Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Phân tích tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.38 KB, 12 trang )

Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC
- Nguyễn Đình ChiểuDÀN Ý: Phân tích tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu.
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu về Nguyễn Đình Chiểu: Là đại biểu tiêu biểu nhất của văn học yêu nước
cuối thế kỉ XIX. Trước Nguyền Đình Chiểu, có lẽ chưa có một nhà thơ nào sáng tác với
một ý thức rõ rệt như ông:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Cái đạo của ơng khơng là gì khác ngồi đạo u nước thương dân. Đó là nguồn gốc
khiến thơ văn ơng có sức rung cảm lớn, nguồn gốc đưa tên tuổi Nguyễn Đình Chiểu đứng
vào vị trí vẻ vang trong nền văn học nước nhà. Ơng xứng đáng là một “ngơi sao sáng trên
bầu trời văn học dân tộc” và là ngôi sao có ánh sáng khác thường, “càng nhìn càng thấy
sáng” (Phạm Văn Đồng).
- Giới thiệu về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc: Bài văn tế là tiếng khóc bi tráng cho một
thời kì lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc và làm nổi bật bức tượng đài sừng sững
về người nông dân yêu nước.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
1.1.Thể loại: Văn tế là một loại văn gắn với phong tục tang lễ, thường dùng
để tế cúng nhằm bày tỏ sự thương tiếc đối với người đã mất. Văn tế thường có hai nội dung
cơ bản là kể về cuộc đời, công đức, phẩm hạnh của người đã khuất và bày tỏ nỗi đau
thương của người sống trong giờ phút âm dương vĩnh biệt. Vì vậy, âm hưởng chung của
các bài văn tế là rất bi thương. Bài văn tế thường có bốn phần: Lung khởi là luận chung về
lẽ sống chết, Thích thực là hồi tưởng về người chết, Ai vãn than tiếc người chết và phần kết
bày tỏ lòng tiếc thương và cầu nguyện của người cúng tế. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
viết theo thể phú Đường luật và cũng có đủ bốn phần như vậy.
1.2. Hoàn cảnh ra đời: Năm 1859 giặc Pháp tràn vào sông Bến Nghé chiếm thành


Gia Định, ông phải vào quê vợ ở Thanh Ba, Cần Giuộc lánh tạm. Về phía thực dân Pháp
sau khi chiếm được thành Gia Định chúng bắt đầu thực hiện quá trình mở rộng cuộc tấn
công ra các vùng lân cận. Cần Giuộc chẳng mấy chốc đã bị giặc Pháp tràn đến. Những
người nông dân áo vải, chân lấm, tay bùn đã đứng dậy đấu tranh. Họ gia nhập nghĩa binh,
sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn. Trong số họ nhiều nghĩa sĩ đã hi sinh oanh liệt. Những tấm
gương hi sinh đó đã gây nên niềm cảm kích lớn trong nhân dân. Đỗ Quang, tuần phủ Gia
Định giao cho Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế đọc tại buổi truy điệu hơn hai mươi
nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đêm ngày 16-12-1861. Với lịng cảm phục và tình cảm xót
thương vơ hạn, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.
1


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

1.3. Nội dung chính: Bài văn tế khơng những thể hiện được tình cảm xót thương vơ
hạn của tác giả và của nhân dân đối với các nghĩa sĩ cần Giuộc mà còn khắc họa lên vẻ đẹp
chân thực, bi tráng mà rất đỗi hào hùng của những người nông dân yêu nước đánh Tây.
1.4. Bố cục: Bài văn tế gồm bốn phần: Lung khởi, thích thực, ai vãn và kết.
+ Lung khởi: Tiếng khóc ban đầu mang ý nghĩa khái quát cả bài
+ Thích thực: Hồi tưởng về người nghĩa sĩ nơng dân Cần Giuộc
+ Ai vãn: Than khóc, tiếc thương và cảm phục trước sự hi sinh của người nghĩa sĩ
+ Phần kết: Ca ngợi công đức của người nghĩa sĩ và nêu rõ trách nhiệm của người cịn sống
2. Lung khởi: Tiếng khóc ban đầu mang ý nghĩa khái quát cả bài
- “Hỡi ôi!”: Câu cảm thán thể hiện niềm tiếc thương chân thành, thiết tha, thương
tiếc. Đây là cách mở đầu quen thuộc trong các bài văn tế (Hỡi ôi, than ôi). Tiếng than vang
lên mà nghe sao đau thương đến thế. Tiếng than ấy là để dẫn vào một cảnh tang thương
chết chóc là cảnh chiến tranh tàn khốc với những người đã bị tử trận trên chiến trường.
- Khái quát bối cảnh thời đại đầy biến động, bão táp: Tình thế vơ cùng căng thẳng:

+ “ Súng giặc đất rền”: sự tàn phá nặng nề, giặc xâm lược bằng vũ khí tối tân
+ “Lịng dân trời tỏ”: Lịng dân cháy rực chí căm thù. Người nghĩa sĩ đánh giặc
bằng tấm lòng yêu quê hương đất nước ⇒ Trời chứng giám
+ NT đối lập nhằm thể hiện khung cảnh bão táp, biến cố lơn lao của thời đại.
- Bàn luận về lẽ sống chết: Lời khẳng định tuy thất bại, những người nghĩa sĩ hi sinh
nhưng tiếng thơm còn lưu truyền mãi. Nghệ thuật tiểu đối được sử dụng rất thành công đối
rất chỉnh, rất chuẩn: Mười năm với một trận, công (vật chất) với nghĩa (tinh thần), chưa ắt
còn danh nổi như phao với tuy là mất tiếng vang như mõ đã khẳng định tinh thần quyết
tâm đánh giặc, khẳng định người nông dân mười năm làm ruộng khơng đem lại tiếng tăm
gì, chỉ một trận đánh Tây gây tiếng vang, để lại tiếng thơm mn đời.
2. Thích thực: Hồi tưởng về người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc
- Bắt đầu sự hồi tưởng bằng cụm từ “Nhớ linh xưa”
2.1. Nguồn gốc xuất thân
- Từ nông dân nghèo khổ, những dân ấp, dân lân (những người bỏ quê đến khai khẩn
đất mới để kiếm sống)
+ “cui cút làm ăn ”: hồn cảnh sống cơ đơn, thiếu người nương tựa
- NT tương phản “chưa quen >< chỉ biết, vốn quen >< chưa biết.
⇒ Tác giả nhấn mạnh việc quen và chưa quen của người nông dân để tạo ra sự đối
lập về tầm vóc của người anh hùng
2.2. Lòng yêu nước nồng nàn
- Khi TD Pháp xâm lược người nông dân cảm thấy: Ban đầu lo sợ ⇒ trông chờ tin
quan ⇒ ghét ⇒ căm thù ⇒ đứng lên chống lại.
⇒ Diễn biến tâm trạng người nơng dân, sự chuyển hóa phi thường trong thái độ
- Thái độ đối với giặc: căm ghét, căm thù đến tột độ
2


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn


- Nhận thức về bọn xâm lược: Họ không dung tha những kẻ thù lừa dối, bịp bợm ⇒
họ chiến đấu một cách tự nguyện: “nào đợi đòi ai bắt…”
2.3. Điều kiện chiến đấu
- Vốn khơng phải lính diễn binh, khơng phải qn cơ qn vệ, khơng có mười tám
ban võ nghệ, chín chục trận binh thư, chỉ là dân ấp dân lân mà “mến nghĩa làm quân chiêu
mộ”.
- Quân trang, vũ khí chiến đấu rất thơ sơ: một manh áo vải, ngọn tầm vông, lưỡi dao
phay, rơm con cúi… đã đi vào lịch sử.
2.4. Tinh thần chiến đấu hi sinh của người nông dân
- Lập được những chiến công đáng tự hào: “đốt xong nhà dạy đạo”, “chém rớt đầu
quan hai nọ”
- Tinh thần chiến đấu tuyệt vời, khí thế chiến đấu mạnh mẽ: “đạp rào”, “xơ cửa”,
“liều mình”, “đâm ngang”, “chém ngược”…: động từ mạnh chỉ hành động mạnh mẽ với
mật độ cao nhịp độ khẩn trương sôi nổi làm mã tà, ma nó hồn kinh.
=> Tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân nghĩa sĩ đánh giặc cứu nước.
3. Ai vãn: Than khóc, tiếc thương và cảm phục trước sự hi sinh của người nghĩa sĩ
- Niềm thương tiếc của nhà thơ dành cho những người nghĩa sĩ đã khuất được thể
hiện bằng cụm từ mở đầu “Khá thương thay!” và sau đó là thán từ “Ơi thơi thơi!”.
- Đánh giá về sự hi sinh của những người nghĩa sĩ nông dân:
+ Họ không chịu đựng được cảnh bọn giặc quăng vùa hương, xô bàn độc. Họ thà
chết về với tổ phụ để giữ tinh thần chiến đấu còn hơn phải chấp nhận đầu hàng Tây, ở với
bọn man di.
+ Tương quan với giặc ta yếu, địch mạnh bởi vậy mà họ đã ngã xuống. Họ hi sinh vì
tấc đất ngọn rau, của nước nhà, vì bát cơm manh áo ở đời. Họ xả thân mà da ngựa bọc thây
mà nào đợi gươm hùm treo mộ. Được nói đến một cách hình ảnh với niềm tiếc thương
chân thành.
- Sự đau đớn tiếc thương được biểu hiện:
+ Hình ảnh gia đình tang tóc, cơ đơn, chia lìa, gợi khơng khí đau thương, buồn bã
thể hiện qua hình ảnh mẹ già, vợ trẻ

+ Sự hi sinh của những người nơng dân nghĩa sĩ để lại xót thương đau đớn cho tác
giả, nhân dân Nam Bộ, nhân dân cả nước và lan tỏa ra cả thiên nhiên tạo vật “Đối sơng
Cần Giuộc…”.
⇒ Tiếng khóc lớn, tiếng khóc mang tầm vóc lịch sử
⇒ Bút pháp trữ tình, nhịp câu trầm lắng, gợi khơng khí lạnh lẽo, hiu hắt sau cái chết
của nghĩa quân.
4. Phần kết: Ca ngợi công đức của người nghĩa sĩ và nêu rõ trách nhiệm của người
còn sống
3


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

- Sang đoạn kết từ “Ôi” xuất hiện bày tỏ lịng xót thương và lời cầu nguyện của
người đứng tế. Giọng điệu bi ai trùng xuống đến thống thiết đau buồn.
- Tác giả khẳng định: “Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ: Danh tiếng nghìn năm
cịn lưu mãi, nêu cao tinh thần chiến đấu, xả thân vì nghĩa lớn của nghĩa quân.
- Đây là cái tang chung của mọi người, của cả thời đại, là khúc bi tráng về người anh
hùng thất thế.
- Trách nhiệm của người còn sống: một chữ ấm
- Tiếp tục khóc: Nước mắt anh hùng…
⇒ khẳng định sự bất tử của những người nghĩa sĩ.
III. KẾT LUẬN
- Khái quát những nét đặc sắc tiêu biểu về nghệ thuật làm nên thành công về nội
dung của tác phẩm
- Trình bày suy nghĩ bản thân
LUYỆN ĐỀ
Đề bài 1: Phân tích hình tượng người nghĩa sĩ nơng dân trong “Văn tế nghĩa sĩ Cần

Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu.
I. MỞ BÀI
“Sự đời thà khuất đơi trịng thịt
Lịng đạo xin trịn một tấm gương”
Đó là hai câu thơ của nhà thơ mù có cuộc đời đầy bất hạnh, nhưng kiên cường vượt
qua số phận để lại cho đời sau một tấm gương về nhân cách sống trong sáng đến tuyệt vời.
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là nhà thơ, nhà giáo, thầy thuốc, người công dân, người
chiến sĩ yêu nước và dù trong tư cách nào ơng cũng làm trịn bổn phận và thiên chức của
mình. Ơng là đại biểu tiêu biểu nhất của văn học yêu nước Việt Nam cuối thế kỉ XIX. Thơ
văn của ông thấm nhuần lý tưởng đạo đức cao đẹp với những con người sống cao đẹp nhân
hậu, thủy chung, biết giữ gìn nhân cách ngay thẳng cao cả, dám đấu tranh và có đủ sức
mạnh để chiến thắng những thế lực bạo tàn để cứu nhân độ thế. Cố thủ tướng Phạm Văn
Đồng đã nhận xét về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu như sau “Trên trời có những
vì sao có ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới
thấy và càng nhìn thì càng thấy sáng”. “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" là tác phẩm tiêu biểu
trong sự nghiệp sáng tác của ông. Bài văn là tiếng khóc bi tráng cho một thời kì lịch sử đau
thương nhưng vĩ đại của dân tộc, là bức tượng đài sừng sững, hùng tráng về những người
nghĩa sĩ nông dân yêu nước.
II. THÂN BÀI
4


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

1. Khái quát
1.1.Thể loại: Văn tế là một loại văn gắn với phong tục tang lễ, thường dùng để tế
cúng nhằm bày tỏ sự thương tiếc đối với người đã mất. Văn tế thường có hai nội dung cơ
bản là kể về cuộc đời, công đức, phẩm hạnh của người đã khuất và bày tỏ nỗi đau thương

của người sống trong giờ phút âm dương vĩnh biệt. Vì vậy, âm hưởng chung của các bài
văn tế là rất bi thương. Bài văn tế thường có bốn phần: Lung khởi là luận chung về lẽ sống
chết, Thích thực là hồi tưởng về người chết, Ai vãn than tiếc người chết và phần Kết bày tỏ
lòng tiếc thương và cầu nguyện của người cúng tế. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc viết theo
thể phú Đường luật và cũng có đủ bốn phần như vậy.
1.2. Hoàn cảnh ra đời: Năm 1859 giặc Pháp tràn vào sông Bến Nghé chiếm thành
Gia Định, ông phải vào quê vợ ở Thanh Ba, Cần Giuộc lánh tạm. Về phía thực dân Pháp
sau khi chiếm được thành Gia Định chúng bắt đầu thực hiện quá trình mở rộng cuộc tấn
công ra các vùng lân cận. Cần Giuộc chẳng mấy chốc đã bị giặc Pháp tràn đến. Những
người nông dân áo vải, chân lấm, tay bùn đã đứng dậy đấu tranh. Họ gia nhập nghĩa binh,
sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn. Trong số họ nhiều nghĩa sĩ đã hi sinh oanh liệt. Những tấm
gương hi sinh đó đã gây nên niềm cảm kích lớn trong nhân dân. Đỗ Quang, tuần phủ Gia
Định giao cho Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế đọc tại buổi truy điệu hơn hai mươi
nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đêm ngày 16-12-1861. Với lịng cảm phục và tình cảm xót
thương vơ hạn, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.
2. Hình tượng người nghĩa sĩ nơng dân
Hình tượng người nghĩa sĩ nơng dân trước đó đã ít nhiều xuất hiện trong văn chương
như trong “Hịch tướng sĩ” của Trần Hưng Đạo, “Bình Ngơ đại cáo” của Nguyễn Trãi…
nhưng phải đến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu thì lần đầu tiên
người nghĩa sĩ nơng dân đi vào trong tác phẩm văn học với đầy đủ từ dáng vóc, tính cách,
suy nghĩ, cảm xúc và hành động chân thực đến thế.
2.1. Xuất thân
Những người nghĩa sĩ đánh giặc ấy, họ sinh ra đâu phải là chàng Gióng Phù Đổng,
Lê Lợi, Quang Trung... Họ vốn chỉ là những con người quanh năm khốc trên mình màu
áo nâu của đất, bình dị và lam lũ, chỉ có con trâu là đầu cơ nghiệp. Cuộc sống của họ là từ
sáng đến tối bán mặt cho đất, bán lưng cho trời quen với việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc
cấy và chật vật với những lo toan nghèo khó. Chỉ với một câu văn “Nhớ linh xưa: Cui cút
làm ăn; toan lo nghèo khó”, cụ Đồ Chiểu đã vẽ nên vịng đời luẩn quẩn khơng lối thốt
của người dân Việt. Người "dân ấp dân lân" Nam Bộ, cui cút, vật lộn làm ăn để cuối cùng
vẫn là nghèo khó. Là nông dân của một đất nước nghèo nàn, lạc hậu nên cả đời họ chỉ biết

con trâu thửa ruộng mà chưa bao giờ ra khỏi lũy tre làng “chỉ biết con trâu ở trong làng
bộ”. Cho nên, họ đâu quen những việc “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ", chưa quen
chuyện “cung ngựa", "trường nhung". Nhìn chung, trước khi giặc ngoại xâm đến họ vốn
chỉ là những người nơng dân vơ cùng thuần phác sống âm thầm, bình lặng.
5


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

2.2. Là người nông dân yêu nước, căm thù giặc
Nhưng âm thanh của tiếng súng đã phá tan cuộc sống bình thường của họ. Nguyễn
Đình Chiểu đã vẽ ra bối cảnh thời đại với nhiều biến cố, bão táp. Câu “Súng giặc đất rền;
lòng dân trời tỏ” câu tứ tự hai vế tuy ngắn gọn nhưng khái quát được hoàn cảnh, tình thế
của đất nước lúc bấy giờ. “Súng giặc đất rền” chỉ sự tàn phá nặng nề, giặc xâm lược và gây
bao tội ác bằng vũ khí tối tân, hiện đại. Tình cảnh ấy cũng từng được Nguyễn Đình Chiểu
thể hiện trong bài “Chạy giặc”:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dác bay
Bến Nghé cửa tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”.
Hoàn cảnh ấy đã thử thách và bộc lộ tấm lòng của con người đối với đất nước. Khi
quê hương ruột thịt bị xâm chiếm và giày xéo, người nơng dân u nước đã có sự chuyển
biến lớn về nhận thức và tình cảm. Họ đã nghe ngóng phong thanh “tiếng phong hạc phập
phồng hơn mươi tháng” và biết tin giặc đến. Khơng chỉ nghe, họ cịn ngửi thấy cả mùi hôi
tanh của chúng“Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm” và khi chứng kiến tội ác của bọn giặc,
biết rõ đất nước bị rơi vào tay giặc, họ căm ghét bọn giặc xâm lược “ghét thói mọi như nhà

nông ghét cỏ”. Đây là phép so sánh rất độc đáo, thể hiện sự căm ghét bọn giặc xâm lược
một cách tự nhiên, phù hợp tâm lí và suy nghĩ của người nơng dân. Lịng căm thù giặc của
họ cịn được thể hiện rõ hơn khi “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp”, “Ngày xem ống khói
chạy đen sì” mà “muốn tới ăn gan”, “muốn ra cắn cổ”. Lòng căm thù giặc của người nông
dân Nam Bộ cuối thế kỉ XIX như thế khơng khác nào lịng căm thù giặc ngút trời mà Trần
Quốc Tuấn thể hiện trong Hịch tướng sĩ “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột
đau như cắt, nước mắt đầm đìa, muốn xẻ thịt, lột da, moi găn, uống máu quân thù”. Sự
nhức nhối đến tận cùng, sự căm thù đến tột độ phải đến hai câu sau mới lên đến đỉnh cao:
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu
Hai vầng nhật nguyệt chói lịa, đâu dung lũ treo dê bán chó.
Tuy vậy, ban đầu họ vẫn đặt niềm tin và trơng chờ vào triều đình, trơng chờ tin
quan “như trời hạn trông mưa”. Nhưng trước bối cảnh nguy kịch mà triều đình lại bạc
nhược nên họ nhận ra không thể chờ đợi được nữa. Họ không thể để bọn giặc xâm lăng
cướp đi máu thịt của mình, phá vỡ sự bình yên của quê hương. Họ nhận thức rõ ràng về
nền độc lập và danh dự của tổ quốc, họ thấy rõ tội ác của kẻ thù và họ cũng nhận thấy trách
nhiệm của bản thân với đất nước. Cho nên, họ chủ động đánh giặc, không đợi ai đòi, ai bắt
mà tự nguyện chiến đấu: “Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình, chẳng
thèm trốn ngược trốn xi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”. Lòng căm thù giặc, uất hận
trước những tội ác của chúng gây ra đã biến những người nông dân hiền lành, vốn chỉ biết
6


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

cui cút làm ăn trở thành những người nghĩa sĩ nơng dân dám xả thân vì đất nước. Họ khơng
nề hà chuyện sống chết, đem thân mình chiến đấu chống lại kẻ thù, sẵn sàng hy sinh vì quê
hương và để làm sáng tỏ chân lí của thời đại: Chết vinh còn hơn sống nhục.
2.3. Điều kiện chiến đấu và tinh thần chiến đấu

- Điều kiện chiến đấu: Trong quá trình chiến đấu, những người nghĩa sĩ nơng dân
gặp nhiều khó khăn, thử thách. Cuộc đối đầu giữa họ với kẻ thù là cuộc đối đầu không cân
sức. Họ vốn khơng phải qn cơ, qn vệ theo dịng, chưa từng biết đến mười tám ban võ
nghệ, chín chục trận binh thư. Trước trận đánh Tây họ không được trang bị binh pháp,
chưa một ngày được rèn luyện võ nghệ. Họ chỉ là những người nơng dân vì mến nghĩa mà
làm quân chiêu mộ nên trang bị cũng hết sức thô sơ. Trang phục cũng như vũ khí chiến đấu
chỉ là những vật dụng trong sinh hoạt và lao động hàng ngày: “Ngồi cật có một manh áo
vải”, “trong tay cầm một ngọn tầm vông”, “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”,… Chiếc áo
họ mặc ra trận là manh áo vải của người nơng dân, vũ khí của họ là gậy tre, đánh hỏa mai
bằng rơm bện lại. Ngược lại, địch rất mạnh, được rèn luyện vô cùng tinh nhuệ, được trang
bị vũ khí tối tân với “đạn nhỏ, đạn to” “tàu sắt tàu đồng súng nổ”.
- Tinh thần chiến đấu: Tuy nhiên, tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc đã khiến
những con người nhỏ bé tầm thường vụt lớn lên thành những chàng Gióng khổng lồ trong
cổ tích. Khi Tổ quốc lầm than, họ không ngần ngại chung vai góp sức và tinh thần chiến
đấu của họ rất cao. Trong những cuộc chiến tranh phong kiến phi nghĩa trước đây, người
nơng dân khi phải ra đi làm lính thú để bảo vệ cương thổ của nhà vua được miêu tả với tâm
trạng:
“Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa”
Nhưng người nghĩa sĩ nông dân trong tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu lại hồn
tồn khác. Họ tự giác, tự nguyện và tự khắc phục khó khăn để chiến đấu và điều đó đã thể
hiện vẻ đẹp cao cả nhất của người nông dân - nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Dù tương quan lực lượng hai bên đã thấy rõ, nhưng người nghĩa sĩ nông dân vẫn
không hề sợ hãi. Họ bất chấp sự hiểm nguy, bất chấp sự chênh lệch, sự đối lập của hoàn
cảnh chiến đấu, vẫn quyết chiến và quyết thắng. Họ lấy tinh thần xả thân vì nghĩa để bù
đắp lại sự thiếu hụt, chênh lệch của mình với kẻ thù:
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng
bằng lười dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Chi nhọc quan quản going trống kì trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như
không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xơng vào, liều mình như chẳng có.

Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó
sau trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ”.
Bằng việc sử dụng liên tiếp các động từ mạnh như “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông
vào”, “đâm ngang chém ngược”, “hè trước ó sau”, nhịp điệu nhanh, gấp gáp tác giả đã vẽ
7


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

lên khung cảnh chiến trường ác liệt, đồng thời cũng làm nổi bật vẻ đẹp của người nông dân
nghĩa sĩ: hiên ngang, kiên cường, dũng cảm, bất khuất. Với tinh thần chiến đấu cao như
vậy nên họ đã lập được những chiến công như chém rớt đầu quan hai, đốt xong nhà dạy
đạo và làm cho bọn giặc phải khiếp sợ… Chân dung hình tượng người nghĩa sĩ nơng dân ở
đây hiện lên vừa mộc mạc, giản dị nhưng đồng thời cũng vô cùng anh dũng kiên cường. Và
bằng sự ngoan cường, lòng yêu nước nồng nàn, họ đã làm nên được những điều phi
thường, làm vang dậy bản anh hùng ca về lòng yêu nước.
2.5. Sự hi sinh đầy bi tráng của những người nghĩa sĩ nông dân
- Sự hi sinh của người nghĩa sĩ nông dân: Những người nghĩa sĩ nông dân Cần
Giuộc sẵn sàng chiến đấu, hi sinh cho từng tấc đất ngọn rau của tổ quốc, cho bát cơm manh
áo ở đời. Họ xả thân vì đất nước quê hương để giữ câu địch khái, thà chết đi theo tổ phụ
mà giữ được chữ vinh còn hơn phải chịu cảnh đầu hàng Tây nhục nhã. Họ chỉ có một tên
gọi chung là nghĩa sĩ Cần Giuộc, cịn mỗi người nghĩa sĩ đó đều vơ danh. Họ đã sống
những cuộc đời của quần chúng vô danh và chết cái chết của quần chúng vô danh, họ
không đợi hi sinh để được gươm hùm treo mộ. Ở chốn sa trường những mong may mắn để
họ không bị rơi vào cảnh da ngựa bọc thây nhưng vì tương quan giữa ta và địch quá chênh
lệch nên nhiều nghĩa sĩ đã hi sinh, đã “phận bạc trơi theo dịng nước đổ” và “tấm lịng son
gửi lại bóng trăng rằm”.
- Sự hi sinh ấy trước hết gợi bao nhiêu sự thương tiếc:

+ Sự thật bi thương, phũ phàng ấy phô bày ra trước mắt thật xót đau biết mấy. Năm
xưa trong kiệt tác Truyện Kiều, đại thi hào dân tộc Nguyễn Du đã đúc kết:
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Lâm Ngũ Đường nhà văn Trung Quốc cũng khẳng định “Văn chương bất hủ cổ kim
đều viết bằng huyết lệ”. “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu có lẽ được
kết tinh bằng cái tài, nhưng hơn cả nó được tạo thành từ những dòng huyết lệ thể hiện cái
tâm trong sáng của Đồ Chiểu.
+ Niềm thương tiếc của nhà thơ dành cho những người nghĩa sĩ đã khuất được thể
hiện qua các thán từ xuất hiện liên tiếp như cụm từ mở đầu “Khá thương thay!” và thán từ
“Ơi thơi thơi!” ở phần Ai vãn, thán từ “Ôi!” ở đoạn kết. Giọng điệu bi ai trùng xuống đến
thống thiết đau buồn thể hiện lịng xót thương vơ hạn. Tác phẩm là một tiếng khóc đầy ai
ốn, tiếng khóc đến quặn lịng, tiếng khóc để tiễn biệt những người con Cần Giuộc mãi mãi
nằm lại trên mảnh đất quê hương.
+ Họ ngã xuống nơi chiến trường khói lửa để lại giữa trần gian những mẹ già, vợ
yếu, con thơ. Tiếng khóc của người mẹ già, nỗi đau đớn của người vợ trẻ được nói đến vơ
cùng xúc động:
Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều! Vợ yếu chạy
tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
8


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Với người mẹ con dù lớn đến đâu cũng là con trẻ, mẹ có trẻ mấy mà mất con cũng
thành mẹ già, những người vợ mất chồng thì dù khỏe mấy cũng là vợ yếu vì họ đã mất đi
nơi nương tựa. Vì vậy, hình ảnh người mẹ già ngồi khóc trẻ, như ngọn đèn khuya leo lét
trong lều và hình ảnh người vợ chạy tìm chồng trong con bóng xế dật dờ trước ngõ là

những hình ảnh đầy bi thương, tội nghiệp.
+ Tác phẩm không chỉ thể hiện sự thương xót, bi thương của tác giả, của người thân
mà còn là nỗi thương tiếc của nhân dân Cần Giuộc từ già đến trẻ. Sự bi thương ấy lan tỏa
cả ra đất trời, cây cỏ, thiên nhiên Cần Giuộc và trở thành tiếng khóc của cả non sơng, dân
tộc:
"Đối sơng Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ
hai hàng luỵ nhỏ".
- Sự hi sinh của những người nghĩa sĩ nông dân cũng rất hào hùng, cao cả:
Người nông dân mười năm làm ruộng không đem lại tiếng tăm gì, chỉ một trận đánh
Tây mà gây tiếng vang, để lại tiếng thơm muôn đời.
Mười năm cơng vỡ ruộng, chưa ắt cịn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây,
tuy là mất tiếng vang như mõ.
Họ hi sinh nhưng trả được nợ nước non, khiến cho kẻ thù hiểu ra đạo lí rằng hành
động xâm lược của chúng sẽ không được dung thứ. Họ đã sống anh dũng và hi sinh rất vẻ
vang và trở thành tấm gương sáng, để lại danh thơm khắp chốn, được nhân dân lập đình
miếu để thờ, đền ơn họ bằng một chữ ấm. :
Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; Thác
mà ưng đền miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.
Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện
được trả thù kia; Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ
đền cơng đó.
Họ để lại bài học quý báu là thà chết vinh còn hơn sống nhục. Và câu văn cuối cùng
đã thể hiện sự tiếc thương, cảm phục và khẳng định những nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc đã
trở thành bất tử: “Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây
hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ”. Câu văn dù có bi thương,
xót xa nhưng khơng phải là bi lụy, yếu đuối, trái lại gợi sự hào hùng, cao cả. Bởi vậy, hình
tượng người nghĩa sĩ nơng dân mang vẻ đẹp đầy bi tráng. Đúng như thủ tướng Phạm Văn
Đồng nhận định, những nghĩa sĩ nông dân là “những anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên
ngang”. Họ trở thành bức tượng đài sừng sững tạc vào không gian lẫn thời gian để nói với
mn đời về lịng u nước.

III. KẾT LUẬN
Bài văn tế được viết theo thể phú Đường luật có vần, có độc vận. Từ ngữ biểu cảm
trực tiếp, gọi tên các trạng thái đa dạng như buồn thương, sầu tủi khi thì tự hào. Hệ thống
các từ láy gợi hình gợi cảm được dùng linh hoạt: Cui cút, leo lét, não nùng, dật dờ. Ngôn
9


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

ngữ bình dị, đậm màu sắc thơn dã của vùng đất Nam Bộ kết hợp tài tình những điển tích
điển cố, ước lệ tượng trưng như: Tiếng phong hạc, mùi tinh chiên, mối xa thư, chém rắn
đuổi hươu… Nghệ thuật tiểu đối đặc trưng của thể loại văn tế được thể hiện rõ nét qua các
câu văn cùng với kết cấu ngôn ngữ phủ định trùng điệp: “Nào đợi/ chẳng thèm/ nào phải/
chẳng qua/chẳng đợi/không chờ...”, nghệ thuật tương phản hai cấp độ được sử dụng thành
công là “Hỏa mai...gươm đeo.../ Chi nhọc quan quản chẳng sợ thằng Tây.../ Kẻ đâm ngang
bọn hè trước...súng nổ.” Giọng điệu linh hoạt lúc thì hùng oai, sục sơi khi diễn tả cái hiên
ngang, lúc thì bi ai, thống thiết khi nói về sự mất mát, đau buồn. Cảm xúc chủ đạo của bài
văn tế là cảm xúc bi tráng. Tất cả hợp thành một âm hưởng chiến trận hào hùng của một
thiên anh hùng ca tuyệt diệu.
Bài văn tế như một bức tượng đài bằng ngôn từ, tạc khắc nên bức tượng đài bi tráng,
bất tử về người nghĩa sĩ nông dân yêu nước, căm thù giặc. Bức tượng đài ấy là dấu mốc thể
hiện cả một bi kịch lớn của dân tộc - bi kịch mất nước, và báo hiệu một thời kì lịch sử đen
tối của dân tộc ta là gần một trăm năm Pháp thuộc. Nhưng cũng thật hào hùng, bởi trong
cái bi kịch lớn ấy, vẫn ngời sáng tinh thần bất khuất và lí tưởng cao đẹp của nhân dân Nam
Bộ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung.
Đề bài số 2: Nhận xét về bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu có
ý kiến cho rằng:"Bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là bức tượng đài bi tráng về hình
tượng người nơng dân nghĩa sĩ tuy thất thế nhưng vẫn hiên ngang", có ý kiến khác

cho rằng:"Bài văn tế là tiếng khóc bi tráng cho một thời kỳ lịch sử đau thương nhưng
vĩ đại của dân tộc",.
Bằng hiểu biết của mình về bài văn anh/chị hãy làm sáng tỏ.
I. MỞ BÀI
- Vài nét về tác giả, tác phẩm.
- Dẫn dắt vào hai nhận định.
II. THÂN BÀI
1. Giải thích
1.1. Ý kiến 1:"Bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là bức tượng đài bi tráng về hình tượng
người nơng dân nghĩa sĩ tuy thất thế nhưng vẫn hiên ngang"
- Bi là buồn, là bi thương, là gợi cái buồn đau, mất mát, đau thương.
- tráng: gợi sự hào hùng, hùng tráng
- Bi tráng: Nói đến cái buồn đau, mất mát, bi thương nhưng không gợi ra sự buy lụy,
yếu đuối mà trái lại gợi sự hào hùng, hùng tráng.
- thất thế: chỉ sự thất bại, hi sinh, mất mát
- hiên ngang: phẩm chất của người anh hùng kiên cường, bất khuất
10


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

=> Bài văn tế viết về người nghĩa sĩ nông dân và tạc nên bức tượng đài về lòng yêu
nước, tinh thần xả thân chiến đấu khi tổ quốc lâm nguy. Viết về sự hi sinh, mất mát, thất
bại nhưng khơng hề bi lụy, nói về cái chết mà vẫn hào hùng lẫm liệt, khảng định cái chết
ấy là đi vào cõi bất tử. Cái bi còn được biểu hiện ở giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ
hào hùng
1.1. Ý kiến 2: Bài văn tế là tiếng khóc bi tráng cho một thời kỳ lịch sử đau thương
nhưng vĩ đại của dân tộc

- Bài văn viết theo thể văn tế là thể loại văn học thể hiện sự bi thương, tang tóc,
thường để khóc người chết. Thơng qua tiếng khóc cho người nghĩa sĩ nơng dân u nước
đã hi sinh, tác phẩm cịn là tiếng khóc bi thương nhưng hào hùng cho một thời kì lịch sử
của dân tộc vừa đau thương mất mát nhưng vừa rất lớn lao, vĩ đại. Đất nước bị giặc xâm
lược giày xéo và gây bao nhiêu tội ác nhưng nhân dân vẫn phát huy truyền thống kiên
cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm.
=> Hai ý kiến là hai nhìn nhận khác nhau nhưng có liên quan đến nhau trong việc đánh giá
về tác phẩm.
2. Phân tích, chứng minh
2.1. Ý kiến 1: Tác phẩm đã tạc nên hình tượng về người nghĩa sĩ nơng dân yêu nước,
thất thế mà vẫn hiên ngang (TK mục 2. Đề số 1)
- Xuất thân
- Là người nông dân yêu nước, căm thù giặc
- Điều kiện chiến đấu và tinh thần chiến đấu
- Sự hi sinh đầy bi tráng của những người nghĩa sĩ nông dân
+ Sự hi sinh của người nghĩa sĩ nông dân:
+ Sự hi sinh ấy trước hết gợi bao nhiêu sự thương tiếc:
+ Sự hi sinh của những người nghĩa sĩ nông dân cũng rất hào hùng, cao cả
2.2. Ý kiến 2: Là tiếng khóc bi tráng cho một thời kỳ lịch sