Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

PHÂN TÍCH cơ sở KHÁCH QUAN HÌNH THÀNH tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH và CHỈ RA TIỀN đề lý LUẬN GIỮ VAI TRÒ QUYẾT ĐỊNH TRONG sự HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.39 KB, 34 trang )

BÀI BÁO CÁO THẢO LUẬN
Mơn: Tư tưởng Hồ Chí Minh

ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH CƠ SỞ KHÁCH QUAN HÌNH THÀNH TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ CHỈ RA TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN GIỮ VAI TRỊ
QUYẾT ĐỊNH TRONG SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH

Hà Nội, năm 2021

Lời cảm ơn

1


Lời đầu tiên, nhóm 5 chúng em xin gửi lời tri ân sâu sắc đến Cô Vũ Thị Thu Hà.
Trong q trình tìm hiểu và học tập bộ mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng em
đã nhận được sự giảng dạy và hướng dẫn rất tận tình, tâm huyết của cơ. Cơ đã
giúp chúng em tích lũy thêm nhiều kiến thức hay và bổ ích. Từ những kiến thức
mà cơ truyền đạt, nhóm 5 xin trình bày lại những gì mình đã tìm hiểu về vấn đề:
“Đề tài 1: Phân tích cơ sở khách quan hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh và chỉ
ra tiền đề lý luận giữ vai trị quyết định trong việc hình thành, phát triển tư tưởng
Hồ Chí Minh” gửi đến cơ.
Chúng em đã vận dụng, nghiên cứu, tìm hiểu thêm kiến thức để làm bài tiểu
luận, tuy nhiên kiến thức về bộ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh của chúng em vẫn
cịn những hạn chế nhất định. Do đó, khơng tránh khỏi những thiếu sót trong q
trình hồn thành bài tiểu luận này. Mong cơ xem và góp ý để bài tiểu luận của
chúng em được hồn thiện hơn.
Kính chúc cơ hạnh phúc và thành công hơn nữa trong sự nghiệp “trồng người”.
Mong rằng cô ln dồi dào sức khỏe để tiếp tục dìu dắt nhiều thế hệ học trò đến
những bến bờ tri thức.


Chúng em xin chân thành cảm ơn!

2


Mục lục

PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................................4
PHẦN NỘI DUNG......................................................................................................5
Chương 1. Cơ sở khách quan hình thành tư tưởng hồ chí minh............................5
1.1. Cơ sở thực tiễn......................................................................................................5
1.1.1. Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX......................................5
1.1.2. Thực tiễn thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.........................................6
1.2. Tiền đề tư tưởng lý luận.......................................................................................7
1.2.1. Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam........................................7
1.2.1.1. Chủ nghĩa yêu nước, ý chí quật cường, đấu tranh bất khuất.....................7
1.2.1.2. Tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái.................................................10
1.2.1.3. Phẩm chất cần cù, chịu khó, dũng cảm,thơng minh, sáng tạo.................11
1.2.1.4. Tinh thần lạc quan, ý chí vươn lên mọi khó khăn thử thách và quý
trọng người tài......................................................................................................12
1.2.1.5. Niềm tự hào về dân tộc lịch sử, trân trọng văn hóa, ngơn ngữ,
phong tục tập qn và những giá trị tốt đẹp khác................................................14
1.2.2 Tinh hoa văn hóa nhân loại...........................................................................14
1.2.2.1 Tư tưởng và văn hóa phương Đơng..........................................................15
1.2.2.2 Tinh hoa văn hóa phương Tây...................................................................17
1.2.3. Chủ nghĩa Mác – Lênin................................................................................17
Chương 2. Tiền đề lý luận giữ vai trò quyết định trong việc hình thành,
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh............................................................................19

3



2.1. Chủ nghĩa Mác-Lênin là tiền đề lý luận quan trọng nhất, giữ vai trị
quyết định trong việc hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh..................19
2.2. Lý do Chủ nghĩa Mác-Lênin là tiền đề lý luận quan trọng nhất, giữ vai
trị quyết định trong việc hình thành,phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.............20
2.2.1.Chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc lý luận khoa học thống nhất.............20
2.2.2. Chủ nghĩa Mác – Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định
bản chất của tư tưởng Hồ Chí Minh......................................................................21
2.2.3. Hồ Chí Minh vận dụng và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin......................22
PHẦN KẾT LUẬN....................................................................................................28

4


PHẦN MỞ ĐẦU

Chủ tịch Hồ Chí Minh ln là tấm gương sáng về đạo đức và thực hành đạo
đức cho tất cả mọi người noi theo.Người là danh nhân văn hóa thế giới,là anh
hùng giải phóng dân tộc và cũng là ngôi sao sáng nhất trên bầu trời nước ta thế
kỷ XX.Có thể nói nhờ những cơng lao to lớn của Hồ chủ tịch mà con người Việt
Nam đang được độc lập tự do,được sống bình yên hạnh phúc.Đại hội lần thứ IX
của Đảng ta đã khẳng định: “ Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm tồn
diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam là kết quả của
sự vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam…”.Như vậy tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ
nghĩa Mác-Lênin đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại
nhằm giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đến nay vẫn ln là ánh sáng soi sáng con đường phát
triển của dân tộc Việt Nam.Đảng ta đã lấy học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ

Chí Minh làm kim chỉ nam soi rọi cho hành động của Đảng ,của toàn dân tộc
trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.Nhận thức được tầm quan trọng của việc
học tập nghiên cứu tư tưởng của Người nên nhóm 5 đã quyết định nghiên cứu đề
tài “Phân tích cơ sở khách quan hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh và chỉ ra
tiền đề lý luận giữ vai trị quyết định trong việc hình thành,phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh” để từ đó thấy rõ,hiểu sâu sắc hơn và thấm nhuần hơn tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

