây
Ninh. Từ đó xây dựng hệ thống giải pháp nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật về biện pháp này và nâng cao hiệu
quả áp dụng biện pháp tạm giam trong thực tiễn.

8


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu cơ sở lý luận về biện pháp tạm giam trong TTHS.
- Làm rõ những quy định của pháp luật TTHS hiện hành về biện pháp tạm giam.
-

Làm rõ thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh để xác định những hạn chế,
vướng mắc, tồn tại và bất cập trong quá trình áp dụng, từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá làm cơ sở cho việc hoàn thiện hệ

thống quy định của pháp luật TTHS hiện hành.

-

Đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật TTHS cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp
tạm giam trong thực tiễn quá trình giải quyết VAHS.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề về biện pháp tạm giam trong Luật TTHS Việt Nam, kết hợp
nghiên cứu, đánh giá thực trạng áp dụng biện pháp này trong thực tiễn địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh để làm rõ
những hạn chế, vướng mắc, tồn tại, từ đó kiến nghị những giải pháp để hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả áp
dụng biện pháp tạm giam trong thực tiễn.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

-

Về nội dung: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về biện pháp tạm giam và những quy định của Luật TTHS Việt Nam
hiện hành về biện pháp này. Đồng thời, luận văn cũng nghiên cứu, làm rõ thực tiễn áp dụng biện pháp tạm giam của các cơ
quan tiến hành tố tụng trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.

-

Về không gian: Luận văn khảo sát thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam trên phạm vi địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây
Ninh.

-

Về thời gian: Luận văn khảo sát thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam từ năm 2016 đến năm 2020.


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận là phương pháp duy vậy biện chứng của triết học Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng linh hoạt và hợp lý các phương pháp nghiên cứu cụ thể trong quá trình nghiên cứu, cụ thể như:
Diễn giải, quy nạp, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, khảo sát và phương pháp chuyên gia. Khi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể này, tác giả luôn tuân thủ cách tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học nhằm đạt được mục đích nghiên cứu
đặt ra.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ thêm lý luận về biện pháp tạm giam trong TTHS. Trên cơ sở phân
tích, làm rõ những quy định của pháp luật hiện hành cùng với việc đi sâu nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động áp dụng
biện pháp tạm giam trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh, luận văn đã kiến nghị những giải pháp thiết thực nhằm
hoàn thiện hệ thống quy định về biện pháp tạm giam, đồng thời đưa ra được hệ thống giải pháp hữu hiệu và có tính khả thi,
phù hợp điều kiện, hoàn cảnh thực tế của địa phương.

6.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ việc học tập, nghiên cứu nhằm nâng
cao nhận thức về biện pháp tạm giam cũng như việc áp dụng biện pháp này trong thực tiễn.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1: Các vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng
9 biện pháp tạm giam. Chương 2: Thực trạng áp dụng biện



pháp tạm giam trên địa bàn thành phố
Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về biện pháp tạm giam và nâng cao hiệu quả áp dụng biện
pháp tạm giam trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.

10


Chương 1
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP
TẠM GIAM

1.1.

Các vấn đề lý luận về áp dụng biện pháp tạm giam trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa của biện pháp tạm giam
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp tạm giam
BLTTHS quy định nhiều biện pháp cưỡng chế nhà nước, được thực hiện bởi những cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng nhằm đạt được mục đích tố tụng nhất định. Căn cứ vào mục đích áp dụng, có thể phân loại các biện pháp này
thành các nhóm:

-

Nhóm các biện pháp cưỡng chế đảm bảo thu thập và ghi nhận chứng cứ, bao gồm: khám xét người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa
điểm, xem xét dấu vết trên thân thể, thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử;

-

Nhóm các biện pháp bảo đảm cho quá trình tố tụng được tiến hành một cách thuận lợi, bao gồm: kê biên tài sản, phong tỏa tài

khoản, áp giải bị can, bị cáo, dẫn giải người bị tố giác, kiến nghị khởi tố, nhân chứng, tạm đình chỉ chức vụ bị can;

-

Nhóm các biện pháp ngăn chặn, bao gồm: bắt, giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam, bảo lãnh, đặt tiền để
bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hỗn xuất cảnh.
Trong đó, biện pháp ngăn chặn chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến thân thể, quyền con người,
các quyền nhân thân của cơng dân. Do đó, BLTTHS đã có những quy định hết sức chặt chẽ về các biện pháp này, tạo cơ sở
pháp lý vững chắc cho việc áp dụng trong q trình giải quyết VAHS. Từ đó, bảo đảm cho q trình tố tụng của các cơ quan
có thẩm quyền được thực hiện thuận lợi, việc chứng minh vụ án đạt kết quả tốt, góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác đấu
tranh phịng, chống tội phạm. Đồng thời góp phần đảm bảo việc thực hiện dân chủ, tôn trọng quyền con người, các quyền cơ
bản của công dân được pháp luật bảo vệ.
Tạm giam là một biện pháp ngăn chặn trong TTHS. Việc áp dụng biện pháp này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các
quyền cơ bản của công dân như quyền bất khảxâm phạm về thân thể, quyền tự do đi lại… Đây có thể xem là biện pháp mang
tính cưỡng chế nghiêm khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn. Do đó, việc nắm vững bản chất, căn cứ, thẩm quyền, thời hạn,
thủ tục… áp dụng biện pháp này không những giúp nâng cao hiệu quả q trình giải quyết vụ án, góp phần vào cơng tác đấu tranh
phịng, chống tội phạm mà cịn có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người, qùn và lợi ích hợp pháp của cơng dân.
Để có thể hiểu rõ cũng như áp dụng đúng đắn biện pháp tạm giam trong quá trình giải quyết VAHS, đã có nhiều cơng trình, tài liệu,
sách báo đưa ra những khái niệm khác nhau về biện pháp tạm giam.
Quyển “Từ điển giải thích thuật ngữ luật học” của Trường Đại học Luật Hà Nội. Nhà xuất bản Công an Nhân dân
năm 1999 đã định nghĩa biện pháp tạm giam như sau: “Tạm giam là biện pháp cách ly bị can, bị cáo với xã hội trong thời
gian nhất định nhằm ngăn chặn hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở việc điều tra, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội của bị
can, bị cáo đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử thi hành án được thuận lợi” [34, tr. 224].
Bên cạnh đó, một số tác giả nghiên cứu khác cũng đưa ra các khái niệm về biện pháp tạm giam trong các cơng trình
của mình. Tác giả Trần Quang Tiệp cho rằng: “Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do người có thẩm
quyền của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng hạn chế tự do cá nhân với mức độ nghiêm khắc nhất trong thời
hạn tương đối dài đối với bị can, bị cáo nhằm ngăn chặn tội phạm, đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án được tiến hành thuận lợi” [38, tr. 112].
Tác giả Nguyễn Mai Bộ cho rằng: “Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự mà theo đó Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong những trường hợp nhất định có thể tước tự do đối với bị can, bị cáo nhằm ngăn chặn tội

phạm hoặc đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử”[2, tr. 92].
Những khái niệm nêu trên nhìn chung đã chỉ ra được những vấn đề cơ bản về vị trí, vai trị, mục đích áp dụng của
biện pháp tạm giam trong TTHS. Tuy vậy, chúng lại chỉ tập trung vào một khía cạnh nhất định của biện pháp này mà chưa có
được sự thống nhất mang tính khái quát về biện pháp tạm giam, làm cơ sở cho việc nghiên cứu một cách toàn diện cũng như
áp dụng một cách đúng đắn, phù hợp thực tiễn giải quyết vụ án. Theo đó, khái niệm biện pháp tạm giam cần thể hiện rõ bản


chất, mục đích, đối tượng và điều kiện áp dụng biện pháp này. Để có thể khái quát được những vấn đề đó địi hỏi phải làm rõ
những đặc điểm cụ thể của biện pháp tạm giam trong quá trình TTHS.
Trước hết, cần khẳng định tạm giam là biện pháp ngăn chặn mang tính nghiêm khắc, thể hiện thái độ của Nhà nước
đối với người có hành vi phạm tội, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, khi
áp dụng biện pháp tạm giam, các cơ quan có thẩm quyền cần phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật để bảo
đảm các quyền con người, quyền cơ bản của cơng dân, tạo thuận lợi cho q trình giải quyết VAHS, góp phần nâng cao hiệu
quả cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm. Bên cạnh đó, bản chất pháp lý của biện pháp tạm giam còn thể hiện ở chỗ đây là biện
pháp cưỡng chế của Nhà nước chỉ áp dụng đối với những đối tượng nhất định trong những trường hợp nhất định do pháp luật quy
định, nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn ngừa người phạm tội tiếp tục thực hiên tội phạm hoặc gây khó
khăn cho q trình giải quyết vụ án.
BLTTHS quy định đối tượng bị áp dung biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị can hoặc bị cáo, tức là người đã bị khởi tố
hoặc người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Tuy vậy, không phải tất cả bị can, bị cáo đều bị áp dụng biện pháp tạm giam mà
biện pháp này chỉ có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp:

- Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng.
-

Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định
người đó thuộc trường hợp:
+ Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
+ Khơng có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;
+ Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
+ Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;

+ Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả
mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị
hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

-

Bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và
bị bắt theo quyết định truy nã.Một điểm cần lưu ý về đối tượng bị tạm giam là việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với những
người nêu trên cũng chỉ mang tính “có thể” chứ khơng nhất thiết phải áp dụng. Hay nói cách khác, đây là biện pháp mang tính
“lựa chọn áp dụng” chứ khơng phải là bắt buộc. Do đó, khi áp dụng biện pháp này, các cơ quan có thẩm qùn cần xem xét
tính pháp lý trên cơ sở quy định của BLTTHS mà cịn là sự cần thiết đối với q trình giải quyết vụ án cũng như không để bị
can, bị cáo thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, tiếp tục phạm tội hay gây khó khăn, cản trở cho quá trình giải quyết
VAHS.
Tạm giam là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước, luật TTHS nước ta quy định một phạm vi hẹp các
chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam. Đó là:

-

Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS quân sự các cấp;

-

Chánh án, Phó Chánh án TAND và Chánh án, Phó Chánh án Tịa án qn sự các cấp; HĐXX;

-

Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp. Trong trường hợp này, lệnh tạm giam phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước
khi thi hành [24, tr 23 - 42].
Những chủ thể nêu trên chính là những người tiến hành tố tụng, có thẩm quyền chủ yếu trong quá trình giải quyết
VAHS.

Tạm giam là biện pháp tạm thời tước bỏ quyền tự do của bị can, bị cáo do cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng trong
những trường hợp nhất định. Thời hạn tước bỏ quyền tự do này do pháp luật quy định căn cứ vào giai đoạn tố tụng, tính chất
phức tạp của vụ án mà bị can, bị cáo thực hiện.
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn của TTHS. Các biện pháp như
giữ người trong trường hợp khẩn cấp, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm chỉ ảnh hưởng đến các quyền của
công dân như quyền bất khả xâm phạm đến thân thể, quyền tự do giao tiếp, quyền hội họp… Còn biện pháp bắt, tạm giữ cũng
là những biện pháp ngăn chặn có tính nghiêm khắc cao, cũng hạn chế các quyền tự do của công dân nhưng mức độ (thời hạn)
tác động, ảnh hưởng thấp hơn nhiều so với biện pháp tạm giam. Tuy nhiên, cần nhận thức rằng tạm giam tuy nghiêm khắc


song nó cũng chỉ là biện pháp ngăn chặn,


một trong những biện pháp cưỡng chế trong quá trình tố tụng nhằm hỗ trợ cho quá trình giải quyết VAHS chứ khơng phải là
hình phạt. Tạm giam được áp dụng nhằm ngăn chặn tội phạm, hành vi trốn tránh pháp luật của người phạm tội, bảo đảm cho
việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được tiến hành một cách thuận lợi, đúng quy định của pháp luật. [40, tr 136-140].
Với mục đích ngăn chặn và phòng ngừa tội phạm, việc quy định biện pháp tạm giam trong BLTTHS có ý nghĩa rất
quan trọng. Biện pháp tạm giam góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, củng cố, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ sự an toàn và vững mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
của cơng dân, tạm giam đúng sẽ góp phần bảo đảm sự dân chủ, tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp quy
định như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do cư trú và đi lại… tạm giam đúng còn bảo đảm cho việc đấu tranh
chống và phịng ngừa tội phạm có hiệu quả, bảo đảm hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi, thể hiện sự
chuyên chính của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm về tạm giam như sau: Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong TTHS do người có
thẩm quyền của CQĐT, VKS, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp do BLTTHS quy định nhằm ngăn
chặn tội phạm, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn, cản trở cho việc điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án [40].

1.1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp tạm giam
Ngồi mục đích chung, thống nhất là ngăn chặn không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó

khăn cho việc giải quyết vụ án thì ở mỗi giai đoạn tố tụng nhất định, việc áp dụng biện pháp tạm giam còn có mục đích riêng
nhằm bảo đảm thực hiện tốt chức năng tố tụng của cơ quan áp dụng.
Với vai trò là một biện pháp ngăn chặn, tạm giam có ý nghĩa rất lớn trong việc đấu tranh và phòng chống các loại tội
phạm cũng như bảo đảm các quyền tự do dân chủ của công dân, cụ thể:
Một là, tạm giam góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, củng cố tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, thể
hiện sự kiên quyết của nhà nước trong việcđấu tranh phòng chống tội phạm. Với việc áp dụng biện pháp tạm giam sẽ đảm bảo
cho trật tự xã hội được ổn định, pháp luật được giữ vững, chế độ xã hội chủ nghĩa được bảo vệ, các quyền cũng như lợi ích
hợp pháp của cơng dân được tơn trọng.
Hai là, tạm giam tạo cơ sở pháp lý vững chắc nhằm đảm bảo sự tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được Hiến
pháp và pháp luật ghi nhận. Đảm bảo không một công dân nào bị tạm giam trái pháp luật, khi áp dụng biện pháp tạm giam
không đúng pháp luật quy định, cơng dân có qùn khiếu nại đến các chủ thể có thẩm quyền [11].
Ba là, tạm giam là biện pháp hữu hiệu bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đạt hiệu quả
cao nhất. Bởi đây là biện pháp bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng, đảm bảo
sự chính xác, khách quan của hoạt động tố tụng, ngăn ngừa các đối tượng tiếp tục phạm tội hoặc tìm cách xóa dấu vết phạm
tội, chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án. Ngoài ra, tạm giam còn đảm bảo cho việc thi hành đúng pháp luật và hiệu lực của
bản án đã được tuyên.
Cuối cùng, tạm giam thể hiện tính ưu việt của nhà nước ta. Đó là biện pháp bảo đảm cho mọi công dân được sống
trong xã hội mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ được tôn trọng và bảo vệ, tránh được sự tấn cơng, xâm hại từ phía các đối
tượng nhất định, bảo đảm cho mọi công dân yên tâm sinh sống, học tập, làm việc tham gia vào cơng tác đấu tranh phịng
chống tội phạm đạt hiệu quả cao nhất [34].

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm áp dụng biện pháp tạm giam
Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó Nhà nước thơng qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc
nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mình căn cứ vào các quy
định của pháp luật, ra các quyết định áp dụng pháp luật vào trong những trường hợp cụ thể của đời sống xã hội. Trong quá
trình TTHS, để đảm bảo việc giải quyết vụ án được đúng đắn, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng dựa trên chức
năng của mình đã tiến hành những hoạt động áp dụng pháp luật nhằm làm rõ bản chất, nội dung của vụ án, xác định chính xác
tội phạm và người phạm tội. Trong đó, áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung, áp dụng biện pháp tạm giam nói riêng chính
là một trong những hoạt động áp dụng pháp luật quan trọng nhằm tạo điều kiện



