Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Sinh viên đại học Thương Mại học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.16 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA QUẢN TRỊ NHÂN LỰC
------------------

-----------------

BÀI THẢO LUẬN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Vấn đề thảo luận 2: Sinh viên đại học Thương Mại học tập
và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong
giai đoạn hiện nay.

1


MỤC LỤC
Lời
mở
đầu
.................................................................................................................................
06
1.

Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
1.1

tưởng
Hồ
Chí
Minh
.............................................................................................................................


06
a. Vai trị của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh……………………………….06
b.
Bốn
chuẩn
mực

tưởng
tiêu
biểu
.............................................................................................................................
10
c.
Nguyên
tắc
xây
dựng
.............................................................................................................................
13
1.2 Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh......................................................…..15
2


2. Liên hệ với sinh viên đại học Thương Mại
2.1 Thực trạng.............................................................................................……
20
2.2 Giải pháp ................................................................................................……
22
Kết
luận

.......................................................................................................................................
24

LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta. Người đã hiến dâng
tất cả tình cảm, trí tuệ và cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân
ta. Đã hơn 50 năm từ khi người đi xa nhưng tấm gương di sản người để lại vẫn
trường tồn in sâu vào trong tâm trí mỗi con người Việt Nam. Người đã để lại tài
3


sản vô giá là tư tưởng và tấm gương đạo đức trong sáng mẫu mực, cao đẹp, kết tinh
những giá trị truyền thống của dân tộc, của nhân loại và thời đại. Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức của bác là niềm vinh dự, tự hào đối với mỗi cán bộ, đảng
viên và mỗi người Việt Nam. Hiểu được vai trò và giá trị của tư tưởng Hồ Chí
Minh nhóm chúng em đã cùng nhau nghiên cứu đề tài: “Phân tích những yêu cầu
cơ bản đối với sinh viên hiện nay trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh”
1.



Tìm hiểu tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
1.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh
a. Vai trị của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Vai trò của đạo đức trong sự tồn tại và phát triển của xã hợi

Mỗi xã hội hình thành và phát triển đều dựa trên một nền tảng nhất định cả về vật
chất và tinh thần, kinh tế và chính trị, văn hóa và xã hội. Sự phát triển của xã hội
Việt Nam cũng vậy, nó địi hỏi phải có nền tảng vật chất và tinh thần cho sự phát

triển lâu dài, bền vững, trong đó khơng thể thiếu lĩnh vực đạo đức. Đạo đức là một
hình thái ý thức xã hội, được hình thành thơng qua vai trị chủ động, tự giác của
con người. Do đó, việc hình thành một nền đạo đức - nền tảng tinh thần cho sự
phát triển bền vững của xã hội Việt Nam trong hiện tại và tương lai, phải có định
hướng, phù hợp với thực tiễn phát triển của dân tộc.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những giá trị đạo đức truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, chứa đựng những hạt nhân hợp lý, chắt lọc từ tinh hoa giá trị
đạo đức nhân loại, phù hợp với những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của Việt
Nam, hướng tới những giá trị mang tầm thời đại. Vì vậy, rèn luyện và tu dưỡng đạo
đức cách mạng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là nhiệm vụ cấp bách, trước mắt,
cũng như lâu dài trong tương lai của đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân
dân, như Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Tiếp tục đẩy mạnh việc học
4


tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với chống suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống... Tăng cường rèn luyện phẩm chất
đạo đức cách mạng...”


Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là cơ sở những chuẩn mực đạo đức cơ
bản của con người Việt Nam hiện tại và tương lai

Mỗi một mơ hình xã hội mới địi hỏi phải có những con người mới cụ thể, với
những phẩm chất năng lực cụ thể để xây dựng và phát triển xã hội đó. Sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước hiện tại và tương lai chắc chắn phải trải qua
một q trình khó khăn, gian khổ. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định rõ, muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải có những con người xã hội chủ nghĩa. Đó
là những con người vừa có đức, vừa có tài, vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Riêng về
khía cạnh đạo đức, đó trước hết là những người có tinh thần u nước, thương dân,

đặt lợi ích của đất nước, của dân tộc lên trên hết, trước hết. Đó là những người ln
ln gắn bó với nhân dân, u thương, kính trọng nhân dân và do đó được nhân
dân yêu mến, quý trọng, được dân tin, dân phục, dân yêu. Đó phải là những con
người có ý thức trách nhiệm với cơng việc, có tinh thần lao động siêng năng, cần
cù, lao động với năng suất và chất lượng cao, tạo ra nhiều của cải cho xã hội. Đó
đồng thời phải là những con người có tinh thần tiết kiệm, biết tiết kiệm sức người,
sức của, tiết kiệm thời gian cho đất nước và nhân dân.
Sự phát triển đất nước hiện nay đòi hỏi những con người trong xã hội, trước hết là
cán bộ nắm giữ các cương vị trong hệ thống chính trị, phải là những người không
để các căn bệnh tiêu cực, như quan liêu, tham nhũng... xâm nhập, khống chế, đồng
thời dám đấu tranh chống các căn bệnh, tiêu cực đó. Đó là những chuẩn mực đạo
đức được Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng chỉ ra và quan trọng hơn là nêu gương
thực hành trong thực tiễn đời sống. Sinh thời, Người đã làm cuộc cách mạng về
5


đạo đức khi sử dụng những khái niệm trong Nho giáo truyền thống nhưng với
những nội hàm mới.


Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là cơ sở để xây dựng những nguyên tắc
tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của con người Việt Nam hiện đại

Trên thực tế, trong xã hội Việt Nam hiện nay, tình trạng suy thối, xuống cấp về
đạo đức xã hội trong một bộ phận dân cư không chỉ do thiếu sự nhận thức đúng
đắn và thống nhất về vị trí, vai trị của đạo đức trong đời sống xã hội, về các chuẩn
mực đạo đức xã hội, mà cịn có một phần ngun nhân do chưa có sự tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức đúng đắn và thống nhất trên cả phương diện lý thuyết và thực hành.
Nhiều lý thuyết đạo đức, bài học đạo đức đã được tuyên truyền, nhưng Cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong những năm

trước đây mới chỉ đạt được phần nào kết quả, chưa đáp ứng đòi hỏi thực tiễn và
yêu cầu, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.
Để hình thành được các chuẩn mực đạo đức, khơng phải là điều một sớm, một
chiều, dễ dàng có được, mà phải trải qua một quá trình tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức. Đó chính là q trình trên cơ sở đã nhận thức thấu đáo vị trí, vai trị của đạo
đức, sự cần thiết phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, mỗi người trở thành chủ thể của
quá trình tự giáo dục đạo đức, tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức theo những chuẩn
mực chung của xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra cho chúng ta những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo quá
trình tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của mỗi con người, Người đã nêu gương thực
hành những ngun tắc đó trong q trình chỉ đạo xây dựng nền văn hóa mới, nền
đạo đức mới của Việt Nam. Đó là các nguyên tắc nói đi đôi với làm, phải nêu
gương đạo đức; phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.

6


Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lịng. Ta
phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và
phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”. Để xây dựng một nền
đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống. Xây phải đi đôi với
chống, chống nhằm mục đích xây; phải bằng nhiều biện pháp kết hợp cả giáo dục,
phê phán và trừng trị bằng pháp luật; phải kết hợp giữa quét sạch chủ nghĩa cá
nhân và nâng cao đạo đức cách mạng...


Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là cơ sở để đợi ngũ cán bộ, đảng viên tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức

Hiện nay, trong xã hội đang tồn tại tình trạng một bộ phận dân cư xem nhẹ các giá

trị đạo đức, chạy theo tiền tài, địa vị, bất chấp đạo lý, coi thường pháp luật và tình
nghĩa con người. Một nguyên nhân quan trọng của tình trạng này là trong một thời
gian dài, đứng trước những khó khăn về kinh tế - xã hội, chúng ta đã tập trung
nhiều cho phát triển kinh tế, trong khi đó nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, vai trị
của đạo đức trong đời sống xã hội. Một xã hội Việt Nam phát triển trong tương lai
chắc chắn khơng thể để tình trạng đó tiếp tục diễn ra. Với ý nghĩa là nền tảng tư
tưởng cho việc xây dựng nền đạo đức mới, thực hành theo tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh thực sự là giải pháp quan trọng nhất, giúp xác lập lại vị trí, vai trị của
đạo đức - yếu tố gốc rễ, nền tảng tinh thần của mỗi con người.
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức là nền tảng của người cách mạng. Người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hồn thành được nhiệm vụ
cách mạng vẻ vang là phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Người chỉ rõ: “Làm
cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang,
nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu
dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng
7


phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách
mạng vẻ vang”
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”, phải tiêu biểu
cho lương tâm, phẩm giá và trí tuệ của dân tộc. Trong Di chúc, Người căn dặn:
“mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần
kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”
b.