5


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở khách quan hình thành tư tưởng hồ chí minh
1.1. Cơ sở thực tiễn
1.1.1. Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Việt Nam từ một nước phong kiến trở thành nước “thuộc địa nửa phong kiến”:
Năm 1958, đế quốc Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam. Triều đình nhà Nguyễn
lần lượt kí các hiệp ước đầu hàng, từng bước trở thành tay sai của thực dân
Pháp.
Từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX, các phong trào yêu nước chống Pháp xâm
lược liên tục nổ ra trên cả ba miền. Ở miền Bắc có các cuộc khởi nghĩa của
Nguyễn Thiện Thuật, Đinh Cơng Tráng… Ở miền Trung có các cuộc khởi nghĩa
của Đặng Như Mai, Phan Đình Phùng, Trần Tấn. Ở miền Nam có các cuộc khởi
nghĩa của Trương Định, Nguyễn Trung Trực. Các cuộc khởi nghĩa dưới chiếu
“Cần Vương” tuy đều rất anh dũng nhưng đều thất bại chững tỏ nhân dân ta rất
yêu nước song giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng của nó đã suy tàn, bất lực
trước nhiệm vụ bảo vệ độc lập dân tộc.
Về phía thực dân Pháp, sau khi hồn thành căn bản việc bình định Việt Nam về
mặt quân sự, thực dân Pháp bắt tay vào công cuộc khai thác thuộc địa từng bước
biến nước ta từ một nước phong kiến thành nước thuộc địa nửa phong kiến dẫn

tới có sự biến đổi về cơ cấu giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Giai cấp địa chủ
được bổ sung, củng cố và tăng cường thêm các điền chủ người Pháp và nước
ngoài. Bên cạnh tầng lớp thwoj thủ công, tiểu thương, trong xã hội Việt Nam
xuất hiện những giai tầng mới. Đó là giai cấp công nhân, giai cấp tư sản và tầng
lớp tiểu tư sản ở thành thị.
Các mâu thuẫn trong lòng xã hội Việt Nam ngày càng gay gắt: Mâu thuẫn cơ
bản trong xã hội phong kiến là nông dân với địa chủ phong kiến, xuất hiện
những mâu thuẫn mới: Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân Việt Nam với giai
6


cấp tư sản, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc
Pháp.
Phong trào giải phóng dân tộc dấy lên mạnh mẽ nhưng đều thất bại, cuộc khủng
hoảng đường lối diễn ra sâu sắc: Cùng với những biến đổi trên, đến đầu thế kỷ
XX, trước ảnh hưởng của các cuộc vận động cải cách, của cách mạng dân chủ tư
sản ở Trung Quốc và tấm gương Duy Tân Nhật Bản, ở Việt Nam, xuất hiện các
phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản với sự dẫn dắt của các sĩ
phu yêu nước có tinh thần cải cách: Phong trào Đông Du do Phan Bội Châu khởi
xướng (1905-1909); Phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh phát động (19061908): Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục do Lương Văn Can, Nguyễn Quyền
và một số nhân sĩ khác phát động (3-1907 đến 11-1907);… Các phong trào trên
đều thất bại. Nguyên nhân sâu xa là giai cấp tư sản Việt Nam còn non yếu.
Nguyên nhân trực tiếp là các tổ chức và người lãnh đạo của các phong trào đó
chưa có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn. Tinh thần yêu nước
vẫn sục sôi trong lòng nhân dân. Song, cuộc khủng hoảng về dường lối cứu
nước diễn ra sâu sắc. Xuất hiện câu hỏi từ thực tiễn đăt ra là: Cứu nước bằng con
đường nào để đi đến thắng lợi?
Trước tình hình đó buộc phải tìm ra con đường cứu nước mới cho dân tộc. Trong
bối cảnh đó sự ra đời của giai cấp cơng nhân và phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân Việt Nam làm cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam

xuất hiện dấu hiệu mới của thời đại mới sắp ra đời. Hồ Chí Minh đã dày công
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận chính trị, tư tưởng về tổ chức, sáng lập Đảng
Cộng sản Việt Nam chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cách mạng Việt
Nam.
1.1.2. Thực tiễn thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, trở thành kẻ thù
chung của dân tộc các nước thuộc địa và giai cấp công nhân trến thế giới: Một
7


số nước đế quốc Anh, Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha, Ý, Đức, Nga, v.v…đã chi phối
tồn bộ tình hình thế giới. Phần lớn các nước châu Á, châu Phi và khu vực Mĩ
Latinh đã trở thành thuộc địa và phụ thuộc vào các nước đế quốc. Tình hình đó
đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn vốn có trong lịng chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn
giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ở các nước tư bản; mâu thuẫn giữa các
nước đế quốc với nhau; mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế
quốc. Sang đầu thế kỷ XX, mâu thuẫn này ngày càng phát triển gay gắt. Vì vậy,
giành độc lập cho các dân tộc thuộc địa khơng chỉ là địi hỏi của riêng họ mà còn
là mong muốn chung của giai cấp vơ sản quốc tế, tình hình đó đã thúc đẩy
phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới phat triển.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga mở ra thời đại cách mạng chống đế
quốc, giải phóng dân tộc. Cách mạng Tháng Mười Nga đã đánh đổ giai cấp tư
sản và giai cấp địa chủ phong kiến, lập nên một xã hội mới xã hội chủ nghĩa, mở
ra một thời đại mới trong lịch sử loài người thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội, mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc bị áp bức.
Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản gắn kết phong trào cơng nhân với phong trào
giải phóng dân tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung. Ra đời vào ngày 23-1919, Quốc tế Cộng sản dưới sự lãnh đạo của Mác – Lênin đẩy mạnh việc
truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười Nga
ra khắp thế giới, thúc đẩy sự hoạt động mạnh mẽ của các đảng cộng sản trong

nước.
Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, sự ra đời của Quốc tế Cộng sản và thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô cùng với sự phát triển mạnh mẽ phong
trào cộng sản, công nhân và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới đã ảnh
hưởng sâu sắc tới Hồ Chí Minh trên hành trình đi ra thế giới tìm mục tiêu và con
đường cứu nước.