thuận lợi cho quá trình giải quyết vụ án. Đây là hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiến hành đối với
bị can, bị cáo trên cơ sở vận dụng các quy định của pháp luật về biện pháp tạm giam nhằm ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho
xã hội, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội hoặc gây khó khăn, cản trở cho q trình giải quyết vụ án. Hay nói cách khác, đó là sự
cá biệt hóa các quy định của BLTTHS về biện pháp tạm giam đối với bị can hoặc bị cáo cụ thể.
Do biện pháp tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong TTHS nên áp dụng biện pháp này phải do
chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiến hành. Điều đó có nghĩa là áp dụng biện pháp tạm giam là hoạt động mang tính
quyền lực Nhà nước. Việc áp dụng biện pháp tạm giam phải dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật về biện pháp này. Do
đó, nó có tính bắt buộc thi hành đối với bị can, bị cáo bị áp dụng. Như vậy, áp dụng biện pháp tạm giam chính là việc cơ quan
tiến hành tố tụng nhân danh Nhà nước để thực thi quy định về biện pháp tạm giam trong quá trình giải quyết vụ án, đảm bảo
cho quá trình TTHS được thuận lợi.
Áp dụng biện pháp tạm giam phải tuân theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Tạm giam là biện pháp
ngăn chặn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do của đối tượng bị áp dụng cũng như những lợi ích khác của họ. Do đó, việc áp dụng
biện pháp này phải được tiến hành theo những căn cứ, điều kiện, trình tự, thủ tục chặt chẽ do BLTTHS quy định. Điều này nhằm
bảo đảm cho việc áp dụng biện pháp tạm giam được đúng đắn, phù hợp yêu cầu cần thiết trong quá trình giải quyết vụ án, tránh
việc áp dung tràn lan, ảnh hưởng quyền lợi chính đáng của bị can, bị cáo.
Áp dụng biện pháp tạm giam được thực hiện đối với từng bị can hoặc bị cáo cụ thể khi có căn cứ theo quy định của
pháp luật. Tạm giam là biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với bị can, bị cáonthuộc những trường hợp luật định mới có thể
bị tạm giam. Thậm chí đối với các bị can, bị cáo trong cùng một vụ án thì việc áp dụng biện pháp tạm giam cũng chỉ được tiến
hành đối với những bị can, bị cáo thuộc trường hợp pháp luật quy định, cịn những bị can, bị cáo khác có thể khơng áp dụng
hoặc áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn. Mặt khác, việc áp dụng biện pháp tạm giam là hoạt động mang
tính lựa chọn chứ khơng phải là bắt buộc. Tức là tuy bị can, bị cáo thuộc những trường hợp pháp luật quy định tạm giam
nhưng căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, đặc điểm nhân thân củahọ, cơ quan có thẩm quyền có thể quyết
định áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn đối với những người đó.
Từ những phân tích về đặc điểm của hoạt động áp dụng biện pháp tạm giam trên cho thấy, áp dụng biện pháp tạm
giam là hoạt động có tổ chức, mang tính qùn lực nhà nước, do người có thẩm quyền trong cơ quan tiến hành tố tụng tiến
hành nhằm cá biệt hóa các quy định của pháp luật về biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo, đảm bảo thuận lợi cho quá
trình giải quyết VAHS.

1.2.


Áp dụng biện pháp tạm giam theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

1.2.1. Đối tượng áp dụng biện pháp tạm giam
Theo quy định tại Điều 119 BLTTHS năm 2015 thì tạm giam có thể áp dụng đối với những đối tượng sau:

- Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng.
-

Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định
người đó:
+ Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
+ Khơng có nơi cư trú rõ ràng hoặc khơng xác định được lý lịch của bị can;
+ Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
+ Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
+ Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả
mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị
hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

-

Bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và
bị bắt theo quyết định truy nã [28, tr 110].
Theo đó, người bị áp dụng biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo. Khoản 1 Điều 60 BLTTHS năm 2015
quy định bị can là người hoặc pháp nhân đã bị khởi tố về hình sự. Tức là đối với họ đã có quyết định khởi tố bị can của cơ
quan có thẩm qùn tiến hành tố tụng. Cịn bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử, hay nói
cách khác đối với họ đã có quyết định đưa vụ án


ra xét xử của Tòa án (Khoản 1 Điều 61 BLTTHS năm 2015). Trong trường hợp này, bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giam

là con người cụ thể. Tuy nhiên, không phải bị can, bị cáo nào cũng bị áp dụng biện pháp tạm giam mà phải thuộc những trường
hợp nhất định theo quy định của pháp luật [28, tr 54 – 56]. Đó là các trường hợp:
Thứ nhất là bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Tội phạm rất nghiêm trọng là
tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định
đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù
đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình (Khoản 1 Điều 9 BLHS năm 2015). Nếu bị can hoặc bị cáo thuộc vào những trường
hợp này thì họ có thể bị tạm giam mà khơng cần thêm điều kiện nào khác.
Thứ hai là bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 02
năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp: Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi
phạm; khơng có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can; bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc
có dấu hiệu bỏ trốn; tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội; có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người
khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên
quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những
người này. Đối với trường hợp này, điều kiện đầu tiên là bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng
mà BLHS quy định hình phạt tù trên 02 năm. Đồng thời, để có thể tạm giam đối với bị can, bị cáo phạm tội trong trường hợp
này, cơ quan tiến hành tố tụng phải làm rõ thêm điều kiện thứ hai là bị can, bị cáo đó thuộc một trong năm trường hợp đã nêu
ở trên. Điều này tạo thuận lợi cho cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định căn cứ để áp dụng biện pháp này cũng như
đảm bảo tính chặt chẽ trong việc áp dụng biện pháp tạm giam, tránh việc áp dụng mang tính chủ quan, tràn lan, ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích chính đáng của bị can, bị cáo.
Thứ ba là bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm
tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã. Đây là trường hợp mới được BLTTHS năm 2015 quy định về đối tượng có
thể bị áp dụng biện pháp tạm giam. Theo đó, bị can, bị cáo nếu phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù đến
02 năm mà họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã thì vẫn có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam.
Quy định này nhằm đảm bảo cho quá trình giải quyết VAHS được thuận lợi, thể hiện tính tồn diện, bao quát của pháp luật
trong việc loại bỏ tất cả các trường hợp mà bị can, bị cáo có thể gây khó khăn cho q trình giải quyết vụ án, kể cả khi người
đó phạm tội ít nghiêm trọng với mức hình phạt luật định khơng cao nhưng có hành vi gây khó khăn cho q trình TTHS như
tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn.
Đối với các trường hợp áp dụng biện pháp tạm giam nêu trên, việc áp dụng biện pháp này là vấn đề mang tính lựa
chọn chứ không phải là bắt buộc đối với bị can, bị cáo. Điều đó có nghĩa là tuy bị can, bị cáo thuộc các trường hợp nêu trên

với đầy đủ các dấu hiệu pháp luật quy định nhưng vẫn có thể không bị áp dụng biện pháp tạm giam. Việc áp dụng biện pháp
này chỉ được đặt ra khi thật sự cần thiết nhằm tạo thuận lợi cho quá trình giải quyết vụ án hoặc cần để ngăn chặn tội phạm tiếp
tục xảy ra, gây thiệt hại cho xã hội và xét thấy chỉ có thể áp dụng biện pháp tạm giam chứ không thể áp dụng biện pháp nào
khác. Nếu bị can, bị cáo thuộc trường hợp nêu trên nhưng căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi,
nhân thân… của người đó mà các cơ quan tiến hành tố tụng có thể quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn khác thay thế như
bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm mà không áp dụng dụng biện pháp tạm giam.
Trên cơ sở tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa, BLTTHS năm 2015 quy định những trường hợp cụ thể không áp dụng
biện pháp tạm giam. Đó là bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang ni con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị
bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng. Tuy nhiên, những đối tượng này vẫn có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam nếu
thuộc các trường hợp cụ thể sau:

- Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;
- Tiếp tục phạm tội;
-

Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối,


cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa,
khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;

-

Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu khơng tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại
đến an ninh quốc gia [28, tr 110].
Quy định này của BLTTHS năm 2015 đã thể hiện rõ nét nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong việc tôn trọng
quyền con người, quyền của trẻ em, người cao tuổi. Với tư cách là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất, việc tạm giam sẽ
không thể đảm bảo các điều kiện sinh hoạt thiết yếu cho phụ nữ có thai, nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi hay người già
yếu, người bị bệnh nặng. Do đó, trong trường hợp những người này có nơi cư trú rõ ràng, cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp
dụng các biện pháp ngăn chặn khác để bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền.