Bốn tư tưởng đạo đức tiêu biểu của Hồ Chí Minh

Mợt là, trung với nước, hiếu với dân

Theo Hồ Chí Minh, đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối
các phẩm chất khác.Từ quan niệm cũ “ trung với vua, hiếu với cha mẹ” trong đạo
đức truyền thống của xã hội phong kiến phương Đơng, Hồ Chí Minh đưa vào đó
một nội dung mới, cao rộng hơn là “ trung với nước, hiếu với dân”. Người khẳng
định: Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của
Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng
vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Câu nói của Bác vừa là lời kêu gọi hành
động, vừa là định hướng chính trị, đạo đức cho mỗi người Việt Nam, không phải
chỉ trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc mà còn lâu dài mãi về sau.
Hai là, yêu thương con người.
Quan niệm này cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về lịng u thương con người
rất tồn diện và độc đáo. Bởi vậy, Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con
người là một trong những phẩm chất cao đẹp nhất. Người luôn luôn dành tình yêu
thương rộng lớn cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc
lột. Bác viết: tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta
8


được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Ở Hồ Chí Minh, tình u thương đồng bào,
đồng chí của Người rất bao la, rộng lớn và tồn diện, khơng phân biệt vùng, miền,
trẻ, già, trai, gái...hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lịng
nhân ái của Người. Tình u thương của Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn thể hiện tấm
lòng bao dung cao cả của một người Cha, đặc biệt, đối với những người phạm sai
lầm, khuyết điểm. Người căn dặn: mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng,
ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và
phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người
có thói hư tật xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp
họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi
phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời. Chính vì vậy, trong Di chúc để lại cho

mn đời sau, Người căn dặn Đảng: phải có tình đồng chí thương u lẫn nhau,
mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương con người.
Ba là, cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư
Theo Hồ Chí Minh thì: Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, có kế hoạch, sáng
tạo, có năng suất cao, với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại,
không dựa dẫm; Kiệm tức là tiết kệm sức lao động, thì giờ, tiền của của dân, của
nước, của bản thân mình, phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng
lại thành cái to, khơng xa xỉ, khơng hoang phí, khơng bừa bãi, khơng phơ trương
hình thức, khơng liên hoan chè chén lu bù; Liêm tức là luôn luôn tôn trọng, giữ gìn
của cơng và của dân, khơng xâm phạm một đồng xu, hạt thóc nào của Nhà nước,
của nhân dân, phải trong sạch, không tham lam, không tham địa vị, không tam tiền
tài, không tham sung sướng, không ham người tâng bốc mình, vì vậy mà quang
minh, chính đại, khơng bao giờ hủ hóa; Chính nghĩa là khơng tà, thẳng thắn, đứng
đắn, đối với mình thì khơng tự cao, tự đại, ln chịu khó học tập cầu tiến bộ, ln
9


tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình, đối với
người thì khơng nịnh hót người trên, khơng xem khinh người dưới, ln giữ thái độ
chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, khơng dối trá, lừa lọc, đối với việc thì để
việc cơng lên trên, lên trước việc tư, việc nhà; Chí cơng vơ tư là đem lịng chí cơng
vơ tư mà đối với người, với việc, khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình
trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau, phải “ lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng
Đó là tinh thần đồn kết quốc tế vơ sản mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng một
mệnh đề “ bốn phương vô sản đều là anh em”, là tinh thần đoàn kết với các dân tộc
bị áp bức, với nhân dân lao động các nước mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp
bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách
mạng của cả dân tộc, là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả nhân
dân tiến bộ trên tồn thế giới vì hịa bình, cơng lý và tiến bộ xã hội, vì mục tiêu hịa

bình, độc lập dân tộc và chủ ngĩa xã hội, là tinh thần hợp tác và hữu nghị.
Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục cổ động
phong trào thi đua yêu nước trong thời kỳ đổi mới, biểu dương các tập thể, cá nhân
có thành tích xuất sắc, dấy lên phong trào “ người tốt, việc tốt”, nêu ngương sáng
đạo đức cách mạng để mọi người tôn vinh và noi theo.Để học tập tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh, chúng ta, mỗi cán bộ, đảng viên càng phải ra sức hưởng ứng, học tập
và làm theo tấm gương đạo đức của Người bằng cuộc vận động “ học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” mà Đảng ta đã phát động là điều hết sức
cần thiết.
c.

Nguyên tắc xây dựng đạo đức Hồ Chí Minh

1. Nói phải đi đơi với làm, phải nêu gương về đạo đức.

10


Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh ln ln nêu gương sáng
về đạo đức, Người nói ít làm nhiều, có nhiều vấn đề về đạo đức Người làm mà
khơng nói, phải đi sâu nghiên cứu hành vi đạo đức của Người mới thấy được bản
chất sâu xa của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Đối với cán bộ đảng viên Hồ Chí Minh nêu: “… Trước mặt quần chúng không phải
ta cứ viết lên trán hai chữ cộng sản mà được họ yêu mến. Quần chúng chỉ yêu mến
những người có tư cách, đạo đức muốn hướng dẫn nhân dân mình phải làm mực
thước cho người ta bắt trước”.
Trong cuốn Đường Cách Mệnh, khi nói về tư cách người cách mệnh Hồ Chí Minh
viết: “Nói thì phải làm” “Có lịng bày vẽ cho người” hay trong tác phẩm nâng cao
đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng cần
thực hiện “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau” .

Luận điểm ấy đã khẳng định rất rõ vấn đề nêu gương có tầm quan trọng đặc biệt
trong đời sống đạo đức, nhất là đối với trách nhiệm của cán bộ, đảng viên.
Những tấm gương về đạo đức phải được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, có
tấm gương chung và riêng, lớn nhỏ, xa gần. Một nền đạo đức mới chỉ được xây
dựng trên một nền rộng lớn, vững chắc, những phẩm chất chuẩn mực đạo đức đã
trở thành hành vi đạo đức hàng ngày phổ biến trong toàn xã hội mà những tấm
gương đạo đức của những người tiêu biểu, những người tốt việc tốt có ý nghĩa thúc
đẩy cho q trình đó.
Tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh là tấm gương chung cho cả dân tộc, cho các
thế hệ mai mãi về sau. Nhưng còn nhiều tấm gương của các vị anh hùng, chiến sỹ
thi đua nhứng tấm gương của những người tiêu biểu cho từng ngành, từng cấp,
những tấm gương “Người tốt việc tốt” rất gần gũi trong đời thường có ở mọi lúc
mọi nơi mà chúng ta không thể coi thường. Về vấn đề này Hồ Chí Minh đã nói:
11


“Người tốt, việc tốt nhiều lắm ở đâu cũng có. Ngành nào, giới nào, địa phương
nào, lứa tuổi nào cũng có”.
2. Xây đi đơi với chống
Theo Hồ Chí Minh trong đời sống hàng ngày cái tốt, cái xấu, đạo đức, phi đạo đức
ln ln đan xen lẫn nhau. Chính vì vậy vừa phải xây dựng đạo đức mới, vừa
phải chống cái phi đạo đức.
Muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích cho xây. Cũng vì vậy Hồ Chí Minh
căn dặn toàn Đảng: “Phải cương quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân nâng cao đạo
đức cách mạng bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đồn kết, tính tổ chức và kỷ
luật”.
Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục
những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức từ trong gia đình, nhà trường, xã hội nhất là
trong những tập thể gắn với hoạt động mỗi người. Vấn đề quan trọng trong việc
giáo dục đạo đức là phải khơi dạy ý thức đạo đức lành mạnh ở mọi người để mọi

người tự giác nhận thức được trách nhiệm đạo đức của mình. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói, Cảm nhận thấy sâu sắc việc trau dồi đạo đức cách mạng là việc làm
“Sung sướng vẻ vang nhất trong đời này” tiếp nhận sự giáo dục đạo đức là vấn đề
nhất thiết không thể thiếu được, nhưng sự tự giáo dục, tự trau dồi đạo đức ở mỗi
người cịn quan trọng hơn nhiều đó cũng chính là điều mà Hồ Chí Minh nói về
niềm vui của việc trau dồi đạo đức phải trở thành phổ biến trong xã hội.
Khi xây dựng, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức mới phải gắn liền chống lại cái xấu,
cái sai, cái vô đạo đức thường diễn ra hàng ngày.
3. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời

12


Theo Hồ Chí Minh, Người đã nhiều lần chỉ rõ: Mỗi con người phải thường; xuyên
chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày đấy cũng là cơng việc phải
kiên trì bền bỉ suốt đời, khơng người nào có thể chủ quan tự mãn. Theo Người:
“Đạo đức cách mạng khơng phải trên trời xa xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền
bỉ hàng ngày mà phát triển củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng
luyện càng trong”.
Nếu khơng thường xun rèn luyện thì lúc khó khăn có thể vượt qua, có cơng với
cách mạng, nhưng đến khi an nhàn lại xa vào chủ nghĩa cán nhân trở thành con
người ngăn cản cách mạng, cho dân, cho nước. Cũng chính vì lẽ đó mà tu dưỡng
đạo đức phải gắn với thực tiễn bền bỉ trong mọi lúc mọi nơi, mọi hồn cảnh, có
như vậy mới phân biệt được đạo đức mới khác với đạo đức cũ.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì mỗi con người đều có cái tốt, cái xấu vấn đề
là khơng tự lừa dối mình mà nhìn thẳng vào mình thấy rõ cái tốt, cái thiện để phát
huy, thấy cái xấu, cái ác để khắc phục. Vì vậy việc tu dưỡng rèn luyện phải được
thực hiện trong hoạt động thực tiễn. Hồ Chí Minh là một tấm gương suốt đời tự rèn
luyện và trở thành tấm gương tuyệt vời về con người mới. Những đức tính q báu
của người khơng phải là bẩm sinh có được mà do q trình tu dưỡng rèn luyện học

tập, từng bước hấp thụ tinh hoa đạo đức dân tộc và nhân loại mà đã trở thành tư
tưởng bất tử.
1.2 Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
1. Suốt đời vì dân, vì nước
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của một con người cả đời phấn
đấu hy sinh, tất cả vì dân, vì nước, vì hạnh phúc con người.