8


1.2. Tiền đề tư tưởng lý luận
1.2.1. Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
1.2.1.1. Chủ nghĩa yêu nước, ý chí quật cường, đấu tranh bất khuất
- Chủ nghĩa yêu nước là giá trị xuyên suốt trong những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam.
Chủ nghĩa yêu nước hình thành từ quá trình thống nhất quốc gia và hình thành
dân tộc ở Việt Nam. Nó có tác động sâu sắc đến sự phát triển của tinh thần yêu
nước, ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết, sự cố kết cộng đồng. Cùng với quá
trình thống nhất quốc gia là quá trình hình thành, thống nhất dân tộc, tức q
trình các cộng đồng dân cư gắn bó với nhau trên một cơ sở của tư tưởng, tình
cảm chung, trong một nền văn hóa chung. Đó là động lực, sức mạnh cho dân tộc
Việt Nam tồn tại vượt qua mọi khó khăn trong dựng nước và giữ nước mà phát
triển.
- Chủ nghĩa yêu nước là nền tảng tư tưởng, điểm xuất phát phát và động lực
thúc đẩy Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước
Chủ nghĩa u nước chân chính động cơ bao trùm, định hướng thúc đẩy Nguyễn
Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên trong
một gia đình giàu lịng nhân ái, có tinh thần u nước sâu đậm. Từ lúc thiếu thời
đến tuổi trưởng thành, Nguyễn Tất Thành đã nhận được sự giáo dục và ni
dưỡng lịng yêu nước, truyền thống nhân ái của dân tộc: thương người, thương

dân, khát vọng có cuộc sống tự do, no ấm, hạnh phúc. Chính lịng u nước, ý
thức dân tộc đã đưa Nguyễn Tất Thành đi sang Pháp và các nước phương Tây để
tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách nơ lệ, bị áp bức, bóc lột.
Ngay từ ngày đầu ra đi tìm đường cứu nước và q trình bơn ba ở nước ngồi, từ
khi là Nguyễn Tất Thành rồi đến Nguyễn Ái Quốc và trở thành Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Người ln ln hướng về Tổ quốc, day dứt nỗi đau mất nước; ln đặt
lợi ích dân tộc lên trên hết, lấy đó làm động lực vượt qua mọi khó khăn thử

9


thách để tìm ra con đường cách mạng đúng đắn. Người có một nỗi khát khao tột
bậc, làm sao cho nước nhà được độc lập, nhân dân được sống tự do, ai cũng có
cơm ăn áo mặc, cũng được học hành. Nỗi khát khao đó chính là động lực tinh
thần thơi thúc Người quyết chí ra đi tìm con đường cứu nước cho dân tộc.
Từ ngày 5 tháng 6 năm 1911, rời bến cảng Nhà Rồng đi sang nước Pháp cho đến
lúc đọc được bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin; từ việc đi ra nước ngoài học hỏi kinh nghiệm
cách mạng Mỹ, Pháp, Trung Hoa,… đến việc tin theo V.I.Lênin, tin theo Quốc tế
III đều xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước. Chính chủ nghĩa yêu nước đã giúp
Nguyễn Ái Quốc đến với Quốc tế III, ủng hộ nước Nga Xô-viết. Đi theo con
đường Cách mạng Tháng Mười, Người đã sáng tỏ nhiều điều về con đường để
giải phóng dân tộc Việt Nam. Người cho rằng, muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc, khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản; vấn đề độc
lập dân tộc ở Việt Nam phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Người nói: “Luận
cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết
bao! Tơi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tơi nói to
lên như đang nói trước quần chúng đơng đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau
khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”!
Từ đó, tơi hồn tồn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”.

Từ bản khi nghiên cứu Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc
và vấn đề thuộc địa của V.I.LLênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy phương hướng
và đường lối cơ bản của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới
theo lập trường của giai cấp cơng nhân, trong đó có cách mạng Việt Nam. Niềm
tin ấy là ngọn cờ tư tưởng để Nguyễn Ái Quốc vững bước đi theo con đường
cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin. Quyết tâm đi theo con đường của
V.I.Lênin đã vạch, Nguyễn Ái Quốc xin gia nhập Uỷ ban Quốc tế III. Sau này,
hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đặc biệt là những
năm ở Mát-xcơ-va, trong Quốc tế III, chủ nghĩa yêu nước chân chính vẫn là mục

10


tiêu là động lực xuyên suốt trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc. Vì vậy, gần 40
năm sau, trong bài viết Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin, đăng trên Báo
Nhân dân, số 2226, ngày 22-4-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Lúc
đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi
tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh,
vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tơi hiểu
được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các
dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”
- Kế thừa và phát triển tinh thần đấu tranh anh dũng bất khuất vì Độc lập - Tự
do của Tổ Quốc nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Trong Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố với Thế
giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một
nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mệnh và của cải để giữ quyền tự do và độc lập ấy”. Không có gì q
hơn độc lập tự do - chân lý của thời đại được Hồ Chí Minh khẳng định, đồng
thời cũng chính là một điểm cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

1.2.1.2. Tinh thần đồn kết, tương thân tương ái
- Truyền thống tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái được hình thành từ thực
tiễn đấu tranh quyết liệt và chống giặc ngoại xâm bảo vệ dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng đúc kết: “Dân ta có một lịng nồng nàn u nước, đó
là một truyền thống q báu của ta. Từ xưa đến này, mỗi khi Tổ quốc bị xâm
lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to
lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước
và lũ cướp nước. Đúng vậy, mỗi khi đất nước gặp khó khăn như thiên tại, địch
họa, truyền thống đó lại tỏa sáng, kết nối toàn dân tộc thành một khối thống
nhất, tạo nên sức mạnh to lớn đưa đất nước vượt qua khó khăn. Nhìn từ nguồn
gốc dân tộc và vị thế địa chính trị, văn hóa của Việt Nam là nơi đầu sóng ngọn
11


gió, ln phải đối mặt với thiên tai, địch họa. Vì vậy, ngay từ buổi bình minh
lịch sử, khai thiên lập địa, dân tộc này luôn ý thức được rằng, muốn tồn tại và
phát triển phải luôn chung sức, đồng lịng, cố kết dân tộc. Trong cơng cuộc dựng
nước và giữ nước lâu dài của dân tộc, việc tập hợp, đoàn kết và huy động được
sức mạnh của nhân dân tham gia là chìa khóa chủ yếu dẫn tới thắng lợi. Toàn
dân đoàn kết trở thành giá trị truyền thống nổi bật và cực kỳ quý báu của dân
tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết.
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng. Đây là quan hệ nhân quả: đoàn kết tạo
nên sức mạnh, sức mạnh được thống nhất sẽ đưa tới thành cơng.
- Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam là yêu nước gắn liền với yêu dân, có tinh thần đoàn kết, dân
chủ, nhân ái, khoan dung trong cộng đồng và hòa hiếu với các dân tộc lân bang.
Trải qua các cuộc đấu tranh chống chọi với tự nhiên và địch họa, nhân dân Việt
Nam luôn hiểu thấu triết lý, ý nghĩa của tình đồng bào, đồng chí, anh em, sớm
tạo nên một đặc trưng văn hoá nổi bật của Việt Nam: tư tưởng yêu nước thấm
sâu và bao trùm mọi lĩnh vực. Các yếu tố cộng đồng có nguồn gốc nguyên thuỷ

đã sớm được cố kết lại, trở thành cơ sở phát triển chủ nghĩa yêu nước, đồn kết,
ý thức tự lực, tự cường, tự tơn dân tộc, nhân văn, nhân ái, thủy chung… Những
lúc khó khăn gian khổ tinh thần đồng cam, cộng khổ càng tỏa sáng.
1.2.1.3. Phẩm chất cần cù, chịu khó, dũng cảm,thơng minh, sáng tạo
Cần cù, siêng năng là một trong những phẩm chất đáng q của người Á Đơng,
trong đó có Việt Nam, cần cù chính là yếu tố quan trọng giúp con người có thể
đảm bảo được việc duy trì cuộc sống cá nhân, bởi vì: Thứ nhất, Việt Nam là một
nước nông nghiệp, trước đây chủ yếu là nghề nông trồng lúa nước, đây là cơng
việc vất vả và có tính thời vụ cao, vì vậy để có được hạt gạo người Việt phải cần
cù, phải một nắng hai sương, phải “Siêng nhặt chặt bị”; thứ hai, Việt Nam là
quốc gia có khí hậu khá khắc nghiệt, khơng chỉ nắng lắm mưa nhiều mà còn
phải hứng chịu rất nhiều thiên tai như hạn hán, bão lụt, vì vậy để chống chọi với
12


thiên nhiên, để duy trì và ổn định cuộc sống chúng ta phải cần cù; thứ ba, trong
lịch sử dân tộc Việt Nam chúng ta đã dành tới hơn nửa thời gian để tiến hành
chiến tranh vệ quốc, mặc dù kết quả cuối cùng chúng ta giành thắng lợi nhưng
hậu quả sau mỗi cuộc chiến là sự hoang tàn đổ nát vì vậy để khắc phục hậu quả,
ổn định đời sống con người Việt Nam đã rèn cho mình đức tính cần cù.
Hồ Chí Minh - người con ưu tú của dân tộc Việt Nam đã kế thừa đức tính cần cù
của con người Việt Nam, được thể hiện cụ thể qua cả học tập, lao động. Trong
học tập, Người ln cố gắng tự học, tự tìm hiểu để làm phong phú vốn kiến thức
và trí tuệ của mình, trong lao động Người luôn chăm chỉ và cần mẫn để có tiền
sống, tiền học tập và tham gia hoạt động cách mạng khi cịn hoạt động ở nước
ngồi; khi về nước dù ở đâu Bác cũng luôn cùng bộ đội, chiến sĩ tham gia sản
xuất để cải thiện đời sống.
Dũng cảm, thông minh, sáng tạo, một dân tộc sau hàng ngàn năm là nơ lệ, bị
cưỡng bức, đồng hóa về mặt thể chất và tinh thần - giết đàn ông, đốt sách, nơ
dịch, đồng hóa về văn hóa, phong tục, tập quán, nhưng vẫn không khuất phục,

kiên cường chịu đựng, nuôi dưỡng ý thức độc lập để rồi lại đứng lên giành lấy
độc lập.
Chiến tranh thường tạo nên những anh hùng, nhưng khơng phải chỉ chiến tranh
mới có anh hùng. Ngay trong thời bình những tấm gương về người dũng cảm,
thông minh, sáng tạo cũng rất nhiều.
1.2.1.4. Tinh thần lạc quan, ý chí vươn lên mọi khó khăn thử thách và quý trọng
người tài
- Tinh thần lạc quan, ý chí vươn lên mọi khó khăn thử thách chính là hành
trang theo Hồ Chí Minh suốt cuộc đời, tạo nên sức mạnh để Người vượt qua
những khó khăn khi mới ra đi tìm đường cứu nước.
Ý chí bất khuất, tự lực, tự cường:Trên thế giới, hầu như dân tộc nào cũng phải
trải qua quá trình bảo vệ đất nước, chống xâm lăng, nhưnQug có lẽ khơng có

13


dân tộc nào trên thế giới lại phải chịu nhiều cuộc chiến tranh như Việt Nam, kể
từ khi nhà nước Văn Lang - nhà nước đầu tiên ở Việt Nam ra đời cho đến nay,
dân tộc ta đã dành hơn nửa thời gian cho các cuộc chiến tranh vệ quốc, trong đó
kẻ thù chủ yếu là các cường quốc hơn chúng ta về mọi mặt. Vì vậy, trong các
cuộc chiến tranh ấy để giành được thắng lợi chúng ta chủ yếu là lấy sức ta để
giải phóng cho ta, tự lực và tự cường.
Khi mới ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh phải lao động và kiếm sống ở
nước ngoài phụ bếp đến bồi bàn, rửa ảnh, quét tuyết...., hồn cảnh làm việc vơ
cùng vất vả. Chế Lan Viên đã từng có những câu thơ khắc hoạ lại cảnh Người
làm việc: “Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê/Một viên gạch hồng, Bác
chống lại cả một mùa băng giá/Và sương mù thành Ln Đơn, ngươi có
nhớ/Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya?”. Đây không chỉ là thơ mà là hiện
thực cuộc sống của Bác được đưa vào trong thơ, bơn ba ở nước ngồi khơng ít
lần Người phải chịu cảnh tù đày, nhưng vất vả đó không làm Người chùn

