Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

BÀI CA NGẮN ĐI TRÊN BÃI CÁT Cao Bá Quát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.81 KB, 7 trang )

Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

BÀI CA NGẮN ĐI TRÊN BÃI CÁT
- Cao Bá QuátI. MỞ BÀI
Cao Bá Quát tự là Chu Thần là người nổi tiếng học rộng, tài cao và viết chữ Hán rất
đẹp. Ơng được người đời tơn vinh là thánh “Thần Siêu, thánh Quát”, ca ngợi văn chương
của ông “Văn như Siêu, Qt vơ tiền Hán”. Có người cho rằng hình tượng nhân vật Huấn
Cao trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân có nguyên mẫu là Cao Bá
Quát. Tài năng, khí phách, bản lĩnh và hồi bão lớn lao nhưng con đường công danh của
ông lại rất lận đận. Trong bối cảnh chính quyền phong kiến hà khắc, hủ bại, ông thể hiện rõ
sự bất mãn, thái độ phê phán và phản ánh nhu cầu đổi mới xã hội. Bài thơ “Bài ca ngắn đi
trên bãi cát” chỉ là một trong nhiều bài thơ thể hiện rõ những tâm tư, tình cảm ấy của ơng.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
1.1. Thể loại: Bài thơ “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” của Cao Bá Quát được viết theo thể hành
còn gọi là ca hành. Đây là một thể thơ cổ, có tính chất tự do, phóng khống, khơng gị bó về
số câu, độ dài của câu, niêm luật, bằng trắc, vần điệu. Có lẽ chính vì thế mà nó đã giúp nhà
thơ bộc lộ hết được những suy tư, trăn trở trước thời cuộc và chính cuộc đời mình.
1.2. Hoàn cảnh ra đời:
- Cao Bá Quát sống ở giai đoạn nửa đầu thế kỉ XIX, khi nhà Nguyễn đã tiêu diệt Tây
Sơn, thiết lập một chính quyền phong kiến chuyên chế hà khắc, sưu cao thuế nặng, không
coi trọng tầng lớp trí thức Bắc Hà. Đây là thời kì có nhiều cuộc nổi dậy của nơng dân nổ ra,
mà sau này chính ơng cũng tham gia khởi nghĩa Mĩ Lương chống lại triều đình nhà
Nguyễn rồi bị khép vào tội chết.
- Năm 1831, Cao Bá Quát đỗ cử nhân tại trường thi Hà Nội. Sau đó nhiều lần ơng
vào kinh đô Huế đi thi nhưng không đỗ. “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” có thể được hình
thành trong những lần Cao Bá Quát đi thi hội qua các tỉnh miền Trung đầy cát trắng như
Quảng Bình, Quảng Trị.
1.3. Nội dung chính:


Hình ảnh những bãi cát trắng chạy dọc các tỉnh miền Trung khiến tác giả liên tưởng
và hình dung ra con đường danh lợi nhọc nhằn đáng ghét mà ơng buộc phải theo đuổi. Từ
đó, bài thơ phản ánh tình cảnh tù túng, khơng lối thốt của tầng lớp trí thức trong thời kì
khủng hoảng của chế độ phong kiến. Đồng thời thể hiện niềm bi phẫn trước thực trạng xã
hội, thái độ khinh bỉ phường danh lợi và khát khao của những kẻ sĩ chân chính muốn sống
một cuộc sống thực sự có ý nghĩa.
2. Bốn câu đầu
2.1. Hình ảnh con đường cát
Bài thơ được mở ra bằng hình ảnh một bãi cát dài, trắng mênh mơng, vô tận:
1


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Bãi cát lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước.
Hình ảnh bãi cát dài là hình ảnh độc đáo, mang tính sáng tạo bởi nó được lấy từ hiện
thực là những cồn cát trắng hoang vu, rợn ngợp mà tác giả đã từng vượt qua nhiều lần trên
con đường vào kinh ứng thí chứ khơng phải được vay mượn từ văn học Trung Quốc như
nhiều hình tượng thơ khác. Dải đất miền Trung, đặc biệt là hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị
bề ngang rất hẹp, phía Tây là dãy Trường Sơn, phía Đơng là biển. Trước mắt người đi
đường chỉ thấy cát, núi và sóng biển. Và hình ảnh in đậm nhất trong tâm trí Cao Bá Quát là
hình ảnh những con đường cát.
Cụm từ "bãi cát" được lặp lại hai lần cũng cách diễn đạt "lại bãi cát dài" làm hiện lên
trước mắt người đọc là những bãi cát trắng nối tiếp nhau ngút ngàn tầm mắt mà khơng biết
điểm kết thúc, khơng có một phương hướng hay chỉ đường. Những bãi cát không chỉ nối
tiếp dài dằng dặc mà cịn là con đường đi đầy khó nhọc, đi một bước như lùi một bước.
Hình ảnh con đường cát ở đây trở thành biểu tượng cho con đường đời, con đường công

danh, con đường hành đạo mịt mù, xa tít mà những trí thức đương thời vẫn theo đuổi. Con
đường này khiến những người muốn tìm thấy chân lí đích thực của cuộc đời phải trải qua
biết bao gian nan, cực khổ mà vẫn khó tìm thấy đích.
2.2. Hình ảnh người đi trên cát
Giữa mênh mơng biển cát, có một người lữ khách đang mải miết bước đi. Lữ khách
bước đi đầy khó nhọc và đi mãi mà chưa thấy điểm dừng chân. Mặt trời đã về núi, vậy mà
người người khách đường xa kia vẫn chưa thể dừng bước, bởi vì trước mắt vẫn là những
bãi cát dài vơ tận. Hình ảnh người đi đường thật cô đơn, nhỏ bé giữa không gian bao la,
rộng lớn, như lạc lõng không xác định được hướng đi giữa miền cát sa mạc. Khơng biết
bao giờ mới đến đích, khơng thể rời bỏ, cũng khơng có chỗ nghỉ chân đêm nay cho nên
người lữ khách kia chỉ biết rơi nước mắt, đau khổ khôn cùng "nước mắt lã chã rơi":
Mặt trời đã lặn chưa dừng được,
Lữ khách trên đường nước mắt rơi.
Hình ảnh lữ khách bước đi trên cát cũng chính là Cao Bá Quát cùng nhiều chí sĩ
đương thời trên con đường công danh, hành đạo đầy mệt nhọc. Đối với các nho sĩ ngày xưa
con đường học hành, thi cử để đỗ đạt làm quan là con đường đầy khó khăn vất vả và hầu
như cũng là con đường duy nhất để họ thể hiện chí làm trai, lập công, lập danh. Bản thân
Cao Bá Quát cũng nếm đủ mùi cay đắng trên con đường ấy. Ông đi thi từ năm 13 tuổi
(1822), đến lần thứ tư (1831) mới đậu cử nhân, lại bị đánh tụt xuống tận chót bảng. Sau đó
ơng cịn lận đận thêm ba lần thi Hội nữa mà vẫn khơng đỗ. Ơng đã phải cô đơn, đau khổ,
chán ghét, lạc lõng, vô phương hướng, mệt mỏi tới cùng cực trên con đường tìm kiếm cơng
danh phù phiếm. Khơng phải vì ơng khơng đủ phẩm chất mà vì một người tài năng, ngay
thẳng như ông không phù hợp với môi trường xã hội phong kiến hủ bại.
2


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn


3. Hai câu thơ 5,6
Không học được tiên ông phép ngủ
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!
Người đi trên bãi cát ở đây lịng đầy ai ốn vì con đường cơng danh của mình mãi
chưa tới đích. Ai ốn là thế, nhưng người lữ khách Cao Bá Quát lại không thể rời bỏ con
đường mưu cầu danh lợi mà mình chán ghét được. Bởi vậy, trên hành trình đầy gian nan
phải trèo non, lội suối cực nhọc ông khao khát muốn được như tiên ngủ Hạ Hầu Ấn có thể
vừa ngủ vừa đi, vừa nhắm mắt ngủ say mà vẫn bước đi đều đặn, ước ao tai không nghe,
mắt không thấy những điều xấu xa, phi lý trong xã hội đương thời. Tuy nhiên khơng có
phép màu nào, khơng có lối thốt nào để nhanh chóng vượt qua con đường ấy, để có thể
nhắm mắt làm ngơ trước sự đời, cho nên trên con đường ấy lữ khách thể hiện thái độ chán
ghét “giận khôn vơi!”.
4. Bốn câu thơ (từ 7-11)
Những câu thơ tiếp theo phần nào giải thích lí do vì sao người ta dù khó nhọc, chán
ghét mà cứ phải trèo non, lội suối:
Xưa nay, phường danh lợi,
Tất tả trên đường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vơ số, tỉnh bao người?
Đó chính là do cái bả cơng danh cám dỗ, vì cơng danh mà phải cố bước. Bởi công
danh như hơi men rượu, lôi cuốn, hấp dẫn, mê hoặc người ta, đủ làm người ta say sưa trong
mê muội. Vô số người không thể cưỡng được hương thơm của rượu ngon nơi "đầu gió", bị
rượu hấp dẫn mà tìm đến rượu rồi say trong đó không biết lối ra. Tương tự như vậy, những
kẻ ham danh lợi xưa nay thấy mùi lợi lộc đều lao vào như con thiêu thân, đều "tất tả", vội
vã, bon chen, chạy ngược chạy xi để tìm kiếm danh lợi. Trên đời, có mấy ai tỉnh táo để
thốt khỏi sự cám dỗ của rượu, thoát khỏi sự mê hoặc của bả cơng danh. Cách nói “phường
danh lợi” cho thấy Cao Bá Quát tỏ rõ thái độ khinh rẻ những kẻ chỉ biết say sưa với bả
vinh hoa phú quý và cũng cho thấy ông đã bắt đầu nhận ra sự vô nghĩa, phù phiếm của con
đựờng khoa cử, khi mà người tài lại chẳng được trọng dụng, chẳng thể giúp đổi mới cho
một xã hội bảo thủ, trì trệ.

Câu hỏi "Người say vơ số, tỉnh bao người?" cịn như là lời tự hỏi chính bản thân
mình của Cao Bá Qt. Liệu ơng có phải là người "tỉnh" trong "qn rượu" ngon kia
chăng? Hay ông cũng chỉ là một trong vô số những người đang say trong hương rượu
nồng? Câu hỏi cũng như lời tự than bất lực của ông trước vịng xốy danh lợi ơng đang
theo đuổi, bất lực trước cả thời cuộc, xã hội nữa.
5. Ba câu thơ tiếp theo (từ 12-14)
Những câu thơ tiếp theo cho thấy cái nhìn của Cao Bá Quát về thực trạng xã hội về
sự mệt mỏi, chán chường của ông trước cuộc đời như thế nào. Dù đã nhận ra sự vô nghĩa,
3


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

phù phiếm của con đường khoa cử nhưng ông vẫn không thôi băn khoăn, day dứt khi phải
lựa chọn:
Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt
Đường ghê sợ cịn nhiều, đâu ít?
Hình ảnh "bãi cát dài" lại một lần nữa được nhắc tới và lặp lại hai lần trong một câu
thơ. Vẫn là tiếng thở dài đầy ngao ngán trước cuộc đời, trước con đường mình đã chọn
đang mờ mịt khơng có lối ra. Người lữ khách loay hoay, cơ độc và tự hỏi chính mình "tính
sao đây?", phải tính sao trước con đường đầy khó khăn, chán chường, bế tắc này? Đường
đi "bằng" phẳng thì "mờ mịt", khơng thấy hướng, cịn những con đường gập ghềnh "ghê
sợ" thì cũng "đâu ít". Đường cơng danh là thế, biết bao chơng gai, cạm bẫy ln rình rập. Ở
đây chính là Cao Bá Quát đang tự hỏi mình, phải "tính sao" trước thời cuộc này, trước sự
bế tắc của xã hội này.
6. Bốn câu thơ cuối (15-18)
Nhưng câu hỏi “tính sao đây?” là một câu hỏi khó trả lời nên một cảm giác tuyệt

vọng, bất lực trào dâng trong lòng người khách độc hành. Lữ khách chỉ còn biết cất lên
khúc hát “đường cùng” để bày tỏ tâm trạng:
Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”,
Phía bắc núi Bắc, núi mn trùng,
Phía nam trời Nam, sóng dào dạt.
Khúc hát đường cùng là khúc ca đầy bi phẫn về sự chán chường, mệt mỏi và tuyệt
vọng khi đột nhiên nhìn lại và nhận ra mình đã dành cả một đời để theo đuổi con đường
công danh đáng chán ghét, ghê sợ. Người lữ khách Cao Bá Quát đứng giữa bãi cát mênh
mơng nhìn ra xung quanh bốn phía. Trước mắt là một khung cảnh thiên nhiên đẹp và hùng
vĩ nhưng lại nguy hiểm, trắc trở vơ cùng. Phía Bắc là núi non trùng trùng điệp điệp, phía
Nam là sóng cao biển sâu, chẳng hướng nào có thể vượt qua được.
Hình ảnh “núi mn trùng” và “sóng dào dạt” tượng trưng cho những khó khăn,
chơng gai phía trước. Vậy nên đi tiếp hay dừng lại? Người lữ khách chơi vơi giữa bãi cát
mênh mông ấy chẳng thể tiến, chẳng thể lùi, chẳng biết nên đi về hướng nào. Đi tiếp cũng
không được mà từ bỏ cũng không được vậy nên lữ khách chỉ còn biết đứng như trời trồng
trên bãi cát và tự hỏi một câu đầy đau đớn, nhức nhối “Anh còn đứng làm chi trên bãi
cát?”. Rốt cuộc, ông đứng đây để làm chi, để chờ đợi điều gì? Câu hỏi ấy khơng chỉ thể
hiện sự bi phẫn, tuyệt vọng mà còn là dự báo cho sự thay đổi, dứt khốt lựa chọn rời khỏi
đường cơng danh, để lựa chọn một con đường, một lí tưởng cho riêng mình.
Một đời Cao Bá Quát đã muốn cống hiến tài năng của mình cho đất nước nhưng rồi
ơng đã nhận ra rằng con đường học hành, thi cử làm quan để hành đạo giúp đời như các
nhà nho xưa, trong bối cảnh xã hội đương thời là không điều hề dễ dàng và tốt đẹp như ơng
tưởng. Ơng dường như nhìn đã thấy nhu cầu đổi mới của xã hội và hình thành tư tưởng
4


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn


khai sáng. Về điều này, GS. Thanh Lãng nhận xét: “Tư tưởng độc lập của Cao Bá Quát
khác với cái chí nam nhi của Nguyễn Cơng Trứ. Ơng Trứ lập nghiệp là để giúp vua, để chu
tồn qn thần; cịn ông Quát mang cái mộng thay đổi thời cuộc và chuyển vần số mệnh”.
Chính vì vậy mà cuối cùng người chí sĩ u nước ấy chọn cho mình con đường từ bỏ cái
lạc hậu, lỗi thời để đi theo tư tưởng khai sáng, canh tân đất nước. Sau này ông cùng với các
sĩ phu yêu nước tổ chức cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương ở vùng Sơn Tây chống lại triều đình
và đã hi sinh. Và như vậy, Cao Bá Quát và tư tưởng đổi mới của ông ở Việt Nam nửa đầu
thế kỉ XIX khiến ta liên tưởng đến hình ảnh người dẫn đường như “những con chim ưng”,
“con chim báo bão” hay “Trái tim Đan-kô” trong sáng tác của M. Goocki, khiến người đời
sau mãi mãi phải khâm phục.

III. KẾT LUẬN
Về nghệ thuật, bài thơ được viết theo thể hành, khá tự do, phóng khống, tự do về
kết cấu, vần, nhịp điệu; có sử dụng những hình ảnh có tính biểu tượng; nhiều câu thơ có
ngữ điệu cảm thán, ngữ điệu hỏi, sử dụng các điển tích, điển cố để diễn giải ý một cách
tinh tế… Tất cả nhằm thể hiện hình ảnh con đường gập ghềnh, khó nhọc và phù hợp với
việc thể hiện tâm trạng chán chường, bế tắc.
Bài thơ "Bài ca ngắn đi trên bãi cát" như là lợi tự bạch đầy chán ghét, tuyệt vọng
của Cao Bá Quát trước con đường danh lợi tầm thường mà ơng buộc phải theo đuổi, xen
lẫn trong đó là sự bất lực, là khao khát được thay đổi cuộc sống trong bối cảnh xã hội
phong kiến triều Nguyễn bảo thủ, trì trệ, ngột ngạt, tù túng khơng lối thốt.

5


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

LUYỆN ĐỀ

Đề bài 1: Nhân cách nhà nho chân chính trong bài thơ “Bài ca ngắn đi trên bãi cát”
của Cao Bá Quát
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu đôi nét về tác giả Cao Bá Quát và tác phẩm "Bài ca ngắn trên bãi cát".
- Tác phẩm cho ta thấy được nhân cách cao đẹp của nhà Nho xưa.
II. THÂN BÀI
1. Giải thích
- Nhân cách: là tư cách, phẩm chất của con người.
- Nhà nho: là những người tri thức thời xưa, theo Nho học. Nhà nho là người đã học sách
thánh hiền được thiên hạ cần để dạy bảo người đời ăn ở hợp ln thường, đạo lí ….Nhìn
chung “Nhà nho” là một danh hiệu chỉ người có học thức, biết lễ nghĩa, biết “tu thân, tề
gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
- Nhân cách nhà nho chân chính: Trước hết nhân cách nhà nho chân chính là phải biết “tu
thân”. Trong tu thân, sự học là rất quan trọng. Mà học là để đỗ đạt trong thi cử. Sau đó “trị
quốc”, ra làm quan để kính bang tế thế, giúp nước giúp đời mà không màng danh lợi, vinh
hoa phú quý.
2. Phân tích, chứng minh
2.1. Khái quát
- Thể loại: Tk bài phân tích
- Hồn cảnh ra đời: Tk bài phân tích
- Nội dung chính của bài thơ: Tk bài phân tích
6


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

2.2. Nhân cách nhà Nho qua tác phẩm "Bài ca ngắn trên bãi cát"
- Vốn có quyết tâm thi cử và đỗ đạt để cống hiến cho đất nước: Bản thân Cao Bá

Quát cũng nhiều lần đi thi. Ông đi thi từ năm 13 tuổi (1822), đến lần thứ tư (1831) mới đậu
cử nhân, lại bị đánh tụt xuống tận chót bảng. Sau đó ơng cịn lận đận thêm ba lần thi Hội
nữa mà vẫn khơng đỗ. Khơng phải vì ông không đủ phẩm chất mà vì một người tài năng,
ngay thẳng như ông không phù hợp với môi trường xã hội phong kiến hủ bại.
- Nhận thức ra rằng trong bối cảnh xã hội hiện tại, con đường khoa cử là vô nghĩa,
chỉ là chạy theo danh lợi tầm thường. Ơng đã phải cơ đơn, đau khổ, chán ghét, lạc lõng, vô
phương hướng, mệt mỏi tới cùng cực trên con đường tìm kiếm cơng danh phù phiếm:
(Phân tích bài thơ ở 14 câu thơ đầu)
- Cao Bá Quát ý thức cần phải thốt khỏi con đường thi cử vơ nghĩa và bối cảnh xã
hội bế tắc khơng lối thốt, khao khát được thay đổi xã hội, tìm con đường mới:
( Phân tích trọng tâm ở 4 câu thơ cuối)
3. Bình luận
- Đánh giá: Cao Bá Quát tuy vượt lên phép tắc của Nho giáo (chống lại triều đình
nhà Nguyễn) nhưng vẫn là mẫu hình nhà nho chân chính, nhà nho dấn thân, đầy trách
nhiệm trước cuộc đời.
- Mở rộng: Một đời Cao Bá Quát đã muốn cống hiến tài năng của mình cho đất nước
nhưng rồi ơng đã nhận ra rằng con đường học hành, thi cử làm quan để hành đạo giúp đời
như các nhà nho xưa, trong bối cảnh xã hội đương thời là không điều hề dễ dàng và tốt đẹp
như ơng tưởng. Ơng dường như nhìn đã thấy nhu cầu đổi mới của xã hội và hình thành tư
tưởng khai sáng. Về điều này, GS. Thanh Lãng nhận xét: “Tư tưởng độc lập của Cao Bá
Qt khác với cái chí nam nhi của Nguyễn Cơng Trứ. Ông Trứ lập nghiệp là để giúp vua,
để chu tồn qn thần; cịn ơng Qt mang cái mộng thay đổi thời cuộc và chuyển vần số
mệnh”. Chính vì vậy mà cuối cùng người chí sĩ yêu nước ấy chọn cho mình con đường từ
bỏ cái lạc hậu, lỗi thời để đi theo tư tưởng khai sáng, canh tân đất nước. Sau này ông cùng
với các sĩ phu yêu nước tổ chức cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương ở vùng Sơn Tây chống lại
triều đình và đã hi sinh.
=> Và như vậy, Cao Bá Quát và tư tưởng đổi mới của ông ở Việt Nam nửa đầu thế
kỉ XIX khiến ta liên tưởng đến hình ảnh người dẫn đường như “những con chim ưng”,
“con chim báo bão” hay “Trái tim Đan-kô” trong sáng tác của M. Goocki, khiến người đời
sau mãi mãi phải khâm phục.

III. KẾT BÀI
- Khái lược một số nét đặc sắc trên phương diện nghệ thuật thể hiện thành cơng nhân cách
nhà nho chân chính trong bài thơ.
- Suy nghĩ bản thân về nhân cách nhà nho chân chính.

7



×