13


Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao nước nhà
được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn,
áo mặc, ai cũng được học hành. Nói chuyện với đồng bào trước khi sang thăm
Pháp (ngày 30-5-1946), Hồ Chí Minh khẳng định: cả đời tơi chỉ có một mục đích,
là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi ẩn
nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xơng pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích
đó. Đến lúc nhờ quốc dân đồn kết, tranh được chính quyền, ủy thác cho tơi gánh
việc Chính phủ, tơi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng - cũng vì mục đích đó...
Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tơi cũng chỉ đeo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc
lợi dân.
Là lãnh tụ của dân tộc, với tư cách là người đứng đầu Đảng và Nhà nước, Hồ
Chí Minh nhận thức rất rõ trách nhiệm của cá nhân: Lo cho dân, cho nước từ
những việc lớn đến việc nhỏ. Hồ Chí Minh gắn bó với đồng bào theo đúng nghĩa
anh em, chị em, con cháu và thật sự Người có tình cảm, trách nhiệm với họ như
những người ruột thịt.
Khi một nhà báo nước ngoài phỏng vấn (ngày 14-7-1969), Hồ Chí Minh đã trả
lời: “Đồng chí muốn biết tình cảm của tơi đối với miền Bắc và đối với miền Nam
phải không? Tôi yêu đồng bào ở miền Bắc cũng như yêu đồng bào ở miền Nam.
Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi... Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau
khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì

thành nỗi đau khổ của tơi”.
Trong Di chúc Hồ Chí Minh viết: “Về việc riêng: Suốt đời tơi hết lịng hết sức
phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế
giới này, tơi khơng có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục
vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”
14


2. Ý chí và nghị lực tinh thần to lớn vượt qua mọi thử thách, khó khăn để đạt
được mục đích
Được ni dưỡng bởi truyền thống đạo đức của dân tộc, ở Hồ Chí Minh đã hình
thành một lý tưởng và hoài bão đúng đắn, tạo ra động lực cho Người vượt qua mọi
thử thách, chông gai để đưa cách mạng đi đến thắng lợi cuối cùng. Trên các chặng
đường cách mạng, Hồ Chí Minh sống một cuộc sống kham khổ, hành trình qua bốn
đại dương, năm châu lục. Ý chí và nghị lực tinh thần to lớn của Hồ Chí Minh
trưởng thành qua thực tiễn cách mạng, kết hợp với một niềm tin, một tinh thần lạc
quan từ trong tâm hồn của Người.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh từng bị tù đày nhiều nơi,
nhưng vẫn luôn giữ thái độ lạc quan, tin tưởng vào sức mạnh của con ngưịi, vào
cuộc sống, chính nghĩa, với ý chí, nghị lực tinh thần to lớn, vượt qua mọi thử
thách, khó khăn:
“Gạo đem vào giã bao đau đớn
Gạo giã xong rồi, trắng tựa bông;
Sống ở trên đời người cũng vậy,
Gian nan rèn luyện mới thành công”
Và:
“Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao”.
3. Hết lòng thương yêu, quý trọng, phục vụ nhân dân


15


Là một tấm gương mẫu mực phục vụ nhân dân, Hồ Chí Minh ý thức rõ rằng, cán
bộ phải có trách nhiệm với dân, làm cán bộ chứ không phải quan cách mạng, cho
nên từ việc nhỏ đến lớn đều phải vì nhân dân; ở bất kỳ cương vị nào cũng phải vì
nhân dân mà phục vụ. “Làm Chủ tịch nước mệt lắm. Trăm việc đều phải lo. Trời
mưa, trời nắng, gió bão... chưa ai lo, mình đã phải lo”. Các cháu choẹt mắt, chưa ai
lo, mình đã phải lo”. Hồ Chí Minh định nghĩa cái gì có lợi cho nhân dân, cho dân
tộc là chân lý, và Người xem phục vụ nhân dân là phục tùng chân lý; làm cơng bộc
cho dân là một việc làm cao thượng.
Hồ Chí Minh dặn dị: “Chúng ta phải u dân, kính dân thì dân mới u ta, kính
ta”. Hồ Chí Minh là người thấu hiểu dân tình, chăm lo dân sinh, nâng cao dân trí để
khơng ngừng thực hành dân chủ cho dân. Ngày đêm Người đau đáu một điều là
“giành được độc lập rồi, thì phải làm cho dân được ăn no mặc ấm”. Nếu khơng,
nền độc lập đó chẳng có giá trị gì; để dân đói, dân rét thì Đảng và Chính phủ có lỗi
với dân.
4. Nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu, ln hết mực vì con người
Giáo sư Trần Văn Giàu từng khẳng định: “Tầm cỡ của một hiền triết chung quy
là ở mức quan tâm đến con người, con người thật đang phải sống trên quả đất này
và chắc cịn sống lâu dài đến vơ tận thời gian, lấy đó làm trung tâm của mọi suy tư
và chủ đích của mọi hành động. Cụ Hồ thuộc loại hiền triết đó; vì đó mà Cụ lớn”.
Mohamed Lamari, ngun Đại sứ đặc mệnh tồn quyền Cộng hịa Dân chủ
Nhân dân Angiêri tại Việt Nam, từng khẳng định: “Ưu điểm lớn nhất của Chủ tịch
Hồ Chí Minh là khơng chỉ đấu tranh cho một lá cờ, cho một sự giải phóng ở bề mặt
bên ngồi, Người muốn tiến hành một cuộc chiến đấu cho phẩm giá con người, cho
sự giải phóng và phúc lợi của tồn dân và nhờ thế mà cuộc cách mạng do Người
phát động đã mang tầm cỡ thế giới".
16



Trong Di chúc, Bác viết: “Đầu tiên là công việc đối với con người’.
Lòng khoan dung nhân ái của Hồ Chí Minh ln dành hết mực cho mọi kiếp
người. Người cảm thấy rất đau khổ khi nhìn thấy những thanh niên Mỹ chết một
cách vơ ích ở Việt Nam. Hiếm có một lãnh tụ nào trong chiến tranh mà lại thấy
được máu nào cũng là máu, người nào cũng là người, đều quý như nhau. Ngay đối
với kẻ xâm lược đã gây nên bao đau thương cho dân tộc mình, gây ra bao tội ác đối
với nhân dân, nhưng khi bị bắt, Người vẫn căn dặn cán bộ, chiến sĩ ta phải đối xử
với họ một cách khoan hồng, phải làm cho thế giới thấy rằng dân tộc Việt Nam là
một dân tộc văn minh, tiến bộ, văn minh hơn bọn đi giết người, cướp nước.
5. Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản
dị và hết sức khiêm tốn
Hồ Chí Minh thực hành triệt để tất cả những gì Người quan niệm, thậm chí
Người cịn làm nhiều hơn những gì Người nói.
Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về thực hành tiết kiệm trong ăn, mặc, ở, đi lại...
Mọi cái ở Người được sử dụng một cách hợp lý. Ở Hồ Chí Minh, tiết kiệm đã trở
thành nếp sống, sinh hoạt, thành giá trị văn hoá, triết lý nhân sinh, biểu trưng của
lối sống văn minh, hiện đại làm cơ sở cho việc thực hiện tinh thần nhân văn cao cả
trong thế giới cịn nghèo đói, khó khăn, vật lộn để sinh tồn và phát triển.
Giữ mình liêm khiết, trong sạch, Hồ Chí Minh sống trung thực, chân thành với
chính mình và với người khác, luôn tôn trọng nhân cách người khác. Người biết
nâng con người lên, khuyến khích, động viên để con người thấy rõ giá trị đích thực
của cuộc sống, có khát vọng sống.
Hồ Chí Minh là một tấm gương đấu tranh không mệt mỏi chống lại cái ác, cái
xấu trong xã hội, trong mỗi con người, những biểu hiện tiêu cực, nhất là căn bệnh
17


tham ơ, lãng phí, quan liêu trong bộ máy tổ chức của Đảng, Nhà nước. Hồ Chí
Minh có thái độ rõ ràng, công minh trước công và tội. Người viết nhiều bài báo

giáo dục, cảnh tỉnh cán bộ, đảng viên khơng được phép làm “quan cách mạng”,
phịng tránh những cám dỗ đời thường để không bị ngã gục trước những “viên đạn
bọc đường”. Người đã trực tiếp chỉ đạo xét xử những vụ án lớn; phân tích thấu tình
đạt lý những nguyên nhân dẫn đến lỗi lầm của cán bộ, đảng viên, trong đó có đảng
viên có chức có quyền, củng cố niềm tin của nhân dân vào cán cân công lý của luật
pháp, vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và bản chất tốt đẹp của chế độ ta.
2.