bước.... Khi bắt gặp Chủ nghĩa Mác – Lênin người xác định con đường đi cho
dân tộc Việt Nam là làm cách mạng vô sản, là độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội và Người ln kiên định mục tiêu này, dù cho có lúc Quốc tế cộng
sản hiểu sai về Người, từng đặt Người đứng bên ngoài Quốc tế cộng sản. Tuy
nhiên, với ý chí kiên cường và tinh thần quốc tế trong sáng, một con người
khơng chỉ vì dân tộc mình mà cịn vì tất cả các dân tộc bị đoạ đầy đau khổ, một
con người cả cuộc đời vì nước, vì dân. Người đã không chỉ trở thành lãnh tụ của
dân tộc Việt Nam mà còn là biểu tượng ngưỡng vọng của các dân tộc tiến bộ
trên thế giới.
- Quý trọng người hiền tài trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Từ xa xưa, cha ông ta luôn coi hiền tài là “rường cột”, “là nguyên khí của quốc
gia”. Phát huy truyền thống quý báu của cha ông, sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh là bậc thiên tài trong việc chọn người, dùng người và trọng dụng nhân tài.
Cách dùng người của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện thái độ trọng thị, tầm nhìn

14


minh triết, lòng nhân ái bao la và tư tưởng đại đồn kết cao cả. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã để lại nhiều bài học quý báu và cốt yếu về nghệ thuật dùng người, trọng
dụng nhân tài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Theo Người, nhân tài là “người tài đức, có thể làm những việc ích nước lợi dân”.
Điều đó có nghĩa là, một người được coi là nhân tài phải hội tụ đủ cả 2 yếu tố tài
và đức, quan trọng hơn là tài và đức ấy phải hướng đến những việc làm ích
nước, lợi dân. Người khẳng định: “Có tài mà khơng có đức là người vơ dụng, có
đức mà khơng có tài làm việc gì cũng khó”. Trong đó, người cho rằng, đức phải
là cái gốc. “Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng
cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
Do có quan điểm đúng đắn về trọng dụng nhân tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã

sớm tìm kiếm, thu hút, đào tạo, bồi dưỡng những “người tài đức” cho cách
mạng, động viên họ mang hết sức mình phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân.
Ngay từ khi chuẩn bị thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt chú
trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở Quảng Châu, chọn những thanh niên
ưu tú, có trình độ, năng lực để đào tạo, bồi dưỡng sau này đưa về nước hoạt
động. Khi trở về nước vào năm 1941, Người đã có lời kêu gọi tất cả các nhân sĩ,
thân hào có tinh thần yêu nước tham gia Mặt trận Việt Minh để cống hiến trí tuệ
của mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Sau Cách mạng tháng Tám năm
1945 thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, “kiến quốc cần có nhân tài”.
Người đã viết hai bài “Nhân tài và Kiến quốc”, “Tìm người tài đức” đăng trên
báo Cứu quốc để tìm người tài đức tham gia xây dựng và kiến thiết Tổ quốc.
1.2.1.5. Niềm tự hào về dân tộc lịch sử, trân trọng văn hóa, ngôn ngữ, phong tục
tập quán và những giá trị tốt đẹp khác
Dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển gắn liền với lịch sử dựng nước
và giữ nước, tạo nên một nền văn hóa riêng, với những giá trị truyền thống tốt
đẹp và cao quý. Ngay từ buổi đầu lập nước, người Việt Nam đã tự ý thức về
15


cộng đồng dân tộc, tinh thần độc lập, tự chủ, ý thức tự hào, tự tơn của dân tộc.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Giở sử nước ta ra mà xem, mi sẽ thấy tổ tiên đã treo bao
tấm gương đạo đức và dũng cảm, chí khí và tự tơn”. Lịng tự hào, tự tôn dân tộc
luôn là nền tảng tinh thần để mỗi người Việt Nam có trách nhiệm với vận mệnh
của dân tộc mình. Hồ Chí Minh rất quan tâm đến lịch sử dân tộc và tự hào với
truyền thống văn hóa dân tộc. Để giáo dục lịng u nước, kêu gọi đoàn kết cứu
nước và khẳng định ở triều đại nào cũng có người anh hùng mưu trí, sáng tạo
trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm để giải phóng dân tộc và bảo vệ đất nước,
Người viết bài “Lịch sử nước ta” (tháng 2 năm 1942), trong đó có đoạn:“Dân ta
phải biết sử ta/ Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam/ Kể năm hơn bốn ngàn
năm/ Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hòa”

Trong truyền thống dân tộc Việt Nam thường trực một niềm tự hào về lịch
sử, trân trọng một nền văn hóa, ngơn ngữ, phong tục tập quán và những giá trị
tốt đẹp khác của dân tộc. Đó chính là một cơ sở hình thành nên tư tưởng, phẩm
chất của nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh với chủ trương văn hóa là mục tiêu,
động lực của Cách mạng; cần giữ gìn cốt cách văn hóa dân tộc đồng thời tiếp
thu văn hóa nhân loại, xây dựng nền văn hóa mới của Việt Nam. Chính Hồ Chí
Minh là một biểu tượng cao đẹp của sự tích hợp tinh hoa văn hóa phương Đơng
và phương Tây.
1.2.2 Tinh hoa văn hóa nhân loại
Nói đến văn hóa nhân loại có tầm cỡ vĩ đại nhất và ảnh hưởng lớn nhất đối với
Hồ Chí Minh là phải nói đến chủ nghĩa Mác-Lênin. Có thể nói, Hồ Chí Minh đã
tiếp thu phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và ứng dụng sáng tạo vào điều kiện cụ
thể của đất nước, đưa cách mạng Việt Nam giành nhiều thắng lợi vĩ đại và cống
hiến nhiều vào kho tàng lý luận mác-xít cũng như phương pháp hoạt động sáng
tạo của cuộc cách mạng vơ sản.
Xuất thân trong một gia đình khoa bảng, với tư chất thơng minh tuyệt vời, từ
nhỏ, Hồ Chí Minh đã được giáo dục Hán học và đã tiếp thu nền văn hóa phương
16