1.2.2. Thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam
Với tư cách là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong TTHS, BLTTHS quy định một phạm vi hẹp những chủ
thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp này. Theo đó, chỉ những người sau đây mới có quyền ra lệnh, quyết định tạm giam bị
can, bị cáo:

-

Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;

-

Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS quân sự các cấp;

-

Chánh án, Phó Chánh án TAND và Chánh án, Phó Chánh án Tịa án quân sự các cấp; HĐXX [1, tr 257 - 258].
Tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng khác nhau mà các chủ thể nêu trên sẽ có quyền áp dụng biện pháp tạm giam trong
giai đoạn tố tụng mà mình được giao nhiệm vụ chính khi giải quyết vụ án. Trong đó, VKS với chức năng kiểm sát q trình
giải quyết vụ án sẽ thực hiện việc kiểm tra, giám sát việc tiến hành các hoạt động này. Đặc biệt, lệnh tạm giam của Thủ
trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT các cấp phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.

1.2.3. Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam
Hiện nay, Bộ luật TTHS chưa quy định cụ thể về căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam mà chỉ quy định về căn cứ áp
dụng biện pháp ngăn chặn nói chung trong TTHS. Như vậy, có thể xác định căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam như sau:

- Để kịp thời ngăn chặn tội phạm
"Kịp thời ngăn chặn tội phạm" là ngăn không cho tội phạm đang được chuẩn bị xảy ra hoặc không cho tội phạm
đang xảy ra được tiếp tục. Ngăn chặn kịp thời tội phạm có thể tránh được hậu quả hoặc làm giảm bớt hậu quả của tội phạm.
Ngăn chặn kịp thời tội phạm có thể tránh được hậu quả của tội phạm vì ngăn chặn kịp thời sẽ không cho tội phạm được thực

hiện, bảo vệ nguyên vẹn khách thể của tội phạm. Căn cứ này được áp dụng trong trường hợp khi có căn cứ cho rằng một
người hoặc một nhóm người nào đó đang chuẩn bị thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Căn
cứ này thể hiện rất rõ trong trường hợp bắt người khẩn cấp. Ngăn chặn kịp thời tội phạm làm giảm bớt hậu quả của tội phạm,
căn cứ này thường được áp dụng khi hành vi phạm tội đã xảy ra nhưng chưa kết thúc, ngăn chặn kịp thời trong trường hợp này
là ngăn cản không cho người thực hiện hành vi phạm tội thực hiện tội phạm đến cùng. Việc áp dụng căn cứ này thường thấy
trong trường bắt người phạm tội quả tang khi người đó đang thực hiện một tội phạm cụ thể nào đó. Căn cứ để kịp thời ngăn
chặn tội phạm thường được áp dụng đối với người chưa bị khởi tố bị can, nhưng đã có tài liệu, căn cứ xác đáng để cho rằng
một người hoặc một nhóm người chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc đang thực hiện
một tội phạm cụ thể.

- Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Hành vi gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thể hiện qua việc sau khi thực hiện hành vi phạm tội,
người thực hiện tội phạm có thể bỏ trốn, tiêu hủy, làm giả hoặc thay đổi chứng cứ, xóa các dấu vết của vụ án, bàn bạc nhau
trốn tránh pháp luật, mua chuộc, dụ dỗ, lừa phỉnh, cưỡng ép, khống chế người làm chứng, người bị hại... dẫn đến việc gây khó
khăn phức tạp cho việc xác định, làm rõ sự thật khách quan vụ án. Căn cứ này thường được áp dụng sau khi đã có
quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, có


thể áp dụng căn cứ này để bắt, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm sự có mặt của bị
can, bị cáo. Căn cứ này còn được áp dụng ngay cả khi chưa khởi tố vụ án hoặc khởi tố bị can như khi giữ người trong trường
hợp khẩn cấp. Căn cứ này cũng được vận dụng khi bắt người phạm tội quả tang: "... ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị
phát hiện hoặc bị đuổi bắt", cũng như bắt người đang bị truy nã.

- Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội.
Những căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội có thể được thể hiện qua các yếu tố phản ánh về nhân thân
của các bị can, bị cáo: bị can, bị cáo là những phần tử xấu, có ý thức chống đối giai cấp sâu sắc, là những người tái phạm, tái
phạm nguy hiểm, là những tên tội phạm có tính chất chun nghiệp, những tên côn đồ hung hãn coi thường pháp luật. Căn cứ
chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội còn được thể hiện qua hành vi của bị can, bị cáo như đe dọa trả thù người làm
chứng, người bị hại và sự đe dọa đó có khả năng trở thành hiện thực. Một điều cần lưu ý rằng, căn cứ này với căn cứ "để kịp
thời ngăn chặn tội phạm" đều có sự giống nhau về mục đích áp dụng là nhằm khơng để cho tội phạm xảy ra nhưng có sự khác

nhau về đối tượng áp dụng. Ở căn cứ "để kịp thời ngăn chặn tội phạm", đối tượng bị áp dụng là người chưa bị khởi tố, còn ở
căn cứ này đối tượng bị áp dụng phải là bị can hoặc là bị cáo.

- Để đảm bảo thi hành án
Công tác thi hành án hình sự là vấn đề vơ cùng quan trọng. Các bản án, quyết định của Tòa án khi đã có hiệu lực
pháp luật cần phải được đưa ra thi hành. Có như vậy mới nâng cao được tính hiệu quả của pháp luật trong đời sống thực tế.
Chính vì vậy, việc tạo điều kiện để thi hành án là vấn đề rất quan trọng và cần thiết. Khi cần đảm bảo thi hành án, tùy theo tính
chất cụ thể của từng vụ án, tùy theo nhân thân của người bị kết án, Tịa án có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn thích hợp. Tịa
án có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam, áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị cáo để đảm bảo
cho việc thi hành án (trong những trường hợp mà luật định), cịn nếu có đủ cơ sở cho rằng bị cáo sẽ không bỏ trốn, khơng gây
cản trở khó khăn cho việc thi hành án thì khơng cần áp dụng biện pháp tạm giam mà chỉ cần áp dụng những biện pháp ngăn
chặn khác ít nghiêm khắc hơn như cấm đikhỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm cũng đủ để bảo đảm cho
việc chấp hành án của người bị kết án.

1.2.4. Thủ tục áp dụng biện pháp tạm giam
Là biện pháp ngăn chặn mang tính nghiêm khắc cao đối với bị can, bị cáo trong vụ án, việc áp dụng biện pháp tạm
giam phải tuân theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định.
Trong trường hợp bị can, bị cáo còn đang tại ngoại thì cơ quan có thẩm qùn tiến hành tố tụng phải tiến hành bắt bị
can, bị cáo để tạm giam khi có căn cứ theo quy định của pháp luật. Thủ tục tiến hành hoạt động này được thực hiện theo quy
định tại khoản 2, khoản 3 Điều 113 BLTTHS:

- Lệnh bắt, quyết định phê chuẩn lệnh, quyết định bắt phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị bắt; lý do bắt và các nội dung quy
định tại khoản 2 Điều 132 của BLTTHS.

- Người thi hành lệnh, quyết định phải đọc lệnh, quyết định; giải thích lệnh, quyết định, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và
phải lập biên bản về việc bắt; giao lệnh, quyết định cho người bị bắt.

- Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người khác chứng kiến.
Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó làm việc, học tập phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập
chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến

hành bắt người.

- Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã [28, tr 104].
Bên cạnh đó, lệnh tạm giam của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT các cấp phải được VKS cùng cấp phê chuẩn
trước khi thi hành. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ liên quan đến
việc tạm giam, VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. VKS phải hoàn trả hồ sơ cho CQĐT
ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn.
Tạm giam không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân người bị áp dụng (bị hạn chế về quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, quyền tự do, danh dự của công


dân) mà còn ảnh hưởng đến thân nhân của họ. Do đó, sau khi đã ra lệnh, quyết định tạm giam, cơ quan đã ra lệnh, quyết định
đó phải thơng báo ngay cho gia đình người bị tạm giam, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người bị tạm giam cư trú hoặc
cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam làm việc, học tập biết. Đồng thời còn cần phải đảm bảo các thủ tục liên quan khác như
chăm sóc người thân thích, bảo quản tài sản của người bị tạm giam.

