Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

BAI GIAI DE THI CONG CHUC CAC NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (706.26 KB, 31 trang )

1.Anh/chi hãy nêu tình hình thực tế tham nhũng củ nước ta, các thach thức
với cơng tác phịng chống tham nhũng và những biện pháp nâng cao hiệu quả
việc phòng chống tham nhũng hiện nay?
a.Tình hình thực tế tham nhũng của nước ta năm 2021 ( theo TTXVN, số liệu tại
phiên họp thứ 21 Ban chỉ đạo trung ương về phòng chống tham nhũng tiêu cực
ngày 20/01/2022)
Kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật: 618 đảng viên do tham nhũng, cố ý làm trái
(tăng 120 đang viên so với năm 2020)
Xử lí 32 trường hợp thuộc diện Bộ Chính Trị, Ban bí thư quản lí (tăng 15 trường
hợp so với 2020)
Kiến nghị thu hồi 81.290 tỷ đồng, 811 ha đất
Kiến nghị xử lí hành chính 2.286 tập thể, 6.132 cá nhân
Chuyển cơ quan điều tra xem xét, xử lí > 330 vụ việc có dấu hiệu tội phạm (tăng
hơn 3 lần so với năm 2020)
Khởi tố điều tra về các vụ tham nhũng: 390 vụ án/1.011 bị can
Thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản , phong tỏa tài khoản, năng chặn giao dịch tài sản
> 15.000 tỷ đồng và nhiều tài sản có giá trị lớn
Thu hồi từ các vụ án thuộc diện BCĐ theo dõi, chỉ đạo năm 2021 > 9.000 tỷ đồng
(tăng 7.100 tỷ đồng so với năm 2020)
b.Các thách thức với cơng tác phịng chống tham nhũng
Một là, thách thức đến từ sự tinh vi, phức tạp của hành vi tham nhũng, tiêu
cực. Hành vi tham nhũng, tiêu cực rất đa dạng, phức tạp và biến tướng ngày càng
tinh vi, khó phát hiện. Nếu như trước đây, tham nhũng chỉ đơn giản là hành vi “ăn
cắp vặt”, nhận “phong bì”, lợi ích vật chất nhỏ, tính chất riêng lẻ, đơn giản, manh
mún, thì nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, tham nhũng đã
“biến hình”, khoản tiền tham nhũng ngày càng lớn hơn, hành vi có tính cấu kết,
nhiều vụ có tổ chức, có biểu hiện “nhóm lợi ích”, “lợi ích nhóm” ngày càng chặt
chẽ, khép kín, có sức mạnh “lũng đoạn” các quyết sách của cả tập thể, tổ chức. Lợi
ích mà tham nhũng hướng đến không chỉ dừng lại ở vật chất nữa, mà cịn phi vật
chất, khơng chỉ diễn ra trong khu vực cơng, mà cịn trong khu vực tư, có sự móc
nối, câu kết chặt chẽ giữa người có chức vụ, quyền hạn trong khu vực nhà nước với


doanh nghiệp... Không chỉ tham nhũng, hành vi tiêu cực còn đa dạng, tinh vi, phức
tạp hơn, biểu hiện trong tất cả các lĩnh vực cơng tác, đời sống chính trị của cán bộ,
công chức, viên chức...
Hai là, thách thức từ chủ thể thực hiện hành vi tham nhũng. Luật PCTN năm
2018 quy định “tham nhũng” là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi
dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi” (Khoản 1, Điều 3). Như vậy, chủ thể của
hành vi tham nhũng rất đặc biệt, phải là những người có chức vụ, quyền hạn.
Khoản 2, Điều 352 Bộ luật hình sự 2015 và Khoản 2, Điều 3 Luật PCTN giải


thích: “Người có chức vụ, quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do tuyển
dụng, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không
hưởng lương, được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhất định và có quyền hạn
nhất định trong khi thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ đó”. Luật PCTN cũng chia thành
5 nhóm chủ thể có chức vụ, quyền hạn, trong đó điển hình nhất là nhóm cán bộ,
cơng chức, viên chức. Xuất phát từ chức vụ, quyền hạn của mình, chủ thể thực hiện
hành vi tham nhũng thường có nhiều quyền lực, quan hệ, kinh nghiệm, hiểu biết và
họ có thể sử dụng quyền lực, quan hệ, hiểu biết, kinh nghiệm, tiền bạc để “ẩn
mình”, “bọc lót”, che chắn cho việc vi phạm rất chắc chắn, kỹ lưỡng, thậm chí tác
động ngược trở lại các công cụ chống tham nhũng để làm giảm hoặc vơ hiệu hóa
khả năng chống tham nhũng của các công cụ này. Những đặc điểm này của chủ thể
hành vi tham nhũng chính là yếu tố gây khó khăn, thách thức lớn cho việc phát
hiện, điều tra, xét xử hành vi tham nhũng, tiêu cực.
Ba là, thách thức từ sự suy thoái, tiêu cực trong một bộ phận cán bộ, đảng viên,
nhất là trong cơ quan có chức năng PCTN, tiêu cực. Sự suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực trong cán bộ, đảng viên là vấn đề
đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nói đến khi người bàn về đạo đức cách mạng.
Người luôn coi chủ nghĩa cá nhân, chứng bệnh tiêu cực là một loại giặc “nội xâm”,
thứ bệnh nguy hiểm ẩn nấp trong lòng mỗi con người, nguy hiểm khơng kém giặc
ngoại xâm, vì nó phá ta “từ trong phá ra”. Thứ bệnh này cũng được Đảng ta nhận

diện, chỉ ra từ Đại hội VI, nhưng đặc biệt được quan tâm và đề cập rõ nét về tính
chất diễn biến phức tạp, nhất là những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong Đại hội XII, XIII. Tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai Kết
luận và Quy định của Ban Chấp hành Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng
vừa qua (diễn ra ngày 9/12/2021, tại Hà Nội), đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng đã có bài phát biểu chỉ đạo Hội nghị rất sâu sắc và quan trọng. Theo đồng
chí Tổng Bí thư, Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) lại tiếp tục bàn về việc đẩy
mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng vì nhiều lý do, nhưng chủ yếu là việc thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng cũng cịn những hạn chế, khuyết
điểm. Trong đó, “hệ thống chính trị ở nước ta chưa thực sự trong sạch, vững mạnh
như mong muốn; khơng ít cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có
quyền, làm việc ở những ngành, lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực vẫn
thiếu tu dưỡng và rèn luyện, vẫn sa vào chủ nghĩa cá nhân, vi phạm các quy định
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bị xử lý kỷ luật của Đảng và xử lý hình sự”.
Đồng chí Tổng Bí thư đã nghiêm túc, thẳng thắn chỉ ra nguyên nhân chủ yếu là do:
“Một số cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu,
chưa nhận diện đầy đủ mức độ suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tại địa
phương, cơ quan, đơn vị mình… khơng thực hiện nghiêm ngun tắc tập trung dân
chủ, chưa gương mẫu, thẳng thắn phê bình, tự phê bình, đấu tranh với những biểu


hiện suy thối, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thậm chí cịn mắc vào chủ nghĩa cá
nhân, cục bộ, lợi ích nhóm, bị cám dỗ bởi lợi ích vật chất; thờ ơ, vơ cảm trước khó
khăn, bức xúc của nhân dân”(6).
Nhưng điều đáng lo hơn cả là, hiện nay, sự suy thối, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”, quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một số cán bộ, đảng viên trong các cơ
quan có chức năng PCTN đã bắt đầu xuất hiện và ngày càng gia tăng. Thực tiễn
thời gian qua cho thấy, có khơng ít các vụ việc tiêu cực, tham nhũng xảy ra trong
chính các cơ quan có chức năng chống tham nhũng. Đơn cử, trong ngành Thanh
tra, trong giai đoạn 2013-2020, trong các cơ quan thanh tra nhà nước đã xảy ra 71

vụ việc tham nhũng, tiêu cực, trong đó 3 vụ việc xảy ra tại thanh tra cấp bộ, 16 vụ
việc xảy ra tại thanh tra cấp tỉnh, 42 vụ tại Thanh tra cấp huyện và 9 vụ tại Thanh
tra sở. Số cán bộ, công chức, viên chức thanh tra có hành vi tham nhũng, tiêu cực
là 105 người(7). Dân gian có câu “làm nghề nào ăn nghề ấy” để nói về nghề nghiệp
của mỗi người, ai làm nghề nào thì sống bằng nghề đó, nhưng dân gian cũng có
câu “làm nghề nào, xào nghề đó” để chỉ những người tham ô, tham nhũng, kiếm
chác, lợi dụng vị trí cơng tác, nghề nghiệp của mình để trục lợi. Và điều này cũng
khơng loại trừ tình trạng tham nhũng trong chính những cơ quan có chức năng
chống tham nhũng. Bởi vậy, đồng chí Tổng Bí thư đã nhiều lần nhấn mạnh: “Phải
chống tham nhũng ngay trong chính các cơ quan có chức năng chống tham nhũng”.
Đây là một thách thức rất lớn đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải có biện pháp kiên
quyết, tồn diện và triệt để trong phòng ngừa và xử lý tham nhũng, tiêu cực, nhất là
phải kiểm soát cho được quyền lực của những người có quyền lực, có trách nhiệm
trong PCTN, khơng để sự tha hóa, biến chất, sự suy thối, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” lợi dụng, lạm dụng quyền lực để trục lợi.
Bốn là, thách thức trong quá trình hội nhập, đổi mới và sự tác động tiêu cực từ
nền kinh tế thị trường. Mặt trái của xu thế tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế
tác động khơng nhỏ làm phát sinh nhận thức chính trị sai lệch trong một bộ phận
cán bộ, đảng viên. Một số thế lực thù địch triển khai các hành động chống phá,
thực hiện âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hịa bình”, “bạo loạn lật đổ”, thúc đẩy “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đưa ra các luận điệu vơ cùng gian xảo
hịng làm thay đổi tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên, từ đó hạ
thấp vai trò lãnh đạo của Đảng và phủ định con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.
Mặt khác, hội nhập quốc tế đặt ra những vấn đề phức tạp, khó khăn và thách thức
cho cơng tác PCTN nhất là trong việc xác định hành vi tham nhũng và các biện
pháp đấu tranh PCTN. Tham nhũng ngày càng tinh vi, phức tạp hơn bởi có yếu tố
nước ngồi (việc chuyển tài sản, tiền tham nhũng ra nước ngoài hoặc hành vi tiếp
tay cho hoạt động rửa tiền của các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài vào Việt Nam;
người tham nhũng có thể lựa chọn nước ngồi là nơi khơng chỉ tẩu tán tài sản tham