Liên hệ với sinh viên Đại học Thương Mại
2.1. Thực trạng
a. Ưu điểm

Hầu hết sinh viên đều kế thừa và phát huy được những giá trị đạo đức tốt đẹp, có
lối sống lành mạnh, đồn kết, nhân ái và có tinh thần cộng đồng, ý thức giữ gìn,
tiếp nối bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Phong thái tự tin, năng
động luôn thường trực trong mỗi sinh viên của trường. Ta có thể nhớ đến cuộc thi
“Nhà quản trị nhân lực Tâm và Tài” được diễn ra năm 2017, chủ đề Quản trị nhân
lực trong bối cảnh hội nhập quốc tế với slogan: “Trau dồi kiến thức - Thể hiện kỹ
năng - Thỏa sức sáng tạo”. cuộc thi được hơn 50 đội thi từ đông đảo các bạn sinh
viên từ khoa U tham gia một cách nhiệt tình đam mê.
Khơng những thế, sinh viên Đại học Thương Mại ln có động cơ học tập
nghiêm túc, tự giác chăm chỉ học tập, nghiên cứu khoa học, tích lũy kiến thức, rèn
luyện kỹ năng nghề nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Sinh
viên trong trường luôn cố gắng phấn đấu để giành được học bổng mỗi năm.
Tinh thần tương thân tương ái, đoàn kết, nhiệt tình được thơng qua các hoạt
động Đồn thể của sinh viên. Đó là việc tích cực tham gia các câu lạc bộ tình
nguyện, hưởng ứng các chương trình tình nguyện như Tết ấm bản em, Mùa đơng
18



yêu thương, Tư vấn tuyển sinh,…, tiêu biểu là mùa hè xanh 2019 với chuyến đi tới
xã Vũ Bản, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam của CLB Tình nguyện TMU – Tuổi trẻ
xanh (trực thuộc Đoàn thanh niên Trường ĐH Thương Mại) với mục đích tri ân
những người anh hùng của Tổ quốc ở nơi đây nhân ngày 27/07. Hay trong chương
trình hiến máu tình nguyện do trường phát động, sinh viên trường cũng tích cực
tham gia, tiêu biểu trong năm học 2018 – 2019, Trường phối hợp tổ chức 2 đợt và
đạt 155% kế hoạch. Các chương trình ấy đều mang đậm tính văn hóa, nhân văn,
thể hiện sâu sắc đạo lý thương người như thể thương thân, uống nước nhớ nguồn.
Lòng nhân ái, yêu thương con người được thể hiện sâu sắc trong mỗi sinh viên
trường ĐH Thương Mại.
Ta cũng thấy được sự quan tâm hết lòng giúp đỡ bạn bè, tôn trọng giáo viên với
những cách hành xử văn minh của sinh viên Thương Mại. Trên nhóm Tự học
TMU, ta có thể thấy rất nhiều bài chia sẻ về việc học, chỉ dẫn nhau các bài tập khó,
các kinh nghiệm học tập để tiến bộ cùng nhau tiến bộ…Hơn thế nữa, đằng sau tình
u bóng đá cuồng nhiệt là tình u Tổ quốc, tinh thần đồn kết cộng đồng và khát
vọng xây dựng đất nước hùng cường.
b. Hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm ấy, sinh viên Thương Mại vẫn tồn tại một số điểm hạn
chế nhất định như gian lận trong kiểm tra, thi cử. Cũng trong nhóm Tự học TMU,
nhu cầu làm khóa luận, làm bài kiểm tra, đi học thuê với các mức giá thỏa thuận
inbox được đăng lên rất nhiều, nhất là đến mỗi dịp thi cử, thảo luận. Tính kỷ luật
của sinh viên cịn chưa cao, tình trạng đi học muộn vẫn thường xuyên xảy ra với đủ
các lý do. Bên cạnh đó, nhiều sinh viên vẫn chưa tuân thủ quy định về an tồn giao
thơng như khơng đội mũ bảo hiểm, vượt đèn đỏ, phóng nhanh vượt ẩu.

19


Một số bộ phận sinh viên trong trường vẫn chưa có ý thức rèn luyện sức khỏe,
sống khơng lành mạnh với việc thức khuya “cày” phim truyện, và dậy rất muộn