1.2.5. Thời hạn tạm giam
Trong BLTTHS năm 2015, thời hạn tạm giam không được quy định tập trung ở một điều luật mà được quy định
theo từng giai đoạn của quá trình tố tụng. Cụ thể:

- Tạm giam để điều tra
Điều 173 BLTTHS năm 2015 quy định thời hạn tạm giam để điều tra không quá 2 tháng đối với tội ít nghiêm trọng,
khơng q 3 tháng đối với tội nghiêm trọng, không quá 4 tháng đối với tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng.
Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và khơng có căn cứ để thay
đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn tạm giam, CQĐT phải có văn bản đề nghị
VKS gia hạn tạm giam. Việc gia hạn tạm giam được quy định như sau: Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn
tạm giam một lần không quá 1 tháng. Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần, không quá 2
tháng. Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 3 tháng. Đối với tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, mỗi lần không quá 4 tháng. Như vậy, đối với tội phạm ít nghiêm trọng
thời hạn tạm giam để điều tra tối đa có thể là 3 tháng, đối với tội phạm nghiêm trọng tối đa có thể là 5 tháng, đối với tội phạm

rất nghiêm trọng tối đa có thể là 7 tháng, cịn đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng tối đa có thể lên đến 12 tháng.
Trường hợp cần thiết đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng không phải là tội xâm phạm an ninh quốc gia và khơng
có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng VKSNDTC có qùn gia hạn thêm một lần nhưng
khơng q 04 tháng; trường hợp đặc biệt khơng có căn cứ để hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng VKSNDTC quyết
định việc tạm giam cho đến khi kết thúcviệc điều tra. Trường hợp cần thiết đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, Viện
trưởng VKSNDTC có quyền gia hạn thêm một lần không quá 04 tháng. Trường hợp thời hạn gia hạn tạm giam quy định tại
khoản này đã hết mà chưa thể kết thúc việc điều tra và khơng có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện
trưởng VKSNDTC có quyền gia hạn thêm một lần nhưng không quá 01 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 02
tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trường hợp đặc biệt đối
với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia mà khơng có căn cứ để hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện
trưởng VKSNDTC quyết định việc tạm giam cho đến khi kết thúc việc điều tra [28, tr 161 – 165].
So sánh thời hạn tạm giam để điều tra (quy định tại Điều 173) với thời hạn điều tra (quy định tại Điều 172) thì thời
hạn tạm giam để điều tra bằng với thời hạn điều tra còn thời hạn gia hạn tạm giam để điều tra, trừ trường hợp đặc biệt đối với
tội xâm phạm an ninh quốc gia và tội đặc biệt nghiêm trọng khác, ngắn hơn thời hạn gia hạn để điều tra. Với quy định này nhà
làm luật nhằm mục đích hạn chế việc lạm dụng gia hạn tạm giam, đồng thời cịn có ý nghĩa trong việc đảm bảo CQĐT cần
phải đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án, nếu không thời hạn tạm giam với bị can sẽ hết mặc dù thời hạn điều tra vẫn còn.
- Tạm giam để truy tố
Điều 241 BLTTHS năm 2015 quy định: “Thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn truy tố không
được quá thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 240 của Bộ luật này”. Theo quy định tại khoản 1 Điều 240: “Trong thời hạn 20
ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Viện kiểm sát phải ra một trong các quyết định:

a) Truy tố bị can trước Tòa án;
b) Trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung;
c) Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án đối với bị can.
Trường hợp cần thiết, Viện trưởng VKS có thể gia hạn thời hạn quyết định việc truy tố nhưng không quá 10 ngày
đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 15 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng, không quá
30



ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” [28, tr 218].
Như vậy, thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung, tạm giam nói riêng trong giai đoạn truy tố đối với tội
phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng tối đa có thể lên đến 30 ngày, đối với tội phạm rất nghiêm trọng tối đa có thể
lên đến 45 ngày, cịn đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thời hạn tạm giam để truy tố tối đa có thể lên đến 60 ngày.

- Tạm giam để xét xử sơ thẩm
Khoản 2 Điều 278 BLTTHS năm 2015 quy định: “Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn
chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều 277 của Bộ luật này” [28, tr 247]. Theo quy định tại Điều 277 BLTTHS, thời hạn
chuẩn bị xét xử là 30 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, 2 tháng đối với tội phạm
rất nghiêm trọng, 3 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày thụ lý vụ án. Đối với những vụ án phức tạp,
Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn nhưng khơng q 15 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm
trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Sau khi có quyết định đưa vụ
án ra xét xử thì thời hạn tạm giam để mở phiên tòa là từ 15 đến 30 ngày. Ngoài ra, đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến
ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần thiết thì HĐXX ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa
[28]. Như vậy, thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử tối đa (kể cả gia hạn) là 75 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 90
ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, 120 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
thì thời hạn này có thể lên đến 150 ngày.

- Tạm giam để xét xử phúc thẩm
Điều 347 BLTTHS năm 2015 quy định: Sau khi thụ lý vụ án, Tịa án cấp phúc thẩm có qùn quyết định việc áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế. Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam do Chánh
án, Phó Chánh án Tòa án quyết định. Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm
quy định tại Điều 346 của BLTTHS. Theo quy định tại Điều 346 BLTTHS năm 2015, TAND cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân
khu phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn 60 ngày; TAND cấp cao, Tòa án quân sựtrung ương phải mở phiên tòa phúc
thẩm trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án. Như vậy, thời hạn tạm giam để phục vụ xét xử phúc thẩm là 60
ngày đối với vụ án do TAND cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu thụ lý, 90 ngày đối với vụ án do TAND cấp cao, Tòa án quân
sự trung ương thụ lý [28, tr 289- 290].
Trường hợp còn thời hạn tạm giam bị cáo mà xét thấy cần phải tiếp tục tạm giam thì Tịa án cấp phúc thẩm sử dụng
thời hạn tạm giam theo quyết định tạm giam của Tòa án cấp sơ thẩm. Trường hợp đã hết thời hạn tạm giam bị cáo theo quyết
định tạm giam của Tòa án cấp sơ thẩm thì Chánh án, Phó Chánh án Tịa án ra quyết định tạm giam mới.


- Tạm giam để đảm bảo thi hành án
Sau khi xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm, HĐXX có thể quyết định việc tạm giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án.
Đối với giai đoạn xét xử sơ thẩm, Điều 329 BLTTHS năm 2015 quy định: Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà bị xử phạt tù
nhưng xét thấy cần tiếp tục tạm giam để bảo đảm thi hành án thì HĐXX ra quyết định tạm giam bị cáo. Trường hợp bị cáo
không bị tạm giam nhưng bị xử phạt tù thì chỉ bị bắt tạm giam để chấp hành hình phạt khi bản án đã có hiệu lực pháp luật.
HĐXX có thể ra quyết định bắt tạm giam bị cáo ngay tại phiên tịa nếu có căn cứ cho thấy bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục
phạm tội. Thời hạn tạm giam bị cáo là 45 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo bị xử phạt tử hình thì HĐXX tiếp tục tạm
giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.
Tại phiên tòa phúc thẩm, theo quy định tại khoản 3 Điều 347 BLTTHS năm 2015, nếu bị cáo đang bị tạm giam bị xử
phạt tù mà đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết thì HĐXX ra quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi
hành án. Đối với bị cáo khơng bị tạm giam nhưng bị xử phạt tù thì HĐXX có thể ra quyết định bắt tạm giam bị cáo ngay sau
khi tuyên án. Thời hạn tạm giam là 45 ngày kể từ ngày tuyên án [28, tr 278].
Về việc khấu trừ thời hạn tạm giam vào thời hạn chấp hành hình phạt, theo quy định của BLHS năm 2015 sửa đổi
năm 2017, thời hạn tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ một ngày tạm giam bằng một ngày tù. Quy
định này không chỉ áp dụng đối với người bị tạm giam liên tục cho đến khi xét xử mà còn áp dụng đối với cả những người bị
áp dụng các BPNC khác sau một thời gian bị


tạm giam. Những hình phạt khác khơng phải là hình phạt tù có thời hạn như cảnh cáo, phạt tiền hoặc tử hình thì khơng áp
dụng quy định này mặc dù trước đó họ có bị tạm giam. Riêng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc cải tạo ở đơn vị kỷ luật
của quân đội và hình phạt tù chung thân thì thời hạn tạm giam sẽ được tính vào thời hạn chấp hành hình phạt tù theo nguyên
tắc sau: Tù chung thân là hình phạt tù khơng thời hạn nhưng thời hạn bị tạm giam vẫn được tính khi người bị kết án được xem
xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Việc xét giảm án đối với người bị kết án tù chung thân được xác định như sau: thời
gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 12 năm đối với tù chung thân và người bị kết án tù chung thân, lần
đầu được giảm xuống 30 năm và dù được giảm nhiều lần cũng phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 20 năm.

