Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

TÌNH CẢNH LẺ LOI CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ Trích “Chinh Phụ Ngâm” của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.02 KB, 7 trang )

Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

TÌNH CẢNH LẺ LOI CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ
-Trích “Chinh Phụ Ngâm” của Đặng Trần Cơn và Đồn Thị ĐiểmI. MỞ BÀI
Ra đời vào nửa đầu thế kỉ XVIII, với nguyên tác bằng Hán văn của Đặng Trần
Côn và bản diễn Nơm của Đồn Thị Điểm, Chinh phụ ngâm đã mau chóng đi vào
lịng mọi tầng lớp quần chúng. Trải qua mấy thế kỉ tồn tại, tác phẩm vẫn luôn giữ
nguyên giá trị của một viên ngọc văn chương sáng ngời. Khúc ngâm là tiếng lòng
thiết tha, thổn thức của người phụ nữ có chồng phải ra chiến trận. Trong đó, đoạn
trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ đã góp phần cho thấy rõ tâm trạng cơ đơn,
buồn tủi của người chinh phụ và nghệ thuật miêu tả tâm trạng bậc thầy của hai tác giả
Đặng – Đoàn.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Thể loại: Ngâm khúc là thể loại văn học dân tộc, do cha ông ta sáng tạo nên.
Đặc điểm của thể loại là thơ trữ tình trường thiên, có ít nhiều yếu tố tự sự diễn tả
những tình cảm đau thương, buồn bã.
- Hồn cảnh ra đời: Nửa đầu thế kỉ XVIII là thời kì vơ cùng rối ren của xã hội
phong kiến Việt Nam. Chiến tranh xảy ra liên miên hết Lê - Mạc đánh nhau đến
Trịnh - Nguyễn phân tranh, đất nước chia làm hai nửa. Khởi nghĩa nơng dân nổ ra,
triều đình phải cất quân đi đánh dẹp. Dân chúng sống trong cảnh loạn li nồi da nấu
thịt, cha mẹ xa con, vợ xa chồng… Trước hiện thực xã hội thối nát, văn học thời kì đã
này tập trung phản ánh bản chất tàn bạo, phản động của giai cấp thống trị và nỗi đau
khổ của nhân dân. Trong đó, tác giả Đặng Trần Cơn đồng cảm với nỗi niềm của
người phụ nữ có chồng ra trận để nói lên nỗi lịng của họ. Chinh phụ ngâm ra đời đã
nhận được sự đồng cảm rộng rãi của tầng lớp Nho sĩ. Có nhiều người dịch tác phẩm
này sang chữ Nơm, trong đó bản dịch của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm được đánh giá là
hoàn hảo hơn cả bởi nó thể hiện gần như trọn vẹn giá trị nội dung và nghệ thuật của
nguyên tác.


- Vị trí đoạn trích: Trích đoạn được trích từ câu 193 đến câu 216 của tác phẩm,
diễn tả tâm trạng của người chinh phụ khi phải xa chồng.
- Nội dung: Đoạn trích thể hiện tâm trạng của người chinh phụ qua rất nhiều
cung bậc cảm xúc, tình cảm khác nhau. Từ đó, phản ánh thái độ ốn ghét chiến tranh
phong kiến phi nghĩa, đề cao quyền sống cùng khát vọng tình u và hạnh phúc lứa
đơi của con người, đặc biệt là của người phụ nữ. Đó chính là một biểu hiện mới mẻ
của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam thế kỉ XVIII.
2. Đoạn 1: Nỗi nhớ nhung sầu muộn của người chinh phụ
Người chinh phụ vốn dòng dõi trâm anh và chồng nàng là một chàng trẻ tuổi
thuộc dòng dõi hào kiệt. Nàng tiễn chồng ra trận với mong muốn chồng mình sẽ lập
được cơng danh và trở về cùng với vinh hoa, phú quý. Nhưng ngay sau buổi tiễn đưa,
nàng phải sống trong tình cảnh lẻ loi, ngày đêm xót xa lo lắng cho chồng. Thấm thía
nỗi cơ đơn, nàng nhận ra tuổi xn của mình đang trơi qua vùn vụt và cảnh lứa đơi
1


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

đoàn tụ hạnh phúc ngày càng trở nên xa vời. Vì vậy mà nàng rơi vào tâm trạng cơ
đơn, sầu khổ triền miên.
2.1. Hành động lặp đi lặp lại một cách nhàm chán, vơ vị
- Trong suốt đoạn trích, người chinh phụ tưởng tượng ra cảnh chiến trường đầy
hiểm nguy, chết chóc mà xót xa, lo lắng cho chồng. Tâm trạng băn khoăn, day dứt,
buồn đau của người chinh phụ được tác giả thể hiện sinh động bằng nghệ thuật miêu
tả tâm lí tinh tế ngay từ những câu đầu:
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác địi phen.
Ngồi rèm thước chẳng mách tin,

Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết ?
Lịng thiếp riêng bi thiết mà thơi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
- Khơng gian trong đoạn thơ là ở trong và ngồi rèm. Ngoài rèm là hiên vắng,
trong rèm người chinh phụ đứng trước rèm thưa. Khơng gian căn phịng chật hẹp tù
túng, bế tắc gợi nỗi bi thương trong lòng người chinh phụ. Các từ “vắng”, “thưa” thể
hiện sự trống trải, thưa thớt cũng góp phần tơ đậm thêm nỗi cơ đơn, buồn tủi của
người chinh phụ.
- Tâm trạng băn khoăn, day dứt, lo lắng, nhớ thương của người chinh phụ được
thể hiện trong các hành động lặp đi lặp lại nhiều lần mà trước hết là qua hành động
dạo hiên vắng: Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước. Giống như người cung nữ trong
“Cung oán ngâm” của Nguyễn Gia Thiều “Ngán trăm chiều bước lại ngẩn ngơ”, nàng
lặng lẽ gieo từng bước trên thềm vắng lặng, trong nỗi cô đơn đang tràn ngập tâm hồn.
Nhịp thơ chậm gợi cảm giác như thời gian ngưng đọng. Nỗi nhớ nhung sầu muộn và
khắc khoải mong chờ khiến bước chân người chinh phụ trở nên nặng trĩu. Bước chân
này khác với bước chân vội vã của nàng Kiều khi tìm đến tình yêu:
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
Người chinh phụ thấp thỏm, bất an bởi lo lắng cho sinh mệnh của chồng ở nơi
chiến trường đầy nguy hiểm. Nàng bồn chồn đứng ngồi không yên, hết buông rèm
xuống rồi lại cuốn rèm lên: Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen. Dường như đó là những
hành động vơ thức được nàng thực hiện trong lúc âu lo.
2.2. Thao thức ngóng tin chồng
- Người chinh phụ cứ ngóng đợi tin tức của chồng và hi vọng chồng sẽ quay
trở về. Nàng mong con chim thước sẽ mang tin của người nơi chiến trận nhưng
“thước chẳng mách tin”, người chồng vẫn biền biệt và bặt vơ âm tín:
Trải mấy thu đi tin nhạn lại
Tới xuân này, tin hãy vắng không”.
- Bao nỗi băn khoăn, buồn đau, khắc khoải của nàng được đặt trong câu hỏi tu

từ: “Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?”. Trong văn học, hình ảnh ngọn đèn
2