Tây tại trường Quốc học Huế. Khi bôn ba khắp năm châu, bốn bể, Người vừa
hoạt động cách mạng, vừa học hỏi không ngừng. Người đã thông thạo các ngôn
ngữ tiêu biểu cho nền văn minh của nhân loại, am tường các nền văn hóa Đơng,
Tây, kim, cổ. Khi tiếp thu các nền văn hóa, Người bao giờ cũng phân tích các
yếu tố giá trị tồn nhân loại và vĩnh cửu. Người đã làm giàu trí tuệ của mình
bằng tinh thần văn hóa nhân loại. Người là tượng trưng cho sự kết hợp hài hịa
giữa các nền văn hóa và tỏa ra một nền văn hóa của tương lai.
1.2.2.1 Tư tưởng và văn hóa phương Đơng
Về Nho giáo, Hồ Chí Minh phân tích: "Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy
trong

học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều khơng đúng song những điều khơng
đúng song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học. “ Chỉ có những người
cách mạnh chân chính mới thu thái được những điều hiểu biết quý báu của các
đời trước để lại” . Lênin dạy chúng ta như vậy” . Tiếp thu văn hóa phương
Đơng, trước hết là Nho giáo, Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng đắn vai trò của Nho
giáo và người sáng lập ra nó là Khổng Tử và đã đặc biệt khai thác những mặt
tích cực của tư tưởng Nho giáo.
Hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ những mặt bất cập, hạn chế của Nho giáo. Đó
là trong Nho giáo có những yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động như tư tưởng
đẳng cấp, khinh lao động chân tay, khinh phụ nữ, khinh thường thực nghiệm,
doanh lợi…Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng thấy được những mặt tích cực của nó
và khun chúng ta “nên học”. Theo Người, mặt tích cực của Nho giáo là nó đề
cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học với châm ngôn “Học không
biết chán, dạy không biết mỏi”. Về điểm này, Nho giáo hơn hẳn các học thuyết
cổ đại, bởi vì nhiều học thuyết cổ đại chủ trương ngu dân để dễ cai trị.
Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo, lựa chọn những yếu tố tich cực, phù hợp để
phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng.

17


Đối với Phật giáo, Hồ Chí Minh là hiện thân của lòng nhân ái, độ lượng, khoan
dung - những nét đặc trưng của giáo lý đạo Phật.
Thứ nhất là, tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như
thể thương thân - một tình yêu bao la không chỉ dành cho con người mà dành
cho cả chim mng, cây cỏ.
Thứ hai là, nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện.
Thứ ba là, tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi phân
biệt đẳng cấp.
Thứ tư là, Phật giáo Thiền tông đề ra luật “chấp tác”: “nhất nhật bất tác, nhất

nhật bất thực” (một ngày không làm, một ngày không ăn), đề cao lao động,
chống lười biếng. Cuối cùng, Phật giáo vào Việt Nam, gặp chủ nghĩa yêu nước,
tinh thần đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc ta, đã hình thành nên
Thiền phái Trúc lâm Việt Nam, chủ trương sống không xa rời, lẩn tránh mà gắn
bó với đời sống của nhân dân, với đất nước, tham gia vào cộng đồng, vào cuộc
đấu tranh của nhân dân, chống kẻ thù dân tộc.
Như thế, có thể nói, những mặt tích cực của Phật Việt Nam đã đi vào đời sống
tinh thần dân tộc và nhân dân lao động. Gia đình Bác Hồ là gia đình nhà nho
nghèo, gần gũi với nơng dân, cũng thấm nhuần tinh thần đó và để lại dấu ấn
trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đối với Lão giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng của Lão Tử,
khuyên con người nên sống gắn bó với thiên nhiên, hồ đồng với thiên nhiên,
hơn
nữa phải biết bảo vệ mơi trường sống. Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân ta trồng
cây,tổ chức "Tết trồng cây" để bảo vệ môi trường sinh thái cho chính cuộc sống
của con người. Hồ Chí Minh chú ý kế thừa phát triển tư tưởng thoát mọi ràng
buộc của vòng danh lợi trong Lão giáo. Người khun cán bộ, đảng viên ít lịng

18


tham muốn về vật chất; thực hiện cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư; hành
động theo đạo lý.
Hồ Chí Minh còn chú ý kế thừa, phát triển nhiều ý tưởng của các trường phái
khác nhau trong các nhà tư tưởng phương Đông cổ đại khác như Mặc Tử, Hàn
Phi Tử, Quản Tử, v,v...Và, Hồ Chí Minh cũng chú ý tìm hiểu những trào lưu tư
tưởng tiến bộ thời cận hiện đại ở Ấn Độ , Trung Quốc như chủ nghĩa Găngdi,
chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn. Hồ Chí Minh đã phát triển sáng tạo các
quan điểm về dân tộc, dân quyền, dân sinh của Tôn Trung Sơn trong cách mạng
dân chủ tư sản thành tư tưởng đấu tranh cho Độc lập- Tự do- Hạnh phúc của con

người và dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vơ sản. Là nhà mácxit
sáng tạo , Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển những tinh hoa trong tư tưởng ,
văn hóa phương Đơng để giải quyết những vấn đề thực tiến của cách mạng Việt
nam thời hiện đại.
1.2.2.2 Tinh hoa văn hóa phương Tây
Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng sâu rộng của nền văn hoá dân chủ và cách mạng
phương Tây như: tư tưởng tự do, bình đẳng trong Tuyên ngôn nhân quyền và
dân quyền của Đại cách mạng Pháp 1791, tư tưởng dân chủ, về quyền sống,
quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc trong Tuyên ngơn độc lập của Mỹ 1776.
Trước khi ra nước ngồi, Bác đã nghe thấy ba từ Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái.
Lần đầu sang Pháp Hồ Chí Minh đã thể hiện bản lĩnh, nhân cách phẩm chất cao
thượng, tư duy độc lập tự chủ. Người đã nhìn thấy mặt trái của “lý tưởng” tự do,
bình đẳng, bác ái. Người cũng tiếp thu tư tưởng của những nhà Khai sáng Pháp
như Voltaire, Rousso, Montesquieu.
Thiên chúa giáo là tôn giáo lớn của phương Tây, Hồ Chí Minh quan niệm Tơn
giáo là văn hố. Điểm tích cực nhất của Thiên chúa giáo là lịng nhân ái. Hồ Chí
Minh tiếp thu có chọn lọc tư tưởng văn hố Đơng – Tây để phục vụ cho cách
mạng Việt Nam. Người dẫn lời của Lênin: “Chỉ có những người cách mạng chân
chính mới thu hái được những hiểu biết quý báu của các đời trước để lại.”
19


1.2.3. Chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác – Lênin là thành tựu tư tưởng vĩ đại của nhân loại do C.
Mác và Ph. Ăngghen đặt nền móng vào đầu thế kỷ XIX, được V.I. Lênin kế tục,
phát triển từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Chủ nghĩa Mác - Lênin phơi bày
bản chất sâu xa nhất, những mâu thuẫn cố hữu nhất tồn tại trong chế độ tư bản
chủ nghĩa và dự đốn chính xác xu hướng vận động của các hình thái kinh tế xã hội để đi đến khẳng định tương lai của nhân loại là chế độ cộng sản chủ
nghĩa. Vì vậy, đây là học thuyết khoa học, cách mạng và nhân văn duy nhất đề
ra mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người và chỉ

rõ lực lượng, con đường, phương thức nhằm đạt được mục tiêu đó.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và thời đại mới cũng như chủ nghĩa
Mác – Lênin là cơ sở lý luận quyết định bước phát triển mới về chất trong tư
tưởng Hồ Chí Minh khiến Người vượt hẳn lên phía trước so với những người
yêu nước cùng thời. Hồ Chí Minh khẳng định “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất
là chủ nghĩa Lênin” (trích từ Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.2, tr.289) . Vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã giải quyết được
khủng hoảng đường lối cứu nước và người lãnh đạo cách mạng ở Việt Nam cuối
thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đưa Hồ Chí Minh đến với con đường cách mạng vơ sản.
Người đã từng khẳng định: “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người
cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ,
không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng
ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”
(trích từ Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.10, tr.128).
Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác – Lênin là thế giới quan, phương pháp
luận trong nhận thức và hoạt động cách mạng. Kế thừa những thành tựu lý luận
vĩ đại của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I. Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống
20


quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, trên cơ sở kế thừa và phát huy các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại.
Trong q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh
khơng những đã vận dụng sáng tạo, mà còn bổ sung, phát triển và làm phong
phú chủ nghĩa Mác – Lênin trong thời đại mới. Cho đến nay, chủ nghĩa Mác –
Lênin cùng những chỉ dẫn quý báu của Hồ Chí Minh vẫn giữ vai trị quyết định

tới q trình Đảng lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa và công cuộc đổi mới
tại Việt Nam bởi nó tiếp tục soi sáng những vấn đề lý luận để giải quyết kịp thời
các vấn đề thực tiễn đặt ra, đưa nước ta thực hiện thành công công cuộc đổi mới,
tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Chương 2. Tiền đề lý luận giữ vai trị quyết định trong việc hình thành,
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
2.1. Chủ nghĩa Mác-Lênin là tiền đề lý luận quan trọng nhất, giữ vai trò
quyết định trong việc hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, nhân dân ta đã đứng lên đấu
tranh chống lại kẻ thù xâm lược. Từ năm 1858 đến trước năm 1930, đã có hàng
trăm phong trào, cuộc khởi nghĩa oanh liệt dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu, các
nhân sĩ, trí thức, người yêu nước… theo nhiều khuynh hướng khác nhau, nhưng
đều bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và thất bại. Ngun nhân chính là do chưa
có đường lối cứu nước đúng đắn theo một hệ tư tưởng tiên tiến, khoa học và
cách mạng. Đó là sự khủng hoảng về đường lối cứu nước. Đầu thế kỷ XX, tồn
bộ trí lực của dân tộc hướng vào tìm kiếm con đường cứu nước, giải phóng dân
tộc. Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) được đọc Sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin,
Người đã tìm thấy con đường duy nhất đúng đắn để cứu nước, giải phóng dân
tộc khỏi ách đơ hộ của thực dân Pháp. Đó là tiến hành vô sản: độc lập dân tộc
21


gắn với chủ nghĩa xã hội; gắn cách mạng giải phóng dân tộc trong nước với
phong trào cách mạng thế giới… Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vơ sản” . Từ
đó, Người truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta, sáng lập và rèn luyện
Đảng ta, lãnh đạo Đảng và nhân dân ta giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc, đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Toàn dân ta đi theo Đảng. Đó là sự lựa chọn
của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh được

hình thành và phát triển trong q trình lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu,
vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện ở Việt Nam, bên cạnh đó Người
cịn vận dụng thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng trong việc
tiếp thu, kế thừa tinh hoa văn hóa nhân loại và chuyển hóa được những hiểu biết
quý báu đó để xây dựng được hệ tư tưởng riêng của mình. Trong quá trình lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng những nội
dung của tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng nước ta. Vì vậy có thể
nói Chủ nghĩa Mác – Lênin là tiền đề lý luận quan trọng nhất, giữ vai trò quyết
định trong việc hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.2. Lý do Chủ nghĩa Mác-Lênin là tiền đề lý luận quan trọng nhất, giữ vai
trị quyết định trong việc hình thành,phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
2.2.1.Chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc lý luận khoa học thống nhất
Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết khoa học gồm ba bộ phận thống nhất hữu
cơ không thể tách rời nhau:
- Triết học Mác - Lênin là khoa học về những quy luật phổ biến chung nhất của
sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người; trang bị cho
con người thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật
đúng đắn để nhận thức và cải tạo thế giới.
- Kinh tế chính trị học Mác – Lênin là khoa học nghiên cứu phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa, chỉ rõ bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa; những quy luật kinh tế chủ yếu hình thành, phát triển và đưa chủ nghĩa tư
22