1.2.6. Chế độ tạm giam và quyền của người bị tạm giam
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn được áp dụng để đảm bảo cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng và
khơng để cho người phạm tội có điều kiện thực hiện tội phạm. Biện pháp ngăn chặn này không phải là hình phạt đối với người

phạm tội, do đó chế độ tạm giữ, tạm giam khác với chế độ đối với người đang chấp hành hình phạt tù. Nơi tạm giữ, tạm giam,
chế độ sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình và các chế độ khác được thực hiện theo quy định của Chính phủ. Theo quy
định của BLTTHS, khơng ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của tịa án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị tạm giữ,
tạm giam là người chưa bị coi là có tội. Do vậy, chế độ tạm giữ, tạm giam phải khác với chế độ đối với người đang chấp hành
hình phạt tù.
Trên cơ sở quy định của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 và Nghị định số
120/2017/NĐ-CP ngày 06/11/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam, chế độ
giam giữ cũng như quyền của người bị tạm giam được quy định như sau:
Thứ nhất, người bị tạm giam được tổ chức giam tại nhà tạm giữ hoặc trại tạm giam. Theo quy định chỉ có một số
lượng nhất định người bị áp dụng BPTG được giam tại nhà tạm giữ. Còn lại tất cả cần được giam tại nhà tạm giam. Trại tạm
giam có phân trại tạm giam, khu giam giữ, buồng tạm giam, buồng tạm giữ, buồng giam người đang chờ chấp hành án phạt tù,
buồng giam người bị kết án tử hình, buồng kỷluật, phân trại quản lý phạm nhân; các công trình phục vụ việc quản lý giam giữ,
hoạt động tố tụng, thi hành án, sinh hoạt, chăm sóc y tế, giáo dục người bị tạm giữ, người bị tạm giam, thi hành án phạt tù; các
cơng trình làm việc, sinh hoạt của sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân, viên chức công tác tại
trại tạm giam.
Thứ hai, về chế độ áp dụng đối với người bị tạm giam được thực hiện theo quy định của Luật thi hành tạm giữ, tạm
giam, Nghị định số 120/2017/NĐ-CP ngày 06/11/2017 của Chính phủ như sau:
- Người bị tạm giữ, người bị tạm giam được bảo đảm tiêu chuẩn định lượng về gạo, rau, thịt, cá, đường, muối, nước
chấm, bột ngọt, chất đốt, điện, nước sinh hoạt. Thủ trưởng cơ sở giam giữ quyết định việc hoán đổi định lượng ăn cho phù hợp với
thực tế để bảo đảm cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam ăn hết tiêu chuẩn.
Căn cứ yêu cầu bảo đảm sức khỏe của người bị tạm giữ, người bị tạm giam, Chính phủ quy định cụ thể định mức ăn
phù hợp với điều kiện kinh tế, ngân sách và biến động giá cả thị trường. Cụ thể:
+ Định mức ăn trong một tháng của người bị tạm giam gồm: 17 kg gạo tẻ loại trung bình, 0,5 kg đường loại trung
bình, 15 kg rau, 0,7 kg thịt, 0,8 kg cá, 01 kg muối, 0,75 lít nước chấm, 0,1 kg bột ngọt và chất đốt tương đương 17 kg củi hoặc
15 kg than, 45 kw/h điện, 3m3 nước để đảm bảo phục vụ ăn, uống và sinh hoạt của người bị tạm giữ, người bị tạm giam [11].
Định mức trên do Nhà nước cấp và quy ra tiền theo thời giá thị trường ở nơi có cơ sở giam giữ. Ngày lễ, tết theo quy định của
pháp luật, người bị tạm giữ, người bị tạm giam được ăn thêm nhưng mức ăn khơng q 5 lần tiêu chuẩn ăn ngày thường.
Ngồi tiêu chuẩn ăn theo quy định trên, người bị tạm giam được sử dụng quà, tiền gửi lưu ký để ăn thêm nhưng không quá 03
lần tiêu chuẩn ăn ngày thường.
+ Mỗi cơ sở giam giữ được tổ chức bếp ăn có đủ các dụng cụ cần thiết để bảo quản lương thực, thực phẩm, phục vụ

việc nấu ăn, cung cấp suất ăn, nước uống cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam phù hợp với địa điểm, quy mô và nhu cầu
thực tế của cơ sở giam giữ. Việc tổ chức bếp ăn ở cơ sở giam giữ phải bảo đảm đúng định mức ăn và vệ sinh, an toàn thực
phẩm.
+ Người bị tạm giam được nhận quà của thân nhân gửi đến không quá ba lần trong 01 tháng. Định lượng quà là đồ
ăn, uống cho mỗi lần gửi không được vượtquá ba lần tiêu chuẩn ăn ngày thường. Thủ trưởng cơ sở giam giữ tổ chức tiếp
nhận, kiểm tra loại bỏ các vật bị cấm và giao đầy đủ cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam; kiểm tra, phòng ngừa, ngăn
chặn các hành vi chiếm đoạt quà, đồ dùng sinh hoạt của người bị tạm giữ, người bị tạm giam [11]. Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng quy định cụ thể loại quà mà thân nhân người bị tạm giữ, người bị tạm giam được phép gửi. Các loại
quà mà thân nhân người bị tạm giữ, người bị tạm giam được gửi gồm: tiền, thuốc chữa bệnh, thuốc bổ, đồ ăn, uống, đồ dùng
sinh hoạt và tư trang cá nhân (trừ các đồ vật thuộc danh mục cấm). Nghiêm cấm người bị tạm giam dùng rượu, bia, thuốc lá


và các chất kích thích độc hại khác. Ngồi việc nhận quà khi gặp thân nhân, người bị tạm giam còn được nhận quà của thân
nhân gửi tại cơ sở giam giữ, trọng lượng quà mỗi lần gửi không quá 03 kg; được nhận tiền của thân nhân gửi qua đường bưu
điện. Cơ sở giam giữ được tổ chức hoạt động căng tin để phục vụ bán đồ ăn, uống, đồ dùng sinh hoạt thiết yếu cho người bị
tạm giam và thân nhân của họ khi đến thăm gặp. Hàng hóa trong căng tin phải đảm bảo chất lượng và vệ sinh an toàn thực
phẩm. Thủ trưởng cơ sở giam giữ duyệt giá các loại hàng hóa theo từng thời điểm để đảm bảo giá bán tương đương với giá
bán lẻ trên thị trường tại địa phương và được niêm yết công khai. Thủ trưởng cơ sở giam giữ quyết định việc tiếp nhận hoặc từ
chối tiếp nhận quà do cơ quan, tổ chức, cá nhân gửi cho người bị tạm giam đảm bảo đúng quy định.

- Chỗ nằm tối thiểu của mỗi người bị tạm giam là 02 mét vng (m2), được bố trí sàn nằm và có chiếu. Người bị bị tạm giam
được sử dụng quần, áo, chăn, chiếu, màn và các đồ dùng cần thiết cho sinh hoạt của cá nhân, nếu thiếu thì cơ sở giam giữ cho
mượn theo tiêu chuẩn mỗi người gồm: 01 chiếu, 01 màn cá nhân, 01 đôi dép, 02 bộ quần áo dài, 01 áo ấm mùa đông và 01
chăn (các cơ sở giam giữ từ thành phố Đà Nẵng trở vào dùng chăn sợi, từ tỉnh Thừa Thiên Huế trở ra dùng chăn bông loại
không quá 02kg).
Người bị tạm giam là phụ nữ được cấp thêm đồ dùng cần thiết cho vệ sinh của phụ nữ giá trị tương đương 02 kg gạo
tẻ loại trung bình/01 tháng.

- Người bị tạm giam chỉ được gửi, nhận thư, sách, báo, tài liệu khi được cơ quan đang thụ lý vụ án cho phép và chịu sự kiểm
duyệt của cơ quan đang thụ lý vụ án và sự kiểm tra của cơ sở giam giữ.

Cơ sở giam giữ có trách nhiệm hướng dẫn cho các tổ chức, cá nhân và thânnhân của người bị tạm giam về việc gửi,
nhận thư, sách, báo, tài liệu, khi được sự đồng ý của cơ quan đang thụ lý vụ án thì cho người bị tạm giam nhận.

