Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Tài liệu Một số vấn đề về nhà nước pháp quyền ở nước ta pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.61 KB, 7 trang )

NGUYỄN THỊ BÍCH THÙY – TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
Một số vấn đề về nhà nước pháp quyền ở nước ta
Qua mấy chục năm xây dựng và đổi mới phương thức tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (1994),
Đảng ta đã xác định nhiệm vụ và phương hướng xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Đây là nhiệm vụ lớn lao của Đảng và của toàn dân tộc, cho nên Đảng ta luôn
quan tâm chỉ đạo thực hiện và cụ thể hóa trong các văn kiện của Đảng như:
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, khóa VII, năm 1995; Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII, v.v
Để góp phần nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong những năm qua, chúng tôi xin
đề cập, trao đổi, làm sáng tỏ thêm một số vấn đề.
I - Về khái niệm nhà nước pháp quyền
Trong việc nghiên cứu về nhà nước và pháp luật, vấn đề nhà nước pháp
quyền trở thành mối quan tâm đặc biệt của nhiều tác giả là những người làm
công tác thực tiễn cũng như nghiên cứu khoa học pháp lý hiện nay ở trong
nước cũng như ở ngoài nước. Do cách tiếp cận vấn đề hoặc nhận định đánh
giá vấn đề ở góc độ khác nhau, một số vấn đề rất cơ bản liên quan đến nhà
nước pháp quyền vẫn chưa có nhận thức thống nhất hoặc chưa được làm
sáng tỏ. Tuy nhiên, hầu hết các tác giả đều thống nhất cho rằng: dưới góc độ
chính trị - xã hội và phân tầng giai cấp xã hội, nhà nước pháp quyền không
phải là một kiểu nhà nước mới, thoát ly các kiểu nhà nước mà lịch sử nhân
loại đã chứng kiến là: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư
sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Vậy, nhà nước pháp quyền là kiểu nhà nước gì? Chúng ta có thể khẳng định
rằng, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước độc lập với các
kiểu nhà nước nói trên và nó cũng không phải là nhà nước kiểu mới không
mang tính giai cấp trong thời đại công nghiệp hiện nay như một số học giả tư
sản đã từng tuyên bố.
Qua thực tiễn tồn tại và phát triển của lịch sử nhân loại, qua nghiên cứu các


quan điểm tư tưởng về tổ chức, xây dựng và vận hành của bộ máy nhà nước
qua các thời kỳ lịch sử, chúng tôi cho rằng, khái niệm nhà nước pháp quyền
đề cập đến phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước
nói chung thông qua hệ thống pháp luật, như hiến pháp, luật và các văn bản
pháp quy khác. Nói cách khác, nhà nước pháp quyền là nhà nước được xem
xét dưới góc độ pháp luật, trong đó tính tối cao của pháp luật được tôn trọng,
các tư tưởng và hành vi chính trị, tôn giáo của bất cứ tổ chức hoặc cá nhân
nào cũng được giới hạn bởi khuôn khổ pháp luật và chịu sự điều chỉnh của
pháp luật.
Với cách tiếp cận này, chúng ta có thể thấy, tư tưởng về xây dựng nhà nước
pháp quyền đã có từ rất lâu trong lịch sử nhân loại và tương ứng với mỗi kiểu
nhà nước (chủ nô, phong kiến, tư sản, xã hội chủ nghĩa) đều có một hệ thống
pháp luật tương ứng và đạt mức độ phát triển khác nhau. Tuy nhiên, chúng
tôi cũng không thống nhất với quan điểm cho rằng, "bất cứ nhà nước nào có
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
NGUYỄN THỊ BÍCH THÙY – TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
hiến pháp, luật và các văn bản quy phạm khác nhau đều coi là nhà nước
pháp quyền" mà cần xác định rằng, tư tưởng về nhà nước pháp quyền phát
triển không ngừng, là thành quả của nhân loại, nó hình thành và phát triển
cùng với sự tiến bộ xã hội và cho đến nay đã được thế giới thừa nhận về mặt
lý luận như một học thuyết về nhà nước pháp quyền. Tại Hội nghị quốc tế về
nhà nước pháp quyền được tổ chức tại Bê-nanh, năm 1992, các luật gia đã
đưa ra nhiều khái niệm, tiêu chí về một nhà nước pháp quyền và được đông
đảo dư luận quốc tế đồng tình, bao gồm: sự thừa nhận tính tối cao của pháp
luật; việc xác định quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trong bộ máy quyền
lực nhà nước; việc tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn
trọng pháp luật quốc tế v.v Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, vấn đề nhà nước
pháp quyền đề cập đến phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy
nhà nước dưới góc độ pháp luật, mà pháp luật thì bao giờ cũng mang tính
giai cấp và tính đặc thù của mỗi nhà nước, mỗi dân tộc; do đó, phương thức