bản tới chỗ diệt vong; những quy luật phát triển của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu những quy luật chuyển biến từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và phương hướng xây dựng xã hội mới. Chủ
nghĩa xã hội khoa học đã chứng minh rằng, việc xã hội hóa lao động trong chủ
nghĩa tư bản đã tạo ra cơ sở vật chất chủ yếu cho sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa

xã hội. Cơ sở lý luận của sự chuyển biến đó là chủ nghĩa Mác - Lênin và lực
lượng xã hội thực hiện sự chuyển biến đó là giai cấp cơng nhân và nhân dân lao
động.
Ba bộ phận lý luận cấu thành chủ nghĩa Mác-Lênin có đối tượng nghiên cứu cụ
thể khác nhau nhưng đều có sự thống nhất tương đối giữa triết học, kinh tế chính
trị và chủ nghĩa xã hội khoa học - đó là quan niệm duy vật về lịch sử mà tư
tưởng chính của nó là do sự phát triển khách quan của lực lượng sản xuất nên từ
một hình thái kinh tế-xã hội này nảy sinh ra một hình thái kinh tế-xã hội khác
tiến bộ hơn và chính quan niệm như thế đã thay thế sự lộn xộn, tùy tiện trong
các quan niệm về xã hội trong các học thuyết triết học trước đó; thể hiện ở việc
C. Mác và Ph.Ăngghen vận dụng thế giới quan duy vật biện chứng và phép biện
chứng duy vật vào việc nghiên cứu kinh tế, từ đó sáng tạo ra học thuyết giá trị
thặng dư để nhận thức chính xác sự xuất hiện, phát triển và diệt vong tất yếu của
chủ nghĩa tư bản. Đến lượt mình, học thuyết giá trị thặng dư cùng với quan niệm
duy vật về lịch sử đã đưa sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến
khoa học.
2.2.2. Chủ nghĩa Mác – Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản
chất của tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ nghĩa Mác – Lênin là đỉnh cao của tư duy nhân loại, là thế giới quan,
phương pháp luận khoa học và cách mạng, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động, của các đảng cộng sản và cơng nhân trong đấu tranh xóa
bỏ áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa.
23


Hồ Chí Minh đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác – Lênin. Đối
với Người, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin cũng có nghĩa là đến với con đường
cách mạng vô sản. Từ đây, Người thực sự tìm thấy con đường cứu nước chân
chính, triệt để: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, khơng có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản” và “chỉ có giải phóng giai cấp vơ sản thì mới

giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của
chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”.
Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh có
bước nhảy vọt lớn: kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, kết
hợp dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội; nâng chủ nghĩa
yêu nước lên một trình độ mới trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh ln khẳng định:
chủ nghĩa Mác – Lênin là chủ nghĩa chân chính nhất, khoa học nhất, cách mạng
nhất, “muốn cách mạng thành công phải đi theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và chủ
nghĩa Lênin”. Đối với người, chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan,
phương pháp luận khoa học để giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Người không bao giờ xa rời chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời kiên quyết chống
chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại.
Như vậy, chủ nghĩa Mác – Lênin là một nguồn gốc – nguồn gốc chủ yếu
nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh, là một bộ phận hữu cơ – bộ phận cơ sở, nền
tảng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Khơng thể đặt tư tưởng Hồ Chí Minh ngồi hệ
tư tưởng Mác – Lênin, hay nói cách khác, khơng thể tách tư tưởng Hồ Chí Minh
khỏi nền tảng của nó là chủ nghĩa Mác – Lênin. Có thể nói, ở Việt Nam, giương
cao tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là giương cao chủ nghĩa Mác – Lênin. Muốn
bảo vệ và quán triệt chủ nghĩa Mác – Lênin một cách có hiệu quả, phải bảo vệ,
quán triệt và giương cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là lịch sử cũng là logic của
vấn đề, nó giúp chỉ ra sai lầm của quan niệm đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với
chủ nghĩa Mác – Lênin.

24


2.2.3. Hồ Chí Minh vận dụng và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
Tư tưởng Hồ Chí Minh là “kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá

trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác - Lênin nhưng Người không
tiếp thu một cách máy móc mà vận dụng sáng tạo có sự chọn lọc kế thừa những
giá trị tốt đẹp, tiếp thu tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin ở những nội dung
sau
- Hồ Chí Minh đã vận dụng và sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong chính cách
mạng giải phóng dân tộc. Năm 1920, sau khi Người đọc luận cương của Lênin
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, khơng có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản” . Đây là con đường cách mạng triệt để nhất phù hợp
với yêu cầu của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại. Trong
chính học thuyết cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác Lênin đã được Hồ Chí
Minh vận dụng, sáng tạo trong điều kiện Việt Nam: Giải phóng dân tộc phải gắn
liền với giải phóng giai cấp trong đó giải phóng dân tộc là trước hết, trên hết, lộ
trình giải phóng của Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc- giải phóng xã hội – giải
phóng giai cấp – giải phóng con người. Người đã khơng chọn giải phóng giai
cấp trước vì với tình hình của Việt Nam thì giải phóng dân tộc là điều cần thiết
phải làm trước. Ngoài ra, trong “Chánh cương văn tắt” năm 1930 độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, phương hướng chiến lược phát triển của cách
mạng Việt nam là làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản.
Trong chủ nghĩa Mác – Lênin, tầm quan trọng của Đảng đối với cách mạnh
không thể thiếu. Hồ Chí Minh đã tiếp lý luận đó và vận dụng, sáng tạo nó trong
chính hồn cảnh Việt Nam lúc bấy giờ còn là một nước thuộc địa – phong kiến
thì Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là đội tiên phong của giai cấp công nhân, vừa
là đội tiên phong của nhân dân lao động kiên quyết nhất, hăng hái nhất trong
25


×