- Người bị tạm giam được hưởng chế độ khám bệnh, chữa bệnh, phòng, chống dịch bệnh. Trường hợp bị ốm đau, bệnh tật,
thương tích thì được khám và điều trị tại cơ sở y tế của cơ sở giam giữ; nếu bị bệnh nặng hoặc thương tích vượt quá khả năng
của cơ sở giam giữ thì được chuyển đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cấp huyện, cấp tỉnh, bệnh viện quân đội hoặc bệnh viện
trung ương khám, điều trị. Cơ sở giam giữ phải thông báo cho thân nhân hoặc đại diện hợp pháp của người đó biết để phối
hợp chăm sóc, điều trị. Chế độ ăn, sử dụng thuốc, bồi dưỡng do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh chỉ định. Người bị tạm giam
được nhận thuốc chữa bệnh từ thân nhân và phải có đơn thuốc của thầy thuốc, chịu sự kiểm tra của cơ sở giam giữ.

- Cơ sở giam giữ được trang bị hệ thống truyền thanh. Trung bình hai mươi người bị tạm giam hoặc cơ sở giam giữ có dưới hai
mươi người bị tạm giam thì được cấp một tờ báo địa phương hoặc báo trung ương. Thủ trưởng cơ sở giam giữ tổ chức cho
người bị tạm giam nghe đài phát thanh, đọc báo. Nếu có điều kiện thì tổ chức cho họ xem chương trình truyền hình địa
phương và trung ương.
Thứ ba, về chế độ chăm nom người thân và bảo quản tài sản của người bị tạm giữ, tạm giam. Điều 120 BLTTHS
quy định:

- Trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam có người thân thích là người tàn tật, già yếu, có nhược điểm về tâm thần mà khơng có
người chăm sóc thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh hoặc quyết định tạm giam giao người đó cho người thân thích khác
chăm nom; trường hợp khơng có người thân thích thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh hoặc quyết định tạm giam giao
những người đó cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi họ cư trú chăm nom. Việc chăm sóc, ni dưỡng trẻ em là con của
người bị tạm giữ, tạm giam thực hiện theo quy định của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam.

- Trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam có nhà ở hoặc tài sản khác mà khơng có người bảo quản thì cơ quan ra quyết định tạm
giữ, lệnh hoặc quyết định tạm giam phải áp dụng những biện pháp bảo quản.

-

Cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh hoặc quyết định tạm giam thông báo cho người bị tạm giữ, tạm giam biết việc


chăm nom, chăm sóc người thân thích và bảo quản tài sản của họ. Việc thông báo được lập văn bản và đưa vào hồ sơ vụ án[28].
Khi bị tạm giam, bị can, bị cáo sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp tới những quyền tự
do cơ bản của mình. Tuy vậy, xuất phát từ tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa cũng như tôn trọng, bảo vệ quyền con người, quyền
và lợi ích chính đáng của công dân, pháp luật nước ta vẫn quy định cho người bị tạm giam có được những quyền nhất định để
có thể bảo vệ qùn lợi chính đáng của họ. Cụ thể, người bị tạm giam có những quyền sau:

- Được bảo vệ an tồn tính mạng, thân thể, tài sản, tôn trọng danh dự, nhân phẩm; được phổ biến các quyền và nghĩa vụ của
mình, nội quy của cơ sở giam giữ;

- Được thực hiện quyền bầu cử theo quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, quyền bỏ
phiếu trưng cầu ý dân theo quy định của Luật trưng cầu ý dân;


- Được bảo đảm chế độ ăn, ở, mặc, đồ dùng sinh hoạt cá nhân, chăm sóc y tế, sinh hoạt tinh thần, gửi, nhận thư, nhận quà, nhận
sách, báo, tài liệu;

- Được gặp thân nhân, người bào chữa, tiếp xúc lãnh sự;
- Được hướng dẫn, giải thích và bảo đảm thực hiện quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa, trợ giúp pháp lý;
- Được gặp người đại diện hợp pháp để thực hiện giao dịch dân sự;
- Được yêu cầu trả tự do khi hết thời hạn tạm giữ, thời hạn tạm giam;
- Được khiếu nại, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật;
- Được bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước nếu bị giam, giữ trái pháp luật;
- Được hưởng các quyền khác của công dân nếu không bị hạn chế bởi quy định của pháp luật, trừ trường hợp các qùn đó
khơng thể thực hiện được do họ đang bị tạm giữ, tạm giam [34].

1.3.

Khái quát lịch sử lập pháp về biện pháp tạm giam trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và quy định về biện pháp
này trong pháp luật của một số nước trên thế giới


1.3.1. Khái quát lịch sử lập pháp về biện pháp tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam
Trong lịch sử lập pháp TTHS Việt Nam, biện pháp tạm giam lần đầu tiên được ghi nhận trong Sắc lệnh số 13/SL
ngày 24/01/1946 về Tổ chức Tòa án vàngạch Thẩm phán; Sắc lệnh số 40/SL ngày 29/03/1946 về bảo đảm quyền tự do cá
nhân; Sắc lệnh số 131/SL ngày 20/07/1946 về tổ chức bộ máy Tư pháp Công an và Sắc lệnh số 85/SL ngày 7/11/1950 về cải
cách bộ máy Tư pháp. Căn cứ vào các văn bản này thì “Tư pháp Cơng an có nhiệm vụ bắt người phạm pháp và giao cho các
Tòa án xét xử, quyền ký lệnh tạm giam bị cáo thuộc về ông giám đốc ty Liêm Phóng”.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc bước vào giai đoạn cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Quốc
hội đã thông qua đạo luật về bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân
dân, đó là Sắc lệnh số 103/SL – L005 được công bố ngày 20/5/1957, trong đó có Chương III quy định về tạm giữ, tạm giam,
tạm tha.
Điều 6 Luật 103/SL – L005 quy định về tạm giam; Điều 7 quy định về thời hạn tạm giam (không quá 2 tháng đối
với các vụ thường phạm mà luật pháp quy định hình phạt tù từ 5 năm trở xuống) và không quá 4 tháng (đối với các vụ phạm
đến an toàn Nhà nước và các vụ thường phạm mà luật pháp quy định hình phạt tù trên 5 năm) và có thể gia hạn 1 đến 2 lần.
Trường hợp phức tạp cần giam lâu hơn thì việc gia hạn tạm giam phải theo trình tự đặc biệt. Người bị tạm giam có quyền
khiếu nại về việc tạm giam hoặc quá thời hạn tạm giam mà chưa được giải quyết.
Sau ngày giải phóng miền Nam, để bảo vệ thành quả cách mạng và chống các thế lực thù địch, phản động, Chính
phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban hành Sắc luật số 02/SL ngày 15/03/1976 (02/SL-76). Sắc luật
02/SL – 76 quy định chặt chẽ hơn về biện pháp tạm giam, mở rộng thẩm quyền bắt để tạm giam đến cấp huyện. Ngoài ra, biện
pháp tạm giam còn được quy định ở các văn bản pháp luật khác như Hiến pháp năm 1959; Hiến pháp năm 1980; Hiến pháp
năm 1992; Hiến pháp 2013; Luật tổ chức VKSND; Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
BLTTHS năm 1988 là một bước tiến vượt bậc trong công tác xây dựng pháp luật. Chế định biện pháp ngăn chặn
được quy định tại Chương V và một số điều ở các chương khác. Biện pháp tạm giam được quy định tại Điều 70 BLTTHS năm
1988. Tuy vậy, sau một thời gian được đưa vào áp dụng, Bộ luật này đã bộc lộ nhiều bất cập. BLTTHS năm 1988 được sửa
đổi, bổ sung ba lần. Quy định về biệnpháp ngăn chặn được sửa đổi, bổ sung trong Luật sửa đổi ngày 30/06/1990 về thẩm
quyền bắt bị can, bị cáo để tạm giam; căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam.
Ngày 21/12/1999, BLHS năm 1999 được Quốc hội thông qua. Để phù hợp với BLHS mới, BLTTHS cũng được sửa
đổi, bổ sung, trong đó có những nội dung liên quan đến biện pháp tạm giam như căn cứ tạm giam; thời hạn tạm giam; tạm
giam người chưa thành niên. Tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần, nhưng BLTTHS năm 1988 nói chung và những quy định
về biện pháp tạm giam nói riêng vẫn tồn tại những nhược điểm, khơng cịn phù hợp với tình hình thực tế, gây khó khăn, lúng
túng cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Trước tình hình đó, Quốc hội đã thông qua BLTTHS năm 2003 ngày 26/11/2003, có

hiệu lực ngày 01/07/2004. BLTTHS năm 2003 là sự kế thừa có chọn lọc và phát triển từ BLTTHS năm 1988, quy định chặt
chẽ, cụ thể hơn về biện pháp tạm giam. Sự bổ sung này là một bước tiến quan trọng trong quá trình hội nhập quốc tế, bảo đảm
tốt hơn quyền tự do dân chủ, tôn trọng các quyền cơ bản của công dân, bảo đảm sự thống nhất và đồng bộ giữa các văn bản
pháp luật khác, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong thời kỳ mới, góp phần nâng cao chất lượng hoạt