nhũng mà còn là nơi để trốn tránh sau khi có hành vi tham nhũng, gây khó khăn
cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với tội phạm nguy hiểm
này)(8).
Ngoài ra, mặt trái nền kinh tế thị trường có thể làm thay đổi nhận thức, hành
động của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Khơng ít cán bộ kiên trung, gan dạ trong
thời kỳ chiến tranh nhưng trong thời bình, lại bị khuất phục nhanh chóng bởi sức
mạnh của vật chất, tiền bạc. Họ khơng cịn giữ được phương châm, ngun tắc “đặt
lợi ích của Tổ quốc, Đảng, Nhân dân lên trên lợi ích của cá nhân”. Nhiều cán bộ,
đảng viên sùng tín lối sống thực dụng, hưởng thụ, tôn thờ “chủ nghĩa cá nhân”,
thích sống một cuộc sống xa hoa, phú quí, cống hiến thì ít mà muốn hưởng thụ thì
nhiều, nên sách nhiễu, làm khó để vịi vĩnh, “gợi ý”, “lót đường”, “rải thảm”. Để có
tiền, có điều kiện đáp ứng lại lối sống này thì cán bộ, đảng viên rất dễ tham nhũng,
tiêu cực. Đây là thách thức không thể tránh khỏi trong khi chúng ta vừa xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, vừa tiếp tục duy trì và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN với nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu để góp phần
xây dựng đất nước phát triển hùng cường, giàu mạnh.
Năm là, thách thức từ chế độ chính sách, tiền lương cịn thấp, chưa bảo đảm
cho cán bộ, công chức, viên chức đủ sống để “khơng cần tham nhũng”. Chế độ
chính sách, tiền lương được ổn định, phù hợp, cơng bằng có vai trò rất quan trọng
đối với việc bảo đảm cho cuộc sống, tạo động lực làm việc và giữ vững sự liêm
chính của đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức. Tuy nhiên, hiện nay, mức lương
của cán bộ, công chức, viên chức còn thấp so với mức lương tối thiểu khu vực sản
xuất, tư nhân. Hệ thống lương công vụ vẫn nặng tính bình qn, “cào bằng”, nặng
tính bằng cấp, chưa phù hợp với năng lực làm việc. Điều này khiến cho cán bộ,
cơng chức “khơng đủ sống”, từ đó dẫn đến việc hình thành hành vi tiêu cực, “tham
nhũng vặt”.
Sáu là, thách thức từ tâm lý, văn hóa truyền thống Á Đơng có những điều kiện
tạo mơi trường thuận lợi cho tham nhũng, tiêu cực phát triển. Văn hóa truyền
thống của Việt Nam được sản sinh từ nền văn minh lúa nước, nền sản xuất nhỏ và

manh mún, người nông dân tự lo liệu mọi việc trong mảnh ruộng của mình từ đó
hình thành nên tâm lý tiểu nơng, tư lợi, thu vén cá nhân, “việc ai người ấy lo, bè ai
người ấy chống”, không quan tâm đến những người xung quanh “của mình thì giữ
bo bo, của người thì để cho bị nó ăn”. Ngồi ra, trên nền tảng sản xuất nơng
nghiệp nhỏ nên khơng địi hỏi sự phân công, phối hợp trong sản xuất, người nông
dân nảy sinh tâm lý thích thì làm, khơng thích thì nghỉ, tùy tiện. Đồng thời, cuộc
sống tiểu nông sau “lũy tre làng” cũng dẫn đến thói quen trọng tình, trọng nghĩa
hơn trọng lý. Tất cả những điều này hình thành nên một hệ ý thức văn hóa tiểu


nông, cá nhân, tùy tiện, vô nguyên tắc, thiếu tôn trọng pháp luật. Về phía người
dân, tâm lý “dĩ hịa vi q”, khơng có thói quen sử dụng pháp luật để đấu tranh với
cái sai, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình khi bị xâm phạm dẫn đến thái
độ thỏa hiệp, sống chung với tham nhũng. Thậm chí, nhiều người dân, doanh
nghiệp cịn chủ động lo lót, hối lộ, “đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn” để “được
việc”, giành lợi thế trong sản xuất kinh doanh. Về phía cán bộ, đảng viên, hệ văn
hóa tiểu nơng dẫn đến tâm lý chạy theo lợi ích cá nhân, thiếu tơn trọng pháp luật,
khơng nhìn được cái tồn cục, dẫn tới hành vi tham nhũng, tiêu cực. Nhiều cán bộ,
công chức khi giải quyết công việc cho người dân, doanh nghiệp cịn có tư tưởng
làm ơn, ban phát, có qua có lại “muốn ăn chân giị phải thị chai rượu”, từ đó,
“tham nhũng vặt” trở thành một hiện tượng phổ biến trong xã hội, hễ có cơ hội là
họ tham nhũng dù số tiền không lớn. Tâm lý tiểu nơng cịn khiến cho một bộ phận
cán bộ, đảng viên còn nể nang, né tránh, ngại va chạm khi phê bình và tự phê bình,
theo phương châm “im lặng là vàng”, “dĩ hòa vi quý”, dù biết rất rõ hành vi tiêu
cực của đồng chí, đồng đội nhưng khơng muốn phê bình, tố giác, vì sợ ảnh hưởng
đến lợi ích của bản thân, đồng thời bị coi là “cạn tàu ráo máng”, có lý nhưng khơng
có tình. Nghiêm trọng hơn, một số cán bộ, đảng viên “khen giả còn hơn chê thật”
để lấy lòng(9). Một bộ phận cấp ủy, tổ chức đảng vẫn nhận thức sai lầm rằng, công
tác PCTN, tiêu cực rất nguy hiểm nên không nên mạnh dạn, quyết liệt trong phát
hiện, đấu tranh, thậm chí cịn tìm mọi cách né tránh trách nhiệm, đùn đẩy trách

nhiệm cho người khác. Thậm chí, họ cịn cho rằng, nếu cứ PCTN, tiêu cực, xử lý
kỷ luật quá nhiều cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo cấp cao sẽ làm nhụt ý chí phấn
đấu, cố gắng, làm chùn bước cán bộ lãnh đạo quản lý, khơng khuyến khích tinh
thần đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Đã xuất hiện đâu đó lối suy nghĩ kiểm điểm, xử lý nhiều cán bộ q thì sẽ thiếu cán
bộ, khơng có đủ cán bộ để thực hiện nhiệm vụ.
Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu đẫn đến tình trạng thiếu sức chiến
đấu xảy ra ở một số cấp ủy, tổ chức đảng như Đảng ta đã chỉ ra trong thời gian qua.
Khi cán bộ, đảng viên thiếu sức chiến đấu, người dân coi tham nhũng, tiêu cực là
bình thường, chấp nhận sống chung thì cuộc đấu tranh PCTN, tiêu cực của chúng
ta gặp phải trở ngại, thách thức vô cùng lớn. Bởi vì, nhận thức, tâm lý, tư tưởng là
cái gốc rễ, nếu khơng nhận thức đúng thì hành động sẽ sai. Nếu nhận thức sai lệch,
cán bộ, đảng viên, nhân dân thỏa hiệp, sống chung với tham nhũng, tiêu cực, coi
cuộc chiến chống tham nhũng, tiêu cực không phải là trách nhiệm của mình thì
cuộc đấu tranh PCTN, tiêu cực sẽ không thể được tiến hành một cách triệt để, tham
nhũng, tiêu cực sẽ không được quét sạch. Do vậy, đây là một thách thức có ảnh
hưởng rất lớn, nếu khơng chuyển hóa, đánh bật được nhận thức, tâm lý sai lệch này
thì khơng thể thành cơng trong cuộc chiến chống tham nhũng, tiêu cực.