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

thường được sử dụng để diễn tả sự thao thức suốt đêm và giãi bày tình cảm. Đã có
những câu ca dao như:
Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt
Trong “Truyện Kiều”, đại thi hào Nguyễn Du cũng mượn hình ảnh ngọn đèn
để miêu tả tâm trạng của nàng Kiều trong đêm trao duyên:
Một mình nàng, ngọn đèn khuya
Áo dầm giọt lệ, tóc se mái sầu
Người chinh phụ ở đây cũng lấy ngọn đèn để thể hiện nỗi thao thức, nhớ
thương. Nàng khát khao có người đồng cảm và chia sẻ tâm tình. Trong căn phịng
trống vắng, quạnh hiu, chỉ có cây đèn đối diện với nàng. Nàng tưởng như ngọn đèn
có thể san sẻ tâm sự của mình, nhưng:“Đèn có biết dường bằng chẳng biết”. Câu thơ
có hình thức đặc biệt khẳng định rồi lại phủ định. Ngọn đèn có biết cũng như khơng
vì nó là vật vơ tri, vơ giác khơng thể san sẻ nỗi lịng cùng người chinh phụ nên chỉ
còn nàng tự đối diện với nỗi lòng đầy “bi thiết”, buồn rầu” của mình. Trong đó, từ bi
thiết đã cực tả tâm trạng cô đơn, sầu muộn của người chinh phụ. Bi thiết là bi thương,
thảm thiết, đau đớn khơng nói thành lời, nỗi đau thương ấy nàng chỉ cịn biết kìm
nén, chơn chặt vào cõi lịng.
Người chinh phụ thức suốt đêm, ngọn đèn cũng chong suốt năm canh nên dầu
đã cạn, bấc đã tàn. Hoa đèn là tàn kết lại đầu sợi bấc đèn cháy đỏ như hoa. Hình ảnh
hoa đèn ở đây vì thế gợi sự tàn lụi, héo hon. Dấu hiệu dầu hao, bấc hỏng ấy còn
chứng tỏ người chinh phụ đã thao thức rất nhiều đêm, triền miên, khắc khoải, mong

nhớ về chồng. Nhìn hoa đèn, nàng chợt liên tưởng đến tình cảnh của mình cũng héo
hon vì khát vọng rồi vơ vọng và trong lòng nàng rưng rưng nỗi thương thân tủi phận:
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Có thể nói, trong 8 câu thơ đầu, tác giả đặc tả cảm giác cơ đơn của người chinh
phụ. Đó là cảm giác lúc nào và ở đâu cũng thấy lẻ loi, ban ngày hay ban đêm, ngồi
hiên vắng hay trong căn phịng... Nỗi cô đơn, khắc khoải ấy tưởng chừng tràn ngập
không gian và kéo dài vô tận theo thời gian.
2.3. Cảm nhận về ngoại cảnh và bước đi của thời gian
- Ngoại cảnh: Cảnh vật xung quanh không thể san sẻ mà ngược lại như cộng
hưởng với nỗi sầu miên man của người chinh phụ, khiến nàng càng đớn đau, sầu tủi:
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hịe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Tiếng gà gáy eo óc báo trời sáng làm tăng thêm vẻ tĩnh mịch, vắng lặng.
Những cây hịe phất phơ rủ bóng một cách buồn tẻ gợi cảm giác buồn bã, u sầu. Giữa
không gian ấy hẳn người chinh phụ đã cảm thấy mình nhỏ bé, cô độc biết chừng nào.
- Bước đi của thời gian: Tiếng gà gáy và hình ảnh cây hịe phất phủ rủ bóng
hết bên này đến bên khác, đủ cả bốn bên còn thể hiện bước đi về thời gian. Người
3


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

thiếu phụ thao thức suốt đêm với ngọn đèn cho tới khi gà gáy báo hiệu đêm đã tàn.
Trong suốt đêm ấy, người chinh phụ thấy thời gian trôi qua thực chậm, mỗi khắc giờ
như cả năm dài, nặng nề và vô vị. Phép so sánh “Khắc giờ đằng đẵng như niên”,
“Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa” và các từ láy “đằng đẵng”, “dằng dặc” đã