động tư pháp nói chung và chất lượng áp dụng chế định tạm giam nói riêng.
Tuy nhiên đến nay BLTTHS 2003 đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế khơng cịn phù hợp với tình hình mới, do vậy ngày
27/11/2015 Quốc Hội đã hơng qua BLTTHS năm 2015, có hiệu lực ngày 01/01/2017 nhằm khắc phục những điểm hạn chế của
BLTTHS năm 2003 và đặt những bước phát triển mới đối với Luật TTHS Việt Nam

1.3.2. Quy định về biện pháp tạm giam trong pháp luật của một số nước trên thế giới
Quy định về biện pháp tạm giam ở một số nước trên thế giới về cơ bản là giống nhau, tuy nhiên, do hệ thống tư
pháp ở mỗi nước có sự khác nhau, cho nên, quy định về biện pháp ngăn chặn, trong đó có biện pháp tạm giam cũng có những
điểm riêng biệt.
Luật TTHS Nhật Bản quy định: "Chỉ có cơng tố viên mới có quyền đề nghị thẩm phán tạm giam người bị tình nghi
để điều tra... Khi nhận được đề nghị của công tố viên, thẩm phán phải nghiên cứu các tài liệu có liên quan, xem xét chứng cứ
và tiến hành thẩm vấn riêng người bị tình nghi..." [6]. Như vậy là luật TTHS Nhật Bản quy định chỉ Thẩm phán mới có quyền
ra lệnh tạm giam, quy định này được hiểu rằng, phàm là Thẩm phán ở bất cứ cấp nào, bất cứ giai đoạn nào của TTHS cũng có
quyền ra lệnh tạm giam.
Nếu thẩm phán thấy có căn cứ hợp lý để tin rằng người bị tình nghi đã phạm tội và nếu trường hợp đang xem xét
thuộc vào một trong những loại sau đây, thì thẩm phán có thể ra quyết định tạm giam người bị tình nghi trong thời hạn 10
ngày: Người bị tình nghi khơng có nơi cư trú cố định; có cơ sở hợp lý để tin rằng người bị tình nghi có thể tiêu hủy chứng cứ;
có cơ sở tin rằng người bị tình nghi có thể chạy trốn. Còn trong tất cả các trường hợp khác, thẩm phán phải bác đề nghị của
công tố viên và ra lệnh trả tự do cho người bị tình nghi. Nếu thẩm phán ra lệnh tạm giam người bị tình nghi và nếu cơng tố
viên khơng thể hồn thành việc điều tra trong thời hạn ban đầu 10 ngày, thì cơng tố viên có thể đề nghị thẩm phán gia hạn tạm
giam thêm 10 ngày nữa.
Trước khi có cáo trạng, người bị tình nghi bị tạm giam được giam hoặc ở nhà tạm giam trước khi xét xử do Bộ Tư
pháp quản lý (kochiso) hoặc ở phòng tạm giam của cảnh sát (ryuchijo) tùy thuộc vào lệnh tạm giam của thẩm phán. Kể từ khi
bị bắt và trong suốt quá trình tố tụng, người bị tình nghi bị bắt có qùn im lặng, và có quyền có luật sư bào chữa.

Điều 20 Luật số 8/1981 của Inđônêsia quy định cảnh sát, cơng tố viên và thẩm phán có qùn tạm giam người bị
tình nghi và bị cáo để thực hiện nhiệm vụ của mình. Họ chỉ có thể ra lệnh tạm giam nếu có đủ bằng chứng để tin tưởng chắc
chắn rằng hành vi hình sự đã xảy ra và trong những tình huống cho phép nghi ngờ rằng người bị tình nghi có thể chạy trốn,
tiêu hủy tang vật hoặc tái phạm. Người bị tình nghi hoặc bị cáo chỉ có thể bị tạm giam khi có trát bắt hoặc lệnh của Tịa án
trong đó miêu tả rõ nhân dạng của người bị tình nghi hoặc của bị cáo, lý do tạm giam, nơi giam, đồng thời giải thích ngắn gọn
tội phạm mà người đó bị nghi là đã thực hiện. Một bản sao của trát bắt hoặc lệnh của Tịa án phải được gửi cho gia đình người
bị bắt. Người bị tình nghi hoặc bị cáo chỉ có thể bị tạm giam nếu người đó đã thực hiện hoặc âm mưu thực hiện một hành vi
hình sự hoặc đồng lõa trong việc thực hiện một tội phạm mà pháp luật quy định phạt tù có thời hạn từ 5 năm trở lên, hoặcnếu
thời hạn phạt tù dưới 5 năm nhưng luật TTHS liệt kê tội đó vào loại tội phạm đặc biệt mà người vi phạm có thể bị tạm giam.
Có ba hình thức tạm giam: Tạm giam tại trại tạm giam của nhà nước; quản chế tại gia; quản chế trong phạm vi thành
phố. Cảnh sát điều tra có qùn tạm giam người bị tình nghi nhiều nhất là 20 ngày, nếu hết thời hạn 20 ngày mà việc điều tra
vẫn chưa kết thúc thì cơng tố viên có thể gia hạn tạm giam thêm 40 ngày. Như vậy, sau 60 ngày điều tra viên phải trả tự do cho
người bị tình nghi. Trát bắt của cơng tố viên chỉ có hiệu lực trong thời hạn nhiều nhất là 20 ngày, nếu việc điều tra vẫn chưa
kết thúc thì thẩm phán Tịa án cấp quận có qùn gia hạn thêm 30 ngày. Sau 50 ngày, công tố viên phải trả tự do cho người bị
tình nghi. Thẩm phán Tịa án cấp quận có qùn bắt giam trong thời hạn 30 ngày, Chánh án Tịa án cấp đó có thể cho phép kéo
dài thời hạn trên thêm 60 ngày nữa. Sau thời hạn 90 ngày, bị cáo phải được trả tự do ngay cả trong trường hợp thẩm phán của
Tòa án cao cấp chưa ra được bản án. Trong trường hợp kháng cáo, thẩm phán Tòa án cao cấp đang giải quyết vụ án có thể ra
lệnh tạm giam bị cáo trong thời hạn nhiều nhất là 30 ngày, hết thời hạn trên mà vụ án vẫn chưa được giải quyết xong, thì
Chánh án Tịa án cao cấp có thể gia hạn tạm giam thêm 60 ngày. Như vậy, sau 90 ngày bị cáo phải được trả lại tự do. Thẩm
phán Tịa án tối cao có qùn ra lệnh tạm giam bị cáo trong thời hạn nhiều nhất là 50 ngày. Trong trường hợp cần thiết phải
xét xử lại vụ án theo trình tự giám đốc thẩm thì Chánh án Tịa án tối cao có thể gia hạn tạm giam thêm 60 ngày. Như vậy, sau
110 ngày, bị cáo phải được trả tự do, ngay cả trong trường hợp các thẩm phán Tòa án tối cao chưa ra được bản án [7].
Quy định về biện pháp ngăn chặn tạm giam của Nhật Bản và của Inđơnêsia có thể nói là hết sức chặt chẽ. Nếu
những quy định trong luật TTHS về biện pháp ngăn chặn của các nước này được tn thủ một cách nghiêm túc thì tính mạng,
danh dự và nhân phẩm của những người bị giam giữ sẽ được tôn trọng, thể hiện nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật. Như vậy, thiết nghĩ rằng quy định về biện pháp ngăn chặn tạm giam trong BLTTHS Việt Nam cũng cần có sự tham


khảo để sửa đổi, bổ sung và quy định cho thống nhất.



×