Bảy là, thách thức đến từ sự yếu kém trong công tác quản lý nhà nước trên một
số lĩnh vực đời sống xã hội. Mặc dù Việt Nam đã tiến hành đổi mới được 35 năm,
phấn đấu đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn
nổi bật; “đất nước ta chưa bao giờ có được tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như
ngày nay”(10) nhưng đất nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức và hạn
chế. Cơng tác quản lý nhà nước trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội cịn có
nhiều yếu kém. Tại Hội nghị tồn quốc tổng kết công tác PCTN từ năm 2013-2020,
Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, tiêu cực đã chỉ ra, một trong những hạn chế,
bất cập dẫn đến tham nhũng hiện nay là thể chế về quản lý kinh tế - xã hội, thể chế
về PCTN, tiêu cực còn nhiều khiếm khuyết, tạo kẽ hở, điều kiện thuận lợi cho một

bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái, biến chất lợi dụng để thực hiện hành vi tham
nhũng, tiêu cực, làm thất thốt rất lớn tài sản cơng. Điển hình là các quy định về
quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp còn lỏng lẻo, để xảy ra
nhiều vi phạm; quy định về quản lý và sử dụng đất đai còn nhiều sơ hở, nhất là quy
định về giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật,
lãng phí đất đai cịn xảy ra ở nhiều nơi. Tình trạng thất thốt tài sản do tham ô, cố ý
làm trái trong đầu tư xây dựng cơ bản vẫn diễn ra. Các quy định về đấu thầu chưa
khắc phục được tình trạng “quân xanh, quân đỏ”, chưa giúp các cơ quan thanh tra,
kiểm tra phát hiện và xử lý các vi phạm phổ biến trong q trình đấu thầu... Thách
thức này địi hỏi chúng ta phải gấp rút tập trung nguồn lực, hoàn thiện về mặt thể
chế để quản lý kinh tế - xã hội tốt hơn, tạo ra cơ chế để “không thể tham nhũng”.
c. Giải pháp căn cơ nâng cao hiệu quả PCTN, tiêu cực ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay
Một là, tiếp tục tập trung phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi tham
nhũng, nhất là thông qua công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án; trong đó chú trọng xử lý cả các vụ việc tiêu cực trong
cán bộ, đảng viên có tính chất phức tạp, nổi cộm, dư luận xã hội quan tâm. Tập
trung đẩy nhanh tiến độ, xử lý dứt điểm các vụ án, vụ việc tham nhũng, sai phạm
kinh tế nghiêm trọng, phức tạp với quan điểm: Tích cực, khẩn trương, rõ đến đâu
xử lý đến đó, khơng phân biệt người có hành vi phạm tội là ai, đã có dấu hiệu
phạm tội phải khởi tố điều tra và đã kết lụân có tội thì phải truy tố, xét xử. Các cơ
quan chức năng trong quá trình kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm tra toán, thi
hành án, nếu phát hiện dấu hiệu phạm tội phải kịp thời chuyển hồ sơ vụ việc đến
cơ quan điều tra để thụ lý, điều tra, xử lý theo pháp luật, khơng chờ kết thúc q
trình kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, thi hành án.
Hai là, tăng cường cơng tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, nâng cao
hơn nữa nhận thức về PCTN, tiêu cực trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Nhận
thức yếu kém, sai lệch của một bộ phận cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và
nhân dân về công tác PCTN, tiêu cực là một trong những nguyên nhân dẫn đến



những hạn chế, khuyết điểm của công tác PCTN, tiêu cực trong thời gian qua.
Nhận thức đúng đắn về vai trị, tác dụng của cơng tác PCTN, tiêu cực sẽ làm cho
cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy khi triển khai thực hiện sẽ
nghiêm chỉnh, tích cực, quyết liệt hơn. Vì vậy, trong thời gian tới, để công tác đấu
tranh PCTN, tiêu cực đạt hiệu quả cao hơn nữa, đòi hỏi cấp ủy, tổ chức đảng các
cấp nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận
trong xã hội. Tham nhũng, tiêu cực là nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ. Kiên
quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Thường xuyên giáo dục, đẩy mạnh nâng cao nhận thức cho cấp ủy, tổ chức đảng
các cấp và đội ngũ cán bộ đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, thủ trưởng cơ
quan, đơn vị về vai trị, tác dụng to lớn của cơng tác PCTN, tiêu cực. Phải đẩy
mạnh giáo dục liêm chính, hình thành “văn hóa nêu gương”, “nói đi đơi với làm”;
văn hóa “trọng liêm sỉ, danh dự” trong cán bộ, đảng viên, cơng chức, viên chức và
văn
hóa “căm ghét tham nhũng” trong đại bộ phận quần chúng nhân dân. Cấp ủy, tổ
chức đảng phải thường xuyên sử dụng sinh hoạt đảng thường kì hàng tháng hoặc tổ
chức sinh hoạt chuyên đề để tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ,
đảng viên về cơng tác phịng, chống tiêu cực, tham nhũng. Tăng cường bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh, phê phán, bác bỏ
các quan điểm sai trái, thù địch; chủ động cung cấp thơng tin chính xác, khách
quan, khoa học về PCTN, tiêu cực, phịng chống “diễn biến hịa bình”, thơng tin
xấu, độc trên mạng xã hội, internet… Thường xuyên mở các hội nghị, hội thảo
khoa học, lớp tập huấn và phát động các cuộc thi tìm hiểu về cơng tác phịng,
chống tiêu cực, tham nhũng, tạo ra một khí thế mới, một “khao khát mới”, sục sôi
và quyết liệt hơn trong đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực.
Ba là, đẩy mạnh hồn thiện cơ chế kiểm sốt chặt chẽ quyền lực trong Đảng,
Nhà nước và hệ thống chính trị theo hướng thật đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu
quả, khắc phục bằng được sự lạm quyền, lộng quyền và lợi dụng quyền lực của

cán bộ, đảng viên có chức vụ. Để làm được điều này, phải thiết lập cho được một
cơ chế kiểm soát việc thực thi quyền lực đối với người có chức vụ, quyền hạn theo
nguyên tắc mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế; quyền
hạn phải được ràng buộc với trách nhiệm, quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó,
quyền hạn càng cao, trách nhiệm càng lớn. Đặc biệt, phải chú trọng quy định thật
cụ thể chế tài xử lý vi phạm đối với cán bộ, đảng viên có hành vi tham nhũng, tiêu
cực ở nhiều lĩnh vực. Xây dựng được cơ chế kiểm soát bên trong thật hiệu quả để
việc tự kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm, tham nhũng, tiêu cực trong nội bộ cơ
quan, tổ chức, đơn vị khơng cịn “là khâu yếu”. Khơng để xảy ra sai phạm, tiêu cực
trong việc bổ nhiệm, quy hoạch, luân chuyển, điều động cán bộ; tình trạng chạy


chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp,
chạy khen thưởng, chạy danh hiệu, chạy tội. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị và tồn xã hội để kiểm sốt quyền lực. Tăng cường và nâng cao hơn
nữa hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, giải quyết khiếu nại,
tố cáo của Nhà nước; công tác giám sát của các cơ quan tư pháp, cơ quan dân cử,
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí và nhân dân đối với việc
thực thi nhiệm vụ của người có chức vụ, quyền hạn, bảo đảm quyền lực được thực
hiện đúng. Tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các cơ quan, đơn vị có nhiệm vụ
trực tiếp phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng; chấn chỉnh, xử lý kịp thời,
nghiêm minh vi phạm trong thực thi nhiệm vụ của cán nhân, cơ quan, đơn vị này,
phải chống tham nhũng ngay trong các cơ quan chống tham nhũng.
Bốn là, tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng của cấp ủy, ủy
ban kiểm tra các cấp. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng được thực hiện
nghiêm túc sẽ giảm thiểu hành vi tiêu cực, phát hiện kịp thời những vi phạm của
cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng. Đồng thời, công tác kiểm tra, giám sát được thực
hiện nghiêm chỉnh sẽ là lời cảnh tỉnh, răn đe đối với những cán bộ, đảng viên đã và
đang có ý định thực hiện hành vi tiêu cực, tham nhũng.
Cấp ủy, tổ chức đảng phải xác định đây là một trong những giải pháp “then

chốt” để xử lý hiệu quả tệ nạn tham nhũng, tiêu cực. Để nâng cao hiệu quả công
tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng, công tác kiểm tra, giám sát phải được tiến
hành thường xuyên, tồn diện và cơng khai, có trọng tâm, trọng điểm. Phải kịp thời
phát hiện, giải quyết từ sớm, ngăn chặn từ đầu, khơng để vi phạm nhỏ tích tụ thành
sai phạm lớn. Phải kiểm tra, giám sát tập trung vào những lĩnh vực dễ phát sinh
tiêu cực, tham nhũng, những vấn đề nổi cộm, gây bức xúc trong xã hội, trọng tâm
là đầu tư công, xây dựng cơ bản từ vốn nhà nước, hoạt động tín dụng, cho vay, việc
quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản; hoạt động quản lý, sử dụng tài
chính cơng, tài sản cơng; cổ phần hóa, thối vốn trong tái cơ cấu doanh nghiệp nhà
nước; quản lý vốn, tài sản đầu tư vào danh nghiệp... Chú trọng kiểm tra, giám sát,
kiểm soát quyền lực trong công tác tổ chức và cán bộ; kiểm tra, giám sát cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là người đứng đầu và cán bộ được quy hoạch vào
các vị trí lãnh đạo, quản lý; kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên có biểu hiện tham
nhũng, tiêu cực, nhiều dư luận và đơn thư phản ánh, tố cáo tham nhũng; suy thối
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội
bộ. Xây dựng thực hiện nghiêm chỉnh cơ chế trao đổi thông tin giữa các cơ quan,
đơn vị trong hoạt động kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng. Có quy định bắt buộc
các cơ quan, ban ngành phải cung cấp đầy đủ cơ sở dữ liệu thông tin về đối tượng
bị kiểm tra. Nếu cơ quan nào có dấu hiệu tiêu hủy, bao che, không cung cấp hoặc
cung cấp thơng tin sai sự thật thì sẽ bị xử lý theo mức độ vị phạm. Khi phát hiện


hoặc nghi ngờ cán bộ, cơng chức có hành vi tiêu cực, tham nhũng thì cần mở rộng
kiểm tra, giám sát toàn bộ cơ quan, đơn vị của cá nhân đó. Tập trung kiểm tra,
giám sát những người thân tín trong cùng một cơ quan, đơn vị, kể cả người thân tín
của họ đang hoạt động trong các cơ quan, đơn vị khác. Khi phát hiện cán bộ, tổ
chức, cơ quan cấp dưới có hành vi tiêu cực, tham nhũng diễn ra trong thời gian dài
thì cần kiểm tra cơng tác thanh kiểm tra của cấp ủy, ủy ban kiểm tra, cơ quan thanh
tra cấp trên trực tiếp của cơ quan, đơn vị đó nhằm đánh giá, kết luận có hành vi bao
che, tiếp tay cho tiêu cực.

Năm là, hoàn thiện thể chế quản lý về kinh tế - xã hội, bịt kín các “kẽ hở” để
“khơng thể tham nhũng”, ngăn ngừa việc chuyển dịch tài sản bất hợp pháp có
được từ tham nhũng, tiêu cực. Trong thời gian tới, cần rà sốt, sửa đổi, bổ sung,
hồn thiện các quy định pháp luật về kinh tế - xã hội, trách nhiệm giải trình, cơng
khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản cơng, đất đai, tài ngun,
khống sản, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước để kiểm sốt có hiệu quả việc
thực hiện nhiệm vụ của người có chức vụ, quyền hạn, tăng cường và nâng cao hiệu
quả PCTN, tiêu cực. Hồn thiện cơ chế kiểm sốt, giám sát nội bộ trong hoạt động
nghiệp vụ, lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp nhà
nước về tài chính, tài sản cơng để phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực trong nội bộ.
Hiện nay, các quy định về việc kê khai tài sản của cán bộ, cơng chức đã dần được
hồn thiện, nhưng chưa đủ sức để “truy quét” được tài sản tham nhũng, tiêu cực.
Pháp luật về thuế, về bất động sản chưa đánh thuế đối với các bất động sản thứ hai
của chủ sở hữu nên tạo ra kẽ hở để cán bộ, cơng chức “hợp pháp hóa” tài sản tham
nhũng, tiêu cực bằng việc để người thân đứng tên trên bất động sản, chuyển hóa tài
sản tham nhũng thành tài sản hợp pháp. Do vậy, cần phải ban hành Luật Thuế về
tài sản để điều tiết đối tượng có thu nhập cao, chống đầu cơ về nhà, đất, hạn chế
tình trạng “rửa tiền” “hợp pháp hóa” tài sản của đối tượng tham nhũng, tiêu cực.
Đồng thời, ban hành quy định tất cả các giao dịch mua bán tài sản có giá trị (tiền
tỷ) của người thân (cha mẹ, anh em, con ruột, con nuôi ) của cán bộ, công chức
không được thực hiện bằng tiền mặt, nhằm phục vụ cho hoạt động thanh tra, kiểm
tra, điều tra các đối tượng bị tình nghi tham nhũng, tiêu cực khi truy vết, theo dõi
dòng tiền, phát hiện các giao dịch nghi ngờ tài sản đã mua, bán là do hành vi tham
nhũng, tiêu cực tạo ra.
Sáu là, hồn thiện chế độ, chính sách về tiền lương cho cán bộ, công chức, viên
chức. Đây được xem là một trong những giải pháp rất quan trọng để ngăn ngừa
hành vi tiêu cực, tham nhũng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Singapore đã trả
lương rất cao cho cán bộ, công chức đủ để họ ni sống bản thân và gia đình mà
“khơng cần tham nhũng”. Khi cán bộ, công chức đã được đảm bảo cuộc sống họ sẽ
yên tâm cống hiến hết năng lực, sở trường. Ngược lại, khi cuộc sống của đội ngũ



cán bộ, cơng chức khơng được bảo đảm thì họ sẽ có nguy cơ nhũng nhiễu, tiêu cực.
Vì vậy, cần hồn thiện chế độ, chính sách đãi ngộ, tiền lương cho cán bộ, công
chức, viên chức, nhất là cán bộ, cơng chức làm trong các cơ quan có chức năng
chống tham nhũng, tiêu cực. Để làm được điều này, cần tiến hành đồng bộ các giải
pháp như: Tinh giảm biên chế để tăng quỹ lương; đẩy mạnh thực hiện quy chế tự
chủ về tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp cơng lập; hồn thiện bảng mơ tả cơng
việc; bố trí sắp xếp việc làm và trả lương theo đúng chun mơn, năng lực, phù
hợp với vị trí việc làm; quy định chế độ “dưỡng liêm”.
2.Nếu bạn là người đỗ công chức trong đợt này, Bạn hãy cho biết vai trị chủ
đạo của bạn nói riêng và của cán bộ cơng chức nói chung trong cơng cuộc Cải
cách hành chính của Tp HCM trong giai đoạn đổi mới?
Cán bộ, cơng chức là một mắt xích quan trọng, khơng thể thiếu của nền hành
chính nhà nước, là chủ thể quan trọng trong q trình cải cách hành chính. Đội ngũ
này có nhiệm vụ tổ chức thực thi chính sách, pháp luật, quản lý các lĩnh vực của
đời sống xã hội, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước
Vai trò của văn phòng thống kê:
1. Hướng dẫn, tổ chức thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch, chính
sách phát triển hoạt động thống kê; hệ thống chỉ tiêu thống kê các cấp; triển
khai các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản liên quan về thống kê.
2. Tổng hợp, biên soạn thông tin thống kê, phân tích, dự báo thống kê
a) Biên soạn báo cáo thống kê kinh tế - xã hội hàng tháng, quý, năm; báo
cáo chuyên đề và báo cáo đột xuất; tổng hợp, biên soạn số liệu thống kê kinh
tế - xã hội.
b) Tổng hợp, biên soạn các chỉ tiêu thống kê được phân công theo Phụ lục số
01 và các chỉ tiêu thống kê thuộc hệ thống chỉ tiêu thống kê khác được giao
theo quy định.
c) Biên soạn Niên giám thống kê và cá sản phẩm thống kê kinh tế - xã hội.
d) Phân tích và dự báo thống kê theo chương trình thống kê phục vụ xây

dựng, đánh giá tình hình thực hiện chiến lược, chính sách, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội; báo cáo phân tích chuyên đề.
3. Phổ biến, cung cấp thông tin thống kê
a) Xây dựng và tổ chức thực hiện Lịch phổ biến thông tin thống kê.


b) Tổ chức công bố, phổ biến, cung cấp thông tin thống kê thuộc hệ thống
chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã và các sản phẩm thống kê khác
theo quy định.
c) Tổ chức họp báo công bố thông tin thống kê kinh tế - xã hội.
d) Chủ trì rà sốt giá trị sản xuất, cung cấp thơng tin thống kê phục vụ Tổng
cục Thống kê biên soạn chỉ tiêu tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương.
đ) Cung cấp dịch vụ công về thống kê theo quy định của pháp luật.
4. Quản lý hệ thống thông tin thống kê.
5. Xây dựng, biên tập, cập nhật nội dung thông tin thống kê và phối hợp với
các phịng có liên quan quản lý, vận hành Trang thông tin điện tử của Cục
Thống kê.
6. Tổ chức tham khảo ý kiến người sử dụng thông tin thống kê nhà nước.
7. Thực hiện quản lý, tự đánh giá chất lượng thống kê theo Bộ tiêu chí chất
lượng thống kê nhà nước.
8. Phổ biến, giáo dục pháp luật và tuyên truyền kiến thức thống kê.
9. Xây dựng kế hoạch và thực hiện kiểm tra việc sử dụng số liệu, thông tin
thống kê nhà nước thuộc hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh, cấp huyện, cấp
xã đã được công bố.
10. Hướng dẫn nghiệp vụ thống kê đối với người làm công tác thống kê thuộc
hệ thống tổ chức thống kê nhà nước, doanh nghiệp, xã, phường, thị trấn và
điều tra viên thống kê.
11. Thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động thống kê; thực hiện cải cách
hành chính; tiếp công dân, tiếp nhận phản ánh của người dân, doanh nghiệp;

giải quyết đơn thư, khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy
định của pháp luật; phát hiện, ngăn chặn và xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến
nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về thống kê.
12. Nghiên cứu khoa học thống kê; ứng dụng phương pháp thống kê tiên tiến
và công nghệ thông tin vào hoạt động thống kê; triển khai các phần mềm
ứng dụng cộng nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu công tác quản lý hoạt động
thống kê.
13. Phối hợp với các đơn vị liên quan thực hiện nhiệm vụ:


a) Thực hiện các cuộc điều tra thống kê, tổng điều tra thống kê;
b) Xây dựng và thực hiện quy chế phối hợp cung cấp, chia sẻ thông tin thống
kê, sử dụng dữ liệu hành chính cho hoạt động thống kê nhà nước;
c) Thực hiện công tác tổ chức, cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng; thi đua, khen
thưởng; tài chính, hành chính.
14. Thực hiện các nhiệm vụ khác được giao