vào sáng hơm sau, dẫn đến tình trạng mệt mỏi khi học tập trên lớp. Thực trạng của
việc lười học vẫn diễn ra, chỉ đến sát ngày thi mới ôn bài, mới “chạy” deadline.
Một vấn đề gây nhức nhối trong trường học nữa, đó là văn hóa trang phuc đến
trường. Đa số sinh viên đều chọn cho mình những bộ trang phục lịch sự, phù hợp
với ngành học, trường học thì vẫn cịn một bộ phận sinh viên vẫn ăn mặc hở hang,
quần áo ngắn, hay kể cả những bộ đồ ngủ đến trường, gây ra sự thiếu tôn trọng
thầy cô và bạn bè, không văn minh nơi trường học.
Sự khác biệt về hồn cảnh xuất thân, mơi trường sống, điều kiện kinh tế của sinh
viên cũng là hạn chế, gây ra khơng ít khó khăn về tâm lý khiến một số sinh viên rất
dễ chán nản, bỏ bê việc học tập hoặc không theo kịp, không đáp ứng được các yêu
cầu học tập.
2.2. Giải pháp
Các bạn sinh viên nên coi trọng các hoạt động giáo dục đạo đức, coi trọng việc
tu dưỡng đạo đức của bản thân. Đạo đức được hình thành trên cơ sở tự giác tu
dưỡng của sinh viên. Nó địi hỏi mỗi người cần phải tích cực rèn luyện thông qua
các hoạt động thực tiễn, học tập, trong các mối quan hệ của mình, khơng tự lừa dối,
phải thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện cũng như cái chưa tốt, cái xấu, cái ác của
mình để khắc phục. Bên cạnh đó, sinh viên nên nhiệt tình, năng động tham gia các
phong trào tập thể, các cơng tác xã hội. Nói phải đi đơi với làm, khơng nói một
đàng làm một nẻo. Xây dựng đức tính học tập và làm việc có kỷ luật, chấp hành
nghiêm chỉnh mọi quy định của pháp luật. Bảo vệ sức khỏe và có kế hoạch sống
lành mạnh. Ln phát huy vai trò tự học tập, rèn luyện đạo đức, lối sống của học
sinh, sinh viên. Sinh viên là lớp trẻ, khỏe, có nhiệt tình cách mạng, nhạy cảm với
20


cái mới, cái tiến bộ. Phát huy vai trò của sinh viên trong tự học, tự tu dưỡng đạo
đức, lối sống là biện pháp quan trọng giúp sinh viên nhanh chóng tiến bộ, trưởng
thành. Đó cịn là điều kiện quyết định kết quả rèn luyện của mỗi cá nhân. Nâng
cao tinh thần tự học của mình. Xác định rõ trách nhiệm trước Tổ quốc và nhân dân,

sống có lý tưởng, có hồi bão, khát khao vươn tới cái mới, cái tiến bộ. Bản thân
mỗi người phải tự giác rèn luyện, biết kiềm chế, biết tự vượt qua những cám dỗ và
tiêu cực xã hội, những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, ích kỉ, thực dụng, lợi mình
hại người. Sinh viên cần phải tự tin vào bản thân, giữ vững niềm tin trong cuộc
sống và các giá trị chân – thiện – mỹ, vượt qua mọi khó khăn gian khổ như Bác Hồ
đã dạy:
“Khơng có việc gì khó
Chỉ sợ lịng khơng bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”
Nhà trường cũng cần phải coi trọng hoạt động giáo dục đạo đức nói chung và
đạo đức nghề ngiệp trong trường học. Trước hết, phải hình thành cho sinh viên nhu
cầu, động cơ phấn đấu, rèn luyện đúng đắn, làm cho mỗi người có ý thức làm chủ,
ham học, câu tiến, vươn lên tự khẳng định mình. Cần tạo mọi điều kiện thuận lợi
để sinh viên phấn đấu, rèn luyện, đồng thời phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra,
đánh giá kết quả, định hướng phấn đấu cho sinh viên. Quan tâm, đáp ứng những
nhu cầu chính đáng của sinh viên về vật chất, tinh thần, giao nhiệm vụ phù hợp với
sở trường, năng khiếu, đặc điểm tâm sinh lý sẽ tạo điều kiện tốt để sinh viên rền
luyện đạo đức lối sống.

KẾT LUẬN
21


Qua quá trình tìm hiểu về tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã giúp
sinh viên mỗi chúng ta càng thêm hiểu biết và tự hào về con người Hồ Chí Minh.
Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức của người là mệnh lệnh của mỗi trái tim con
người Việt Nam, là tiếng lòng, là khát khao mong mỏi và là mục tiêu mà mỗi con
người Việt Nam đnag theo đuổi và hướng tới.
Đối với bản thân mỗi sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức

Hồ Chí Minh là cơ sở để hồn thiện bản thân, vì đạo đức của mỗi con người không
phải tự nhiên mà xuất hiện, mà là do mỗi người tự học tập, tu dưỡng và rèn luyện
mà dần hồn thiện hơn. Vì vậy để giữ gìn và phát huy những giá trị cao đẹp của
người đòi hỏi mỗi người phải thường xuyên học tập, tu dưỡng, rèn luyện, tự hồn
thiện chính bản thân mình. Mọi sự bng thả, thiếu tự giác học tập, rèn luyện tu
dưỡng, xa rời sự quản lý, giáo dục của tập thể, cộng đồng, đồn thể và gia đình, xã
hội là con đường dẫn đến hư hỏng, tự đánh mất chính bản thân mình. Vì vậy bản
thân cần phải nhận thức đầy đủ vị trí của vấn đề đạo đức, thường xuyên tự giác, nỗ
lực học tập rèn luyện, tu dưỡng theo gương Bác Hồ vĩ đại.
Tài liệu tham khảo:
/> /> />
22


23



×