nhấn mạnh độ dài như vô tận của thời gian cũng như mối sầu không dứt của người
chinh phụ. Tâm trạng buồn đau khiến thời gian trở nên dài dằng dặc cũng được
Nguyễn Du diễn tả rất hay trong hai câu Kiều:
Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê.
2.4. Gắng gượng để thốt khỏi tâm trạng cơ đơn, u uất
- Khơng muốn bị nhấn chìm trong bi thương triền miên, người chinh phụ cố
gắng tìm mọi cách để vượt ra khỏi vịng vây của cảm giác cơ đơn đáng sợ nhưng vẫn
khơng sao thốt nổi. Nàng gắng gượng cho lòng khuây khoả nhưng càng lún sâu hơn
vào sự tuyệt vọng. Chạm đến đâu cũng là chạm vào nỗi đau, chạm vào tình cảnh lẻ
loi đơn chiếc.
- Nàng đốt hương để tìm lại sự thanh thản trong tâm hồn, nhưng hồn đà mê mải
với những linh cảm xấu. Nàng tưởng tượng ra bao cảnh chết chóc, cảnh chiến trận
với âm hồn, tử khí:
Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo,
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gị.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.
Vì thế, người chinh phụ càng chìm đắm hơn trong nỗi sợ hãi, phiền muộn.
- Nàng lấy gương soi, để tìm vui thú trong việc điểm trang nhan sắc. Nhưng
khi soi gương lại phải đối mặt với sự cơ đơn, lẻ loi vì trong gương chỉ có hình ảnh
một người thiếu phụ đang trong tâm trạng ai oán, bi thương. Soi gương, nàng lại nhận
ra nhan sắc tàn phai và tuổi thanh xuân đang trôi đi rất nhanh. Nước mắt ngày càng
chan chứa, nỗi đau khổ lại càng ngập đầy hơn.
- Nàng gượng đánh đàn nhưng khi chạm đến cây đàn nàng lại thấy tủi thân
trước những hình ảnh là biểu tượng của đơi lứa: Đàn sắt, đàn cầm gảy hịa âm với
nhau được ví cảnh vợ chồng hịa thuận. Dây đàn un ương và phím loan phượng
cũng đều là biểu tượng cho lứa đơi gắn bó, hịa hợp. Nàng gượng gảy khúc đàn loan
phượng sum vầy thì lại chạnh lịng vì tình cảnh vợ chồng đang chia ra đôi ngả. Nàng
lại lo sợ dây uyên đứt, phím loan chùng sẽ báo hiệu những điều chẳng lành. Rốt cuộc,

người chinh phụ vẫn phải ngẩn ngơ trở về với nỗi lịng mình vậy.
Như vậy, có thể nhận thấy chinh phụ đã cố gắng tìm quên bằng cách tìm đến
các thú vui những càng tìm quên lại càng đối diện với bi kịch của mình, càng đau khổ
hơn bao giờ hết.
Tiểu kết: Bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện, tác giả đã diễn tả được những
diễn biến phong phú, tinh vi các cung bậc tình cảm của người chinh phụ. Tác giả lựa
chọn và dùng từ rất kĩ, rất đắt, đặc biệt là các tính từ là từ láy làm nổi bật tính chất
của sự vật : eo óc, phất phơ, đằng đẵng, dằng dặc, mê mải, châu chan, thăm thẳm, đau
4


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

đáu... Về nhạc điệu, tác giả đã khai thác và phát huy một cách tài tình âm hưởng trầm
bổng, du dương của thể thơ song thất lục bát để diễn tả cảm xúc giống như những đợt
sóng dạt dào trong tâm trạng người chinh phụ, hết nhớ lại thương, hết lo lắng lại
trông mong, hết hi vọng lại tuyệt vọng... trong tình cảnh lẻ loi đơn chiếc. Cảnh cũng
như tình được miêu tả rất phù hợp với diễn biến của tâm trạng nhân vật.
Thông qua tâm trạng đau buồn của người chinh phụ có chồng phải tham gia
vào những cuộc tranh giành quyền lực của vua chúa, tác giả có chủ ý đề cao hạnh
phúc lứa đôi và thể hiện thái độ bất bình, phản kháng đối với chiến tranh phi nghĩa.
Tác phẩm Chinh phụ ngâm đã toát lên tư tưởng chủ đạo trong văn chương một thời,
đó là giá trị nhân đạo, tư tưởng đòi quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc rất
chính đáng của con người, nhất là quyền hạnh phúc của người phụ nữ.
3. Nỗi nhớ nhung của người chinh phụ
- Khơng gian có sự thay đổi, chuyển từ căn buồng chật hẹp, tù túng sang không
gian với thiên nhiên rộng mở:
Lịng này gửi gió đơng có tiện?

Nghìn vàng xin gửi đến non n.
Gió đơng là cơn gió từ hướng Đơng thổi tới, là cơn gió của mùa xuân; non
Yên vốn là một địa danh cách xa Thiểm Tây, Trung Quốc hơn hai ngàn dặm về phía
bắc, ở đây có nghĩa chỉ vùng núi non nghìn trùng; trời thăm thẳm, xa vời. Trong
không gian rộng, tâm trạng người thiếu phụ cũng có sự chuyển biến từ bế tắc sang
nhẹ nhàng, hửng sáng hơn.
- Trong tâm trạng có phần phấn chấn, người chinh phụ chợt nảy ra một ý nghĩ
rất chân thành mà cũng rất lãng mạn, nên thơ là nhờ ngọn gió xn gửi lịng mình là
nỗi nhớ thương, trân quý như vàng (nghìn vàng) đến người chồng ở chiến trường xa,
đang đối đầu từng ngày từng giờ với cái chết để mong kiếm chút tước hầu. Chắc
chắn, chồng nàng cũng sống trong tâm trạng nhớ thương và khao khát trở về. Nhờ gió
đơng gửi gắm bao nỗi nhớ thương nhưng đó chỉ là mong ước phi thực tế nên hi vọng
loé lên rồi vụt tắt ngay. Chỉ có nỗi nhớ là hiện thực:
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Nỗi nhớ được tác giả so sánh với hình ảnh của vũ trụ vô biên. Thăm thẳm nỗi
nhớ như thăm thẳm con đường lên trời. Câu thơ “Nhớ chàng đằng đẵng đường lên
bằng trời” là một câu thơ tuyệt bút, diễn tả nỗi nhớ thương đè nặng trong lòng, triền
miên theo thời gian đêm ngày năm tháng (đằng đẵng) và được cụ thể hóa bằng độ dài
của khơng gian (đường lên bằng trời). Khi giải thích nghĩa câu thơ này, Nguyễn
Thạch Giang đã viết: “Lòng nhớ chồng thăm thẳm dài dằng dặc vẫn có thể đến được
dù có như đường lên trời”. Có thể nói tác giả đã diễn tả một cách sâu sắc, tài tình nỗi
nhớ thương chồng của người chinh phụ. Cả một trời thương nhớ mênh mông và nỗi
buồn đau triền miên, dằng dặc, vô tận được diễn tả qua các từ láy “thăm thẳm”, “đau
đáu”, ở âm điệu triền miên của vần thơ song thất lục bát và thủ pháp nghệ thuật điệp
5



Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

cuối đầu liên hoàn “…non Yên/Non Yên…”, “…trời/Trời…”. Cách bộc lộ tâm trạng
cá nhân trực tiếp như thế này cũng là điều mới mẻ, hiếm thấy trong văn chương nước
ta thời trung đại.
- Không gian rộng mở với non Yên, gió đơng, đường lên bằng trời làm cho
người chinh phụ thốt khỏi khơng gian bế tắc và tâm trạng trở nên nhẹ nhàng hơn.
Tuy nhiên, không gian rộng lớn ấy cũng có ý nghĩa nhấn mạnh thêm sự xa cách, nhớ
nhung. Không tin tức mà cũng không gửi gắm được nỗi nhớ thương, người chinh phụ
lại phải đối mặt với thực tại, thấm thía với bi kịch của mình. Cảnh vật xung quanh
hiện hữu trước mắt, sương lạnh lẽo, tiếng cơn trùng rả rích trong mưa. Cảnh tượng
thê lương, ảm đạm, đang bủa vây lấy người chinh phụ:
Cảnh buồn người thiết tha lịng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.
Có thể nói hai câu thơ”Chinh phụ ngâm khúc” này rất gần gũi với hai câu
“Kiều” nổi tiếng:
“Cảnh nào cảnh chằng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ…”.
Giữa con người và cảnh vật dường như có sự tương đồng khiến cho nỗi sầu
thương trở nên da diết, bất tận. Cảnh vật xung quanh người chinh phụ đã chuyển
thành tâm cảnh bởi được nhìn qua đơi mắt đẫm lệ buồn thương. Sự giá lạnh của tâm
hồn làm tăng thêm sự giá lạnh của cảnh vật. Cũng giọt sương ấy đọng trên cành cây,
cũng tiếng trùng ấy rả rích trong đêm mưa gió, nhưng cảnh ấy tình này lại gợi nên
bao sóng gió, bao nỗi đoạn trường trong lịng người chinh phụ. Tình cảnh ấy, tâm
trạng ấy tự nó đã nói lên bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa kia. Ý
thơ đi từ tình đến cảnh rồi lại từ cảnh trở về tình, cứ lặp đi lặp lại như vậy nhằm thể
hiện rõ tình cảnh lẻ loi và tâm trạng cô đơn của người chinh phụ. Dù ở đâu, lúc nào,
làm gì nàng cũng chỉ lầm lũi, vị võ một mình một bóng mà thơi!

Bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện, tác giả đã diễn tả được những diễn biến
phong phú, tinh vi các cung bậc tình cảm của người chinh phụ. Cảnh cũng như tình
được miêu tả rất phù hợp với diễn biến của tâm trạng nhân vật. Thông qua tâm trạng
đau buồn của người chinh phụ đang sống trong tình, cảnh lẻ loi vì chồng phải tham
gia vào những cuộc tranh giành quyền lực của vua chúa, tác giả có chủ ý đề cao hạnh
phúc lứa đơi và thể hiện thái độ bất bình, phản kháng đối với chiến tranh phi nghĩa.
Tác phẩm Chinh phụ ngâm đã toát lên tư tưởng chủ đạo trong văn chương một thời,
đó là tư tưởng địi quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc rất chính đáng của con
người.
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG

- Về nghệ thuật: Qua thể thơ song thất lục bát, cách dung từ, hình ảnh ước lệ,
tác giả đã thể hiện một cách tinh tế các cung bậc sắc thái tình cảm khác nhau của nỗi
cơ đơn buồn khổ của người chinh phụ luôn khao khát được sống trong tình u và
hạnh phục lứa đơi. Đoạn trích cũng thể hiện tấm lòng thương yêu và cảm thong sâu
sắc của tác giả với khát khao hạnh phúc chính đáng của người chinh phụ. Cất lên
tiếng kêu nhân đạo, phản đối chiến tranh phong kiến phi nghĩa.
6


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

- Về nội dung: “Chinh phụ ngâm khúc” đã nói lên tình cảm da diết của người
vợ dành cho người chồng, ca ngợi tình yêu chung thủy của hai người. Nhưng cũng
đồng thời lên án chiến tranh phi nghĩa đã làm bao gia đình phải tan nát, làm vợ phải
xa chồng, con phải xa cha, cha mẹ xa con, …Mặt khác, tác phẩm cũng đã phản ánh
lên ý thức về cuộc sống, niềm khao khát bảo vệ hạnh phúc gia đình. Đó cũng là các lí
do mà “chinh phụ ngâm khúc” đã tạo dấu ấn rất riêng biệt trong nên văn học của thế

kỉ 18 mà vẫn cịn có giá trị to lớn cho tới tần bây giờ.
Đoạn trích đã cho thấy nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tài tình. Tâm lí người
chinh phụ được miêu tả ở nhiều cung bậc khác nhau thông qua hành động và ngoại
cảnh. Thể thơ song thất lục bát cùng hệ thống từ láy giàu giá trị gợi hình, gợi cảm đã
diễn tả thế giới nội tâm phong phú của nhân vật.
Qua trích đoạn, Đặng Trần Cơn đã diển tả thành cơng những cung bậc, sắc thái
khác nhau của người chinh phụ, nỗi cơ đơn, buồn thương. Qua đó diễn tả khát khao
hạnh phúc lứa đôi, đây là nét mới trong chủ nghĩa nhân đạo của ông. Đồng thời cũng
là lời tố cáo mạnh mẽ, đanh thép chiến tranh phong kiến phi nghĩa đã chia lìa hạnh
phúc lứa đơi.

7



×