Để nâng cao hơn nữa vai trị của cán bộ, cơng chức trong cải cách hành chính,
các cơ quan có thẩm quyền cần tiến hành các biện pháp như sau:
Thứ nhất, Người được bố trí thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính phải có trình
độ chun mơn, nắm chắc
quy trình giải quyết từng vụ việc cụ thể, ứng dụng thành thạo công nghệ thông tin;
thường xuyên tập huấn, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ
cải cách hành chính. Trong kiểm tra, đánh giá phải dựa trên hiệu quả cơng việc,
bảo đảm tính cơng tâm, khách quan; đánh giá, nhận xét đúng người, đúng việc
nhằm phát hiện, chấn chỉnh kịp thời những sai sót; kiên quyết xử lý những cán bộ,
cơng chức có hành vi thiếu trách nhiệm, sai phạm nghiêm trọng xâm hại quyền lợi
ích của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, công dân. Trong q trình thực hiện các thủ
tục hành chính phải đảm bảo công khai minh bạch, nâng cao trách nhiệm, tạo điều
kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp thực hiện các dịch vụ công cần

thiết. Bên cạnh, cơ quan nhà nước cần đầu tư kinh phí, trang thiết bị phục vụ cho
hoạt động cải cách hành chính: Hệ thống máy tính, phần mềm... nhằm rút ngắn q
trình chuyển tải hồ sơ, thông tin cần thiết giữa các bộ phận có liên quan cũng như
giữa người dân với cơ quan nhà nước.
Thứ hai, đội ngũ cán bộ, công chức cần nâng cao nhận thức, thực hiện đầy đủ
nhiệm vụ thể hiện tốt vai trị, trách nhiệm của mình; khơng ngừng nâng cao ý thức,
trách nhiệm phục vụ nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói cán bộ phải có
tài và đức; có đức mà khơng có tài thì khơng khác gì ơng Bụt, khơng làm hại ai
nhưng cũng khơng làm được gì có ích cho mọi người; ngược lại, có tài mà khơng
có đức thì sẽ trở thành kẻ phá hoại. Tài và đức luôn song hành với nhau, quyết định
năng lực và nhân cách người cán bộ, cơng chức. Trong bất kỳ hồn cảnh nào, cán
bộ, cơng chức cũng phải đặt lợi ích của Nhân dân, của Đảng và Nhà nước lên hàng
đầu. Trong giao tiếp, ứng xử với Nhân dân phải luôn thể hiện tinh thần trách nhiệm
cao, không thờ ơ, lơ là trước những yêu cầu, bức xúc của Nhân dân; tích cự đấu
tranh với những hành vi tiêu cực, nhũng nhiễu, phiền hà đối với dân; đảm bảo giải
quyết đúng quy trình, lịch hẹn theo quy định; ln lắng nghe ý kiến góp ý của
người dân về thái độ phục vụ để điều chỉnh kịp thời. Mỗi cán bộ, công chức


thường xuyên học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chun mơn, chủ động học hỏi,
giáo dục tính liêm chính, đạo đức công vụ, rèn luyện kỹ năng. Khi nắm chắc
chuyên môn sẽ không ngừng sáng tạo trong xử lý cơng việc, giải quyết các tình
huống đa dạng, phức tạp trong mối quan hệ với Nhân dân. Bên cạnh đó, đội ngũ
cán bộ, công chức cần đổi mới phương thức làm việc, nâng cao tinh thần trách
nhiệm với phương châm “làm hết việc chứ không làm hết giờ”, rèn luyện kỹ năng
ứng dụng công nghệ thông tin, thực hiện tốt dịch vụ công trực tuyến ở các cấp độ
nhằm đáp ứng nhanh chóng, kịp thời yêu cầu của Nhân dân.
Thứ ba, thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến sâu rộng về cải cách hành
chính. Cải cách hành chính có tầm quan trọng, ý nghĩa, mục tiêu tác động đến sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Qua tuyên truyền, nâng cao nhận thức, vai

trò, trách nhiệm của người đứng đầu; nâng cao kỷ luật, kỷ cương hành chính, quy
tắc ứng xử của đội ngũ cán bộ, công chức. Tuyên truyền kết hợp với giáo dục lòng
yêu nước, tự hào dân tộc gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh trong đội ngũ cán bộ, cơng chức. Cơng tác tuyên truyền
về cải cách hành chính được thực hiện thường xuyên, liên tục, lồng ghép tuyên
truyền qua các đợt tập huấn chuyên ngành cho cán bộ, công chức hàng năm. Q
trình cải cách hành chính ln thể hiện thơng tin hai chiều giữa Nhà nước và Nhân
dân, giữa cán bộ, công chức và người dân. Tuyên truyền về cải cách hành chính
giúp người dân hiểu, nắm rõ quy trình, thủ tục, biết quyền, yêu cầu của mình được
thực hiện như thế nào. Tuyên truyền về ứng dụng công nghệ thơng tin, qua đó
khuyến khích người dân, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công trực tuyến nhằm tiết
kiệm thời gian và chi phí. Ở cơ sở, duy trì chun mục cải cách hành chính ở các
đài truyền thanh của xã, huyện; thường xuyên có chuyên mục gặp gỡ, đối thoại với
người dân, doanh nghiệp để kịp thời tuyên truyền về kết quả cải cách hành chính
cũng như giải đáp, xử lý những vướng mắc của người dân, qua đó, nâng cao nhận
thức, tạo sự đồng thuận, nâng cao sự hài lòng và tăng cường sự tham gia của người
dân, tổ chức vào tiến trình cải cách hành chính. Bênh cạnh đó, cơ quan nhà nước
đẩy mạnh hơn nữa việc cơng khai các quy trình, thủ tục thực hiện cơng việc tại các
điểm giao dịch giữa cơ quan nhà nước với người dân; thường xuyên khảo sát, đo
lường sự hài lòng của người dân đối với sự phục vụ của cán bộ, cơng chức. Qua
đó, cơ quan nhà nước có thể tìm hiểu, nắm rõ thêm về tâm tư, nguyện vọng cùa
người dân, đây là cơ sở để nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân.
Tóm lại, cải cách hành chính là nội dung quan trọng của nền hành chính nhà nước.
Cải cách hành chính nhằm đảm bảo hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đảm bảo
tính cơng bằng, minh bạch, loại bỏ thủ tục rườm rà, chồng chéo, gây khó khăn cho
dân. Cải cách hành chính thành cơng hay thất bại phần lớn phụ thuộc vào năng lực,
trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức. Nhận thức đầy đủ về vai trị của cán bộ,
cơng chức, việc cải cách hành chính trong thời gian tới sẽ có những bước tiến đáng
kể, đáp ứng sự kỳ vọng và tin tưởng của Nhân dân./



Câu 3: Anh/Chi hãy chỉ ra những nguyên nhân của sự hạn chế về ý thức trách
nhiệm thực thi công vụ của cán bộ công chức?
Một là, việc giáo dục và đào tạo chưa đầy đủ.
Giáo dục và đào tạo là yếu tố gắn liền với cán bộ, công chức nhằm nâng cao trình
độ chun mơn, ý thức trách nhiệm cơng vụ. Các chương trình đào tạo như: tiền
cơng vụ, bồi dưỡng theo ngạch (chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao
cấp), bồi dưỡng theo chức danh lãnh đạo, quản lý (chức danh lãnh đạo cấp phòng,
cấp xã, cấp huyện, cấp sở, cấp tỉnh, cấp vụ), bồi dưỡng lý luận chính trị (trung cấp,
cao cấp) cần có nội dung chun sâu đề cập về nghĩa vụ, bổn phận của cán bộ,
công chức trong thực thi công vụ. “Trong các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, cơng chức, bên cạnh những kiến thức, kỹ năng để nâng cao năng lực, cần thiết
phải có nội dung về trách nhiệm, đạo đức công vụ; các quy định về trách nhiệm,
đạo đức công vụ và xử lý vi phạm liên quan đến vấn đề này. Qua đó, giúp cán bộ,
cơng chức nâng cao ý thức trách nhiệm, tự giác thực hiện để hành động đúng với
bổn phận của mình”(2). “Đối với những người được tuyển dụng vào nền công vụ,
trước khi được phân cơng nhiệm vụ, họ cần trải qua một chương trình đào tạo tiền
cơng vụ, trong đó nội dung đào tạo về bổn phận, trách nhiệm, vai trò, chuẩn hành
vi của người thực thi công vụ cần đầy đủ hơn, sâu sắc hơn, gia tăng thời lượng đào
tạo”(3). Đây là một nhiệm vụ quan trọng nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của
người cán bộ, công chức để họ luôn ý thức sâu sắc về vai trò và bổn phận của mình
khi thực thi cơng vụ. Nếu việc giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng về vai trò và trách
nhiệm của cán bộ, cơng chức khơng tốt sẽ có rất nhiều cán bộ, công chức không
hiểu rõ được nghĩa vụ, trách nhiệm của mình hoặc hiểu một cách mơ hồ nên quá
trình thực thi cơng vụ dễ xảy ra sai sót. Vì vậy, cơng tác giáo dục, đào tạo cần có
chiến lược trong việc thiết kế nội dung và phương pháp đào tạo để bản thân mỗi
cán bộ, công chức thấm nhuần được tinh thần trách nhiệm và bổn phận trong thực
hiện nhiệm vụ. Làm được điều đó sẽ góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm và dần
dần trở thành nét văn hóa trong thực thi cơng vụ. Thực tế hiện nay cho thấy phần
lớn cán bộ, công chức khi đề cập đến quyền và nghĩa vụ của mình đều phải mở văn

bản quy định để đọc và nghiên cứu mà chưa nắm được những nội dung căn bản,
cốt lõi về trách nhiệm của cán bộ, công chức khi thực thi cơng vụ. Do đó, việc thực
hiện đào tạo bài bản, chuyên sâu về nghĩa vụ, bổn phận của cán bộ, công chức sẽ
hiệu quả hơn đối với mỗi cán bộ, công chức khi thực thi công vụ.
Hai là, sự tự rèn luyện của cán bộ, công chức chưa cao.
Tự rèn luyện cũng là yếu tố không thể thiếu đối với cán bộ, cơng chức. Cán bộ,
cơng chức muốn có năng lực, trình độ và phẩm chất tốt ngồi việc được đào tạo ở
cơ sở giáo dục còn cần phải được tự rèn luyện. “Cán bộ, công chức khi tham gia
hoạt động công vụ phải tuân thủ các nghĩa vụ và có trách nhiệm thực hiện đúng
quyền hạn được giao. Để đạt được điều đó, bên cạnh năng lực, trình độ, cán bộ,
công chức phải thường xuyên rèn luyện nâng cao ý thức trách nhiệm và đạo đức


công vụ”(4). “Đối với mỗi cán bộ, công chức, việc tự giáo dục trong suốt q trình
thực thi cơng vụ là yếu tố quan trọng. Tuy nhiên trên thực tế, điều này chưa trở
thành thói quen, cách nghĩ của mọi cán bộ, công chức khi thực thi công vụ. Bởi
vậy, chất lượng của hoạt động thực thi công vụ chưa cao”(5). Cán bộ, công chức
nào thường xuyên quan tâm rèn luyện sẽ có được năng lực, trình độ cao và phẩm
chất tốt để đáp ứng yêu cầu thực thi công vụ. Thực tiễn, nhiều trường hợp cán bộ,
công chức không quan tâm đến yếu tố tự rèn luyện dẫn đến những hạn chế về năng
lực, trình độ và phẩm chất, hạn chế về ý thức trách nhiệm thực thi công vụ.
Ba là, tác động mặt trái của kinh tế thị trường.
Sau hơn 30 năm đổi mới, nền kinh tế thị trường đã thúc đẩy nhanh chóng sự phát
triển đời sống kinh tế - xã hội của nước ta. Bên cạnh những mặt tích cực, mặt trái
của kinh tế thị trường như chạy theo lợi nhuận, coi trọng vật chất, sống vị kỷ cá
nhân, sẵn sàng vi phạm quy định, không coi trọng các quy tắc đạo đức đã tác động
đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có hoạt động thực thi cơng vụ.
“Trong giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, một số biểu hiện tiêu cực
do tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường đã ảnh hưởng tới lối sống, đạo đức
của một bộ phận khơng nhỏ cơng chức. Trong đó, một số biểu hiện có thể nhận

thấy như: sự coi trọng vật chất một cách “quá đà”, cơ chế khi bị kích thích cái “tơi”
một cách “thái q” và là tác nhân làm mất cân đối, thậm chí méo mó sự phát triển
nhân cách, dẫn đến sự khủng hoảng lý tưởng hay phá vỡ sự hài hịa nhân cách
(khơng cịn nói đến lý tưởng, niềm tin vì nó thực sự xa rời và thiếu thực tế). Từ đó
chuyển sang lối sống thực dụng, bộc lộ sự thấp hèn, vụ lợi...”(6). Ý thức trách
nhiệm thực thi công vụ của cán bộ, công chức đã bị tác động khi không đủ nhận
thức và bản lĩnh để ứng phó với mặt trái của kinh tế thị trường. Vì thế, ý thức và
hoạt động thực thi công vụ bị chi phối.
Bốn là, thiếu sự nghiêm minh của pháp luật.
Sự nghiêm minh của pháp luật được thể hiện khi trường hợp vi phạm pháp luật
được áp dụng đúng chế tài tương ứng với hành vi vi phạm. Khi có trường hợp vi
phạm quy định mà không xử lý kịp thời và phù hợp, đúng quy định sẽ ảnh hưởng
lớn đến sự nghiêm minh của pháp luật. Thực tế cho thấy, còn những trường hợp vi
phạm chưa được xử lý nghiêm, kéo theo hệ quả là tác động tiêu cực đến ý thức
trách nhiệm thực thi cơng vụ của cán bộ, cơng chức. Do đó, rất cần sự nghiêm
minh của pháp luật để tạo nề nếp, kỷ cương và tăng ý thức trách nhiệm của cán bộ,
công chức khi thực thi công vụ.
Năm là, yếu tố môi trường thực thi công vụ.
Môi trường thực thi công vụ là tổng thể các yếu tố liên quan đến thực thi công vụ,
vừa là nơi cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy
định, vừa là yếu tố quan trọng tác động đến việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của cán bộ, công chức. “Khi mơi trường văn hóa có nhiều yếu tố tích cực sẽ có tác
động tích cực đến việc thực thi cơng vụ của cán bộ, cơng chức, góp phần quan


trọng nâng cao chất lượng thực thi công vụ. Ngược lại, khi mơi trường văn hóa
thực thi cơng vụ có nhiều yếu tố tiêu cực sẽ tác động tiêu cực đến việc thực thi
công vụ của cán bộ, công chức. Những bất cập trong mơi trường văn hóa thực thi
cơng vụ hiện nay có thể kể đến gồm: nhận thức về bổn phận, vai trị của người thực
thi cơng vụ chưa đầy đủ, rõ ràng; ý thức tận tâm, tận tụy, trách nhiệm của người

thực thi công vụ chưa trở thành giá trị thường trực và phổ biến; tác phong giải
quyết công việc chưa chuyên nghiệp của cán bộ, công chức cịn phổ biến”(7).
Ý thức trách nhiệm thực thi cơng vụ là yếu tố quan trọng và phải là yếu tố thường
trực trong mỗi cán bộ, công chức. Bên cạnh những kết quả đạt được còn tồn tại
những hạn chế thuộc về ý thức trách nhiệm thực thi công vụ. Vì vậy, để nâng cao ý
thức trách nhiệm cho cán bộ, công chức khi thực thi công vụ cần chú trọng và quan
tâm đẩy lùi, hạn chế những yếu tố ảnh hưởng, chi phối đến bản thân cán bộ, công
chức để xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ chun mơn cao,
chun nghiệp, năng động, trách nhiệm trong thực thi công vụ.
Câu 4: Anh/chị hãy đánh giá thực trạng về công tác thống kê nghiệp vụ ở Viện
Kiểm Sốt Nhân Dân Tp HCM, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng công tác thống kê?
a.Thực trạng về công tác thống kê ở Viện KSND Tp HCM
Trong năm 2021, VKSND TP HCM đã được VKSND Tối cao trao cờ thi đua đơn
vị xuất sắc năm 2021. Ngồi ra, VKSND Tối cao cịn trao cờ Đơn vị dẫn đầu
phong trào thi đua khối cho 5 đơn vị trực thuộc VKSND TP HCM. Năm 2021, đơn
vị đã hoàn thành 67 chỉ tiêu và vượt chỉ tiêu của Ngành (tăng 8 chỉ tiêu so với năm
2020) theo quy định của hệ thống chỉ tiêu; công tác xây dựng Ngành tiếp tục được
chú trọng, chất lượng đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên được nâng lên, từng bước đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp do VKSND tối cao và Thành ủy Tp. Hồ Chí Minh đề
ra.
b.Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác thống kê:
(1) Đổi mới cơ cấu tổ chức và công tác cán bộ ngành Thống kê theo hướng tinh
gọn, hiệu quả.
(2) Tăng cường cơ sở vật chất, huy động tối đa nguồn lực phục vụ công tác thống
kê Tập trung xây dựng và phát triển hạ tầng số, nâng cấp hạ tầng công nghệ thông
tin trong công tác thống kê. Ưu tiên xây dựng trung tâm dữ liệu thống kê tập trung
từ nguồn vốn đầu tư công. Tiếp tục đầu tư hiện đại hóa cơ sở vật chất, phương tiện
và trang thiết bị phục vụ công tác quản lý nhà nước về thống kê.
(3) Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, tăng cường kết nối, khai thác dữ liệu

hành chính phục vụ cho hoạt động thống kê. Đặc biệt, tận dụng tối đa nguồn dữ
liệu từ các Bộ, ban, ngành và địa phương phục vụ tốt hơn công tác biên soạn thông
tin


(4) tập trung vào công tác đào tạo cán bộ với nhiều giải pháp, như: tự học, tự đào
tạo, đào tạo qua phân cơng, giao cơng việc,...
Câu 5: Chính quyền Tp HCM xây dựng chủ đề 2022:” Thích ứng an tồn, linh
hoạt, kiểm sốt hiệu quả dịch Covid 19, tiếp tục nâng cao chất lượng xây dựng
chính quyền đơ thị, cải thiện môi trường đầu tư, đồng hành cùng doanh
nghiệp”. Anh/Chi hãy phân tích về vấn đề này?
a.Thích ứng an tồn, linh hoạt, kiểm sốt hiệu quả dịch Covid 19
Ưu tiên, sức khỏe tính mạng của người dân lên trên hết, tiếp cận y tế sớm nhất-gần
nhất
Cơng tác phịng dịch là lâu dài, đồng bộ công tác tiêm chủng, xét nghiệm, cách ly,
tuân thủ 5K, đề cao ý thức người dân và áp dụng công nghệ thông tin.
b.Tiếp tục nâng cao chất lượng xây dựng chính quyền đơ thị
Đẩy mạnh cải cách hành chính, thủ tục hành chính, xây dựng chính quyền đơ thị
gắn với xây dựng chính quyền điện tử, đô thị thông minh; nâng cao tỷ lệ sử dụng
dịch vụ cơng trực tuyến, nâng cao tính minh bạch của chính quyền địa phương và
hiệu quả phục vụ người dân, doanh nghiệp, phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số.
Tập trung rà sốt, sắp xếp kiện tồn bộ máy các cơ quan, đơn vị phù hợp NĐ số
108/2020/NĐ-CP ngày 14/09/2020 của Chính phủ
c.Cải thiện mơi trường đầu tư, đồng hành cùng doanh nghiệp
Tiếp tục nâng cao vai trò của người đứng đầu các cấp, các ngành trong việc thao gỡ
khó khăn cho các doanh nghiệp.
Về vốn:
Vấn đề của DN hiện nay là thiếu vốn. Do vậy, ngành công thương sẽ phối hợp với
ngân hàng tổ chức các chương trình kết nối ngân hàng – DN giúp kịp thời tháo gỡ
khó khăn về vốn cho DN. Sở Cơng thương cũng tập trung chuyển đổi số, cải cách

hành chính, tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho DN từng bước ổn định, phục hồi
sản xuất kinh doanh.
Về thủ tục hành chính:
Chủ động tháo gỡ khó khăn cho DN trong giải quyết thủ tục hành chính, định kỳ 3
tháng tổ chức đối thoại về cải cách thủ tục hành chính để kịp thời ghi nhận, giải
quyết các vấn đề tồn tại, vướng mắc và đồng hành cùng DN.
thứ nhất là hình thành các cơ sở đào tạo trong DN để chia sẻ nguồn lực, rút ngắn
thời gian chuyển giao vào hoạt động kinh doanh của DN.
Thứ hai, đối với ngành du lịch khôi phục tất cả các sản phẩm du lịch trong điều
kiện thích ứng an tồn; triển khai phát triển ngành logictis; mở rộng quy mô xuất
khẩu, đẩy mạnh xúc tiến thương mại; mở rộng thị trường; hỗ trợ DN tìm kiếm trị
trường xuất nhập khẩu; nghiên cứu hình thành khu công nghiệp công nghệ cao.


Thứ ba, cải thiện môi trường đầu tư, đồng hành cùng DN, thúc đẩy hỗ trợ DN nhỏ
và vừa, tăng cường liên kết trong và ngoài nước; đẩy mạnh cải cách hành chính,
cải thiện nâng cao chất lượng mơi trường đầu tư.
Về lao động:
Giải quyết việc làm cho 300.000 lao động, trong đó có 140.000 việc làm mới; đào
tạo nghề cho 371.000 lao động. Đẩy mạnh kết nối cung cầu lao động giữa người
lao động và doanh nghiệp; tổ chức các phiên, các sàn giao dịch việc làm, chú trọng
đào tạo nghề cho 4 ngành công nghiệp trọng yếu, 9 ngành dịch vụ của Thành phố
và 8 ngành dịch chuyển tự do của khu vực để đáp ứng nhu cầu của DN và thị
trường lao động. Hỗ trợ người lao động quay trở lại làm việc tại DN gắn với các
chính sách đặc thù của Thành phố về an sinh xã hội như: nhà ở xã hội giá thấp, vận
động chủ nhà trọ giảm giá thuê phòng, xây dựng các khu lưu trú cho cơng nhân tại
các DN.
Câu 6: Tình trạng làm phát, các cách kiểm sốt
Tình trạng lạm phát 2021 và 2 tháng đầu 2022
Năm 2021, trong bối cảnh áp lực lạm phát toàn cầu ngày càng tăng cao, giá nguyên

nhiên vật liệu đầu vào cho sản xuất, giá cước vận chuyển liên tục tăng nhưng chỉ
số giá tiêu dùng (CPI) bình quân năm 2021 của Việt Nam chỉ tăng 1,84% so với
năm trước, thấp nhất trong 6 năm qua, đạt mục tiêu Quốc hội đề ra, tiếp tục là năm
kiểm sốt lạm phát thành cơng.
CPI bình qn năm 2021 tăng do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
(i) Giá xăng dầu trong nước tăng 31,74% so với năm trước (làm CPI chung tăng
1,14 điểm phần trăm), giá gas tăng 25,89% (làm CPI chung tăng 0,38 điểm phần
trăm);
(ii) Giá gạo tăng 5,79% so với năm trước (làm CPI chung tăng 0,15 điểm phần
trăm) do giá gạo trong nước tăng theo giá gạo xuất khẩu, nhu cầu tiêu dùng gạo
nếp và gạo tẻ ngon tăng trong dịp Lễ, Tết và nhu cầu tích lũy của người dân trong
thời gian giãn cách xã hội;
(iii) Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 7,03% so với năm trước do giá xi măng, sắt,
thép, cát tăng theo giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào (làm CPI chung tăng 0,14
điểm phần trăm);
(iv) Giá dịch vụ giáo dục tăng 1,87% so với năm trước (làm CPI chung tăng 0,1
điểm phần trăm) do ảnh hưởng từ đợt tăng học phí năm học mới 2020-2021 theo lộ
trình của Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính phủ.
So với tháng trước, CPI tháng 02/2022 tăng 1% (khu vực thành thị tăng 0,99%;
khu vực nông thôn tăng 1,02%). Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng
chính, có 10 nhóm hàng tăng giá so với tháng trước; 1 nhóm hàng giảm giá.


Giải pháp kiềm chế lạm phát tăng cao 2022:
Thứ nhất, Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương theo dõi chặt chẽ diễn biến giá
cả, lạm phát trên thế giới, kịp thời cảnh báo các nguy cơ ảnh hưởng đến giá cả, lạm
phát của Việt Nam. Đặc biệt, cần đánh giá, nhận định các mặt hàng, nguyên vật
liệu nào có khả năng thiếu hụt tạm thời hay trong dài hạn để từ đó đưa ra được
chính sách phù hợp.
Thứ hai, các Bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiếp tục theo

dõi sát diễn biến giá của các mặt hàng thiết yếu (lương thực, thực phẩm, xăng dầu,
gas…) có giải pháp điều hành phù hợp và chủ động chuẩn bị các nguồn hàng vào
các dịp lễ, Tết để hạn chế tăng giá. Đặc biệt, đối với mặt hàng xăng dầu, Bộ Cơng
Thương và Bộ Tài chính theo dõi sát diễn biến giá xăng dầu thế giới, đồng thời kết
hợp Quỹ bình ổn xăng dầu để hạn chế mức tăng giá của mặt hàng này đối với CPI
chung. Bộ Công Thương cần chủ động chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện thúc đẩy
sản xuất kinh doanh, bảo đảm nguồn cung và lưu thơng hàng hóa, giảm áp lực lạm
phát. Đặc biệt, thơng tin kịp thời, chính xác và rõ ràng các chính sách, giải pháp chỉ
đạo, điều hành của Chính phủ nhằm loại bỏ thơng tin sai lệch về giá cả thị trường,
không để xảy ra hiện tượng lạm phát do tâm lý.
Thứ ba, đối với các mặt hàng do Nhà nước quản lý nên tận dụng các tháng có CPI
tăng thấp để điều chỉnh giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý nhằm hạn chế lạm
phát kỳ vọng. Việc điều chỉnh giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý không nên
dồn vào các tháng cuối năm do các tháng cuối năm thường có nhu cầu tiêu dùng
cao, nếu CPI liên tục tăng cao sẽ tạo ra lạm phát kỳ vọng rất lớn và số liệu CPI so
cùng kỳ sẽ cao, tạo áp lực điều hành lạm phát cho năm sau.


Thứ tư, giá cả nguyên liệu trên thế giới sẽ tiếp tục tăng trong tương lai. Do đó,
Chính phủ cần nỗ lực thực hiện các biện pháp ngoại giao để đảm bảo nguồn
nguyên liệu thô thông qua tăng cường hợp tác với Chính phủ các nước giàu tài
nguyên, hỗ trợ các doanh nghiệp ký hợp đồng nhập khẩu nguyên liệu dài hạn, đảm
bảo nguồn nguyên liệu đầu vào, ổn định giá thành sản xuất để kiểm soát lạm phát.
Thứ năm, chú trọng phát triển kinh tế số – xã hội số; cải thiện mạnh mẽ, thực chất
môi trường đầu tư – kinh doanh; nâng cao hiệu quả cơ cấu lại nền kinh tế, qua đó
góp phần quan trọng trong việc nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của nền
kinh tế, từ đó giảm áp lực lạm phát trong trung – dài hạn.





Tình hình đất đai Tp HCM 2 tháng đầu 2022 và dự báo 2022
Năm 2022 là năm tích cực với thị trường bất động sản bởi 2 nguyên nhân:
Thứ nhất là pháp lý, do có sửa nhiều luật như Luật Đất đai; Thứ 2 là quy
hoạch giao thông, hạ tầng.
Theo kế hoạch 5 năm (2021 - 2025), năm thứ hai sẽ thực hiện nhanh hơn về
hạ tầng. Một yếu tố quy hoạch khác do các tỉnh, thành thực hiện các quy
hoạch trung tâm - thực chất là những đô thị kiểu mới.
Các rủi ro và yếu tố quyết định
Đầu tiên là rủi ro về tài chính, khi nhiều doanh nghiệp bất động sản lựa chọn
huy động vốn thông qua kênh phát hành trái phiếu, nhưng ở Việt Nam lại
chưa có tiêu chuẩn đánh giá về độ tín nhiệm của trái phiếu.
Ngoài ra, bất động sản hiện đang trong tầm ngắm của các cơ quan quản lý,
những giao dịch mang tính rủi ro sẽ bị xử lý khi pháp luật bất động sản đang
q độ và hồn thiện.
Do đó, nếu muốn đầu tư vào đâu thì cần nhìn 4 yếu tố: Kết nối và tiềm năng
kết nối; Sự quan tâm, quyết liệt của chính quyền địa phương; Sự quan tâm
của “đại bàng”, nhà đầu tư lớn; Tiềm năng phát triển của vùng đất.
TPHCM là một siêu đô thị, nhưng hệ thống hạ tầng lại chưa đồng bộ, chưa
theo kịp để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Công
tác lập, quản lý và tổ chức thực hiện quy hoạch hạ tầng kỳ thuật đô thị và
không gian xây dựng ngầm đô thị, công tác lập quy chế quản lý quy hoạch,
kiến trúc đô thị và thiết kế đô thị (tại các khu vực trung tâm, các khu vực điểm
nhấn, khu vực dọc các tuyến đường chính, các khu vực bảo tồn...) chưa đáp
ứng kịp thời theo quản lý đô thị, do đây là công tác mới mẻ, chưa có các
hướng dẫn của Bộ Xây dựng. Thực tế, nếu có hướng dẫn chung cũng khó áp
dụng, vì cịn liên quan đến phải điều chỉnh lại hệ thống đồ án quy hoạch phân
khu liên quan và bị chi phối rất nhiều bởi nguồn lực thực hiện theo quy hoạch,
tránh tình trạng có quy hoạch mà khơng thực thi.
Đặc biệt, cơng tác quản lý quy hoạch cịn xảy ra sai phạm; việc triển khai thực

hiện các dự án đơ thị chưa theo lộ trình và chưa đáp ứng u cầu. Ở một số
khu vực cịn xảy ra tình trạng xây dựng tự phát, xây dựng sai quy hoạch,
hoặc đầu cơ, lấn chiếm đất đai, một số nơi buông lỏng công tác quản lý dẫn
đến phá vỡ quy hoạch hoặc giảm tính khả thi của đồ án quy hoạch. Việc quản
lý tại một số khu vực còn chồng chéo, do vừa có quy hoạch nơng thơn mới,
vừa có quy hoạch chung xây dựng, quy hoạch phân khu; chức năng sử dụng


đất trong đồ án quy hoạch nông thôn mới không đồng nhất với đồ án quy
hoạch phân khu, quy hoạch chung xây dựng và quy hoạch sử dụng đất.
Thực tế một số đồ án quy hoạch được duyệt tại khu vực nội thành trên địa
bàn TPHCM không đảm bảo chỉ tiêu sử dụng đất cơng trình giáo dục và cây
xanh theo quy chuẩn, tiêu chuẩn hiện hành (giáo dục (mầm non, tiểu học,
trung học cơ sở) 1,8m2/người (quy đổi từ chỉ tiêu m2/ học sinh); cây xanh
2m2/người). Nguyên nhân là do lịch sử khách quan để lại, các khu vực nội
thành đa số đã lấp đầy dân cư hiện hữu từ những năm trước đây, khi lập quy
hoạch khơng cịn quỹ đất để bổ sung đất cơng trình giáo dục và công viên cây
xanh cho đủ theo quy chuẩn. Trong trường hợp quy hoạch thêm quỹ đất để
bổ sung các cơng trình này sẽ dẫn đến quy hoạch khơng khả thi do nhà nước
không đủ nguồn lực để đền bù, thu hồi đất để triển khai thực hiện theo quy
hoạch được duyệt.
Theo quy định, các đồ án quy hoạch được lập trên nền bản đồ địa hình. Tuy
nhiên hiện nay hệ thống cơ sở dữ liệu của thành phố chưa có đầy đủ bản đồ
địa hình để cung cấp cho các cơ quan khi lập quy hoạch.
Tình hình thị trường bất động sản cả năm 2021
Năm 2021 là năm có nhiều khó khăn của kinh tế Việt Nam với những tác
động tiêu cực của đại dịch Covid-19. Thị trường bất động sản chịu ảnh hưởng
nặng nề, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn,
hàng loạt dự án phải tạm dừng xây dựng... Trước tình hình đó, Chính phủ và
các Bộ, ngành đã hết sức nỗ lực, khẩn trương nghiên cứu để ban hành

nhanh chóng, kịp thời nhiều cơ chế, chính sách để giúp tháo gỡ khó khăn,
phục hồi, phát triển nền kinh tế nói chung và lĩnh vực bất động sản nói riêng.
1. Về cơng tác chỉ đạo và hồn thiện chính sách pháp luật trong lĩnh vực
bất động sản
Trong năm 2021, Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành tích cực nghiên cứu,
hồn thiện thể chế, chính sách để đảm bảo tính đồng bộ, liên thông của hệ
thống pháp luật liên quan đến đầu tư, xây dựng, kinh doanh bất động sản.
Nhiều chính sách mới ban hành và có hiệu lực trong năm 2021 về thi hành
Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Đầu tư, Luật Xây dựng và Luật Kinh doanh bất
động sản có tác động tích cực tới thị trường bất động sản.
Thủ tướng Chính phủ, Bộ Xây dựng đã có nhiều văn bản chỉ đạo kịp thời
trước tình hình thị trường có hiện tượng "sốt giá" đất nền; các doanh nghiệp
bất động sản phát hành trái phiếu với khối lượng lớn, lãi suất cao; hiện tượng
đấu giá quyền sử dụng đất có kết quả cao gấp nhiều lần giá khởi điểm…Đẩy


mạnh tiến độ giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công và đẩy mạnh thi công các
dự án đầu tư công trên cả nước để ngăn chặn tác động tiêu cực, đảm bảo thị
trường phát triển ổn định, lành mạnh.
Cùng với đó, việc điều hành tín dụng với lãi suất cho vay trong năm 2021 tiếp
tục giảm và ở mức khoảng 8-10%/năm, lãi suất gửi tiết kiệm ở mức thấp
khoảng 5-6%/năm đã góp phần kích thích việc vay vốn để mua nhà cũng như
đầu tư bất động sản khi tiềm năng tăng giá bất động sản có thể đem lại lợi
nhuận cao hơn so với gửi tiết kiệm và đầu tư sản xuất kinh doanh trong tình
hình dịch bệnh cịn nhiều nguy cơ diễn biến phức tạp như hiện nay.
2. Về nguồn cung bất động sản
Trong năm 2021, các dự án bất động sản mới được cấp phép tiếp tục giảm
so với các năm 2020 khiến nguồn cung bất động sản, nhà ở đặc biệt là nhà ở
dành cho đối tượng thu nhập thấp vẫn còn hạn chế, cụ thể:
2.1. Về số lượng các dự án phát triển nhà ở, dự án bất động sản được cấp

phép, đang triển khai, đã hoàn thành
- Đối với dự án phát triển nhà ở thương mại: Cả nước có 252 dự án với
99.958 căn hộ được cấp phép (bằng khoảng 34% so với năm 2020); có 1.046
dự án với 299.075 căn hộ đang được triển khai xây dựng (bằng khoảng
88,5% so với năm 2020); có 172 dự án với 24.027 căn hộ đã hoàn thành xây
dựng (bằng khoảng 59,7% so với năm 2020). Thể hiện ở bảng sau:

- Đối với dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân: Đối với dự án nhà ở xã hội,
trên cả nước có 09 dự án được cấp phép mới với quy mô 5.763 căn hộ; có 16
dự án với 3.046 căn hộ đã hồn thành xây dựng; có 09 dự án với 2.127 căn
hộ đủ điều kiện bán nhà ở hình thành trong tương lai theo thông báo của các
Sở Xây dựng.


×