tổ chức xây dựng và vận hành của nhà nước pháp quyền sẽ thể hiện cụ thể
khác nhau về bản chất chế độ chính trị, hệ thống quan điểm, mục đích nhiệm
vụ của từng thời kỳ phát triển hoặc điều kiện cụ thể của mỗi nước, chứ không
có mô hình, tiêu chí về nhà nước pháp quyền đồng nhất cho tất cả các nước
khác nhau.
Qua nghiên cứu sự hình thành, phát triển và các quan điểm lý luận về nhà
nước pháp quyền hiện nay, chúng ta có thể xác định, nhà nước pháp quyền
là nhà nước trong đó phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy
nhà nước do pháp luật quy định và thừa nhận tính tối cao của pháp luật; bao
hàm việc xác định rõ ràng quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với hệ
thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và nguyện vọng
của nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội,
nhất là việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản của công dân (hoặc
con người nói chung).
Từ đó, chúng ta có thể rút ra bốn tiêu chí chung của nhà nước pháp quyền
như sau:
- Phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước phải do
pháp luật quy định;
- Nhà nước và công dân phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật (đảng phái,
tổ chức, tôn giáo phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ của pháp
luật);
- Quyền lực nhà nước được xác định gồm: quyền lập pháp, quyền hành pháp
và quyền tư pháp;
- Có hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và nguyện
vọng của nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã
hội; đặc biệt là bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản của công dân
(hoặc con người nói chung).
II - Sự khác nhau giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà
nước pháp quyền tư sản
Trên cơ sở các tiêu chí chung về nhà nước pháp quyền, chúng ta có thể nhận

thấy tương đối rõ ràng sự khác nhau giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa với Nhà nước pháp quyền tư sản.
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
NGUYỄN THỊ BÍCH THÙY – TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
1 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền tư sản
đều phải thừa nhận phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà
nước do pháp luật quy định. Tuy nhiên, bản chất và nội dung pháp luật về tổ
chức, xây dựng và vận hành bộ máy của hai nhà nước đó có nhiều điểm khác
nhau rất cơ bản. Rõ nhất là,sự khác nhau trong các quy phạm của hiến pháp
và pháp luật về tổ chức, cơ cấu nhân sự và việc xây dựng, vận hành của bộ
máy quyền lực như: Quốc hội và Nghị viện; Tổng thống và Chủ tịch nước,
Thủ tướng Chính phủ, Tòa án, Tòa án Hiến pháp, v.v.
Nhà nước pháp quyền xhcn:
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
NGUYỄN THỊ BÍCH THÙY – TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thừa nhận tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân bầu ra các cơ quan quyền lực
(Quốc hội, Chính phủ ) và chỉ có nhân dân trực tiếp hoặc thông qua các đại
biểu của mình là chủ thể duy nhất có quyền tuyên bố chấm dứt hoạt động của
Quốc hội, Chính phủ hoặc tổ chức ra Quốc hội và Chính phủ nhiệm kỳ mới.
Nhà nước pháp quyền tư sản:
Hiến pháp và pháp luật tư sản lại thừa nhận quyền lực của cá nhân Tổng thống
hoặc cá nhân Thủ tướng có quyền giải tán Nghị viện (Quốc hội) hoặc giải tán
Chính phủ
2 - Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước và công dân đều
phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật, vì pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện
ý chí và nguyện vọng của toàn thể nhân dân.
Trong Nhà nước pháp quyền tư sản, nhà nước và công dân cũng phải thừa
nhận tính tối cao của pháp luật, nhưng pháp luật tư sản không phải là pháp luật
của toàn dân, không thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện vọng của toàn dân mà chỉ

phản ánh ý chí, nguyện vọng của một bộ phận nhân dân, đó là những người
giàu, là giai cấp tư sản. Nói cách khác, luật pháp của Nhà nước pháp quyền tư
sản chỉ bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản và gạt ra ngoài lề quyền lợi của người
lao động - những người bị áp bức bóc lột. Đây là nội dung khác biệt cơ bản nhất
giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền tư sản.
3 - Nhà nước pháp quyền tư sản coi thuyết "tam quyền phân lập" là học thuyết
cơ bản trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, các cơ quan lập pháp, hành
pháp, tư pháp hoàn toàn độc lập với nhau trong việc thực hiện ba quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không thừa nhận việc phân chia quyền
lực mà coi quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân dân; trong đó, có
sự phân công, phối hợp, để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp nhằm bảo đảm cho quyền lực nhà nước thống nhất, được thực hiện với
hiệu quả cao nhất.
4 - Về hệ thống pháp luật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà
nước pháp quyền tư sản cũng có nhiều điểm khác nhau. Bên cạnh sự khác nhau
về tính giai cấp, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chỉ công nhận các quy
phạm pháp luật khi nó được xác lập và thông qua theo một trình tự và thủ tục
nhất định;
trong khi đó, Nhà nước pháp quyền tư sản thường coi "án lệ" hoặc "tập quán"
như một loại quy phạm pháp luật "bất thành văn".
III - Đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN 4
NGUYỄN THỊ BÍCH THÙY – TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngoài việc bảo đảm các tiêu
chí của nhà nước pháp quyền nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa nói riêng, còn có một số đặc điểm sau:
1 - Về quá trình hình thành và phát triển, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam được hình thành và phát triển trên cơ sở đánh đổ chế độ phong kiến,

thực dân, không kinh qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Đây là đặc
điểm lịch sử rất quan trọng cho chúng ta thấy rõ điểm xuất phát của quá trình
xây dựng nhà nước cùng với những khó khăn, yếu kém của hạ tầng cơ sở và
thượng tầng kiến trúc xã hội. Qua mấy chục năm phấn đấu, xây dựng và đổi mới
phương thức tổ chức và hoạt động, đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm
kỳ khóa VII (1994), lần đầu tiên trong văn bản chính thức của Đảng, chúng ta
mới xác định việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
2 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân. Đây là đặc điểm rất quan trọng mà nhà nước pháp
quyền tư sản không thể có được. Thực chất đặc điểm này của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm bảo đảm tính giai cấp, tính nhân dân của
Nhà nước ta. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và do nhân dân
định đoạt, nhân dân quyết định phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành của
bộ máy quyền lực nhà nước nhằm đáp ứng ngày càng cao lợi ích của nhân dân
và của toàn bộ dân tộc. Đây còn là sự thể hiện về tính ưu việt của chế độ xã hội
chủ nghĩa so với các chế độ khác.
3 - Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan chức năng của
nhà nước để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây là
phương thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước rất mới mẻ, chúng ta
phải lấy hiệu quả thực tiễn để kiểm nghiệm. Về nguyên tắc, chúng ta không thừa
nhận học thuyết "tam quyền phân lập" vì nó máy móc, khô cứng theo kiểu các
quyền hoàn toàn độc lập, không có sự phối hợp, thậm chí đi đến đối lập, hạn chế
sức mạnh của cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, chúng ta
cũng không thể trở lại với nguyên tắc tập quyền, tức là tập trung toàn bộ quyền
lực cao nhất của nhà nước lập pháp, hành pháp và tư pháp cho một cá nhân,
hoặc một cơ quan tổ chức nhà nước. Bởi vì, làm như vậy là đi ngược lại lịch sử
tiến bộ của nhân loại.
Vấn đề đặt ra yêu cầu chúng ta phải nghiên cứu giải quyết đó là Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải có sự phân công, phân định thẩm quyền
cho rõ ràng, minh bạch để thực hiện có hiệu quả với chất lượng cao ba quyền,
tránh tình trạng chồng chéo, tùy tiện, lạm quyền
Theo Hiến pháp và pháp luật, Quốc hội là cơ quan duy nhất được giao thực hiện
thẩm quyền lập pháp, bên cạnh đó Quốc hội còn được giao thực hiện 13 nhiệm
vụ nữa (xem Điều 2 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001); Chính phủ được phân
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN 5
NGUYỄN THỊ BÍCH THÙY – TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
công thực hiện thẩm quyền hành pháp; Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án
nhân dân tối cao được phân công thực hiện thẩm quyền tư pháp. Như vậy,
Chính phủ, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao không phải
là cơ quan được giao nhiệm vụ lập pháp, nhưng hiện nay Luật Tổ chức Chính
phủ, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân lại
quy định các cơ quan đó trình các dự án luật, pháp lệnh trước Quốc hội và Ủy
ban Thường vụ Quốc hội. Có ý kiến cho rằng, không nên giao cho Chính phủ,
Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao chủ trì soạn thảo và trình Quốc
hội các dự án luật, pháp lệnh, vì đây là thẩm quyền của Quốc hội và Ủy ban
Thường vụ Quốc hội; hơn nữa, khái niệm lập pháp phải bao hàm toàn bộ nội
dung của quá trình soạn thảo dự án luật, thông qua và ban hành luật, có như vậy
mới bảo đảm tính khách quan toàn diện và chất lượng văn bản pháp luật.
4 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ. Một trong số những nội dung cơ bản nhất của
nguyên tắc tập trung dân chủ là thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng
cấp trên. Tập trung dân chủ được thể hiện trong quá trình tổ chức và xây dựng
bộ máy quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, khi áp dụng nguyên tắc này cần cân
nhắc, xem xét các điều kiện cần và đủ để phát huy tác dụng, hiệu quả tích cực
của nguyên tắc này; đặc biệt phải lưu ý đến quyền hạn và trách nhiệm cá nhân
trong việc thực hiện công vụ của bộ máy công quyền hiện nay.
5 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có trách nhiệm bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, công dân phải làm tròn nghĩa vụ của

mình đối với Nhà nước và xã hội. Mối quan hệ qua lại giữa Nhà nước với công
dân, giữa dân chủ với kỷ cương trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam phải do pháp luật quy định và điều chỉnh. Đây là một đặc điểm quan
trọng, xuyên suốt trong toàn bộ quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền hiện
nay và phải được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
6 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý xã hội chủ yếu
bằng pháp luật, không ngừng tăng cường và đổi mới công tác lập pháp, hành
pháp và tư pháp; đồng thời, thường xuyên quan tâm đến việc tuyên truyền, giáo
dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân.
7 - Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đây là
đặc điểm nổi bật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được
Hiến pháp ghi nhận và nhân dân Việt Nam đồng tình ủng hộ. Đảng lãnh đạo Nhà
nước thông qua cương lĩnh, đường lối, chính sách được thể chế bằng pháp luật.
Đảng không làm thay Nhà nước và phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến
pháp và pháp luật. Đảng không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo của mình
nhằm tạo điều kiện cho bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu quả, đặc biệt trong
điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt
khác, Đảng không ngừng đổi mới công tác tổ chức và xây dựng bộ máy để bảo
đảm Đảng vẫn giữ được vai trò lãnh đạo Nhà nước, nhưng không chồng chéo
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN 6
NGUYỄN THỊ BÍCH THÙY – TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
với các cơ quan chức năng tương ứng trong bộ máy của Quốc hội, Chính phủ và
các cơ quan tư pháp.

NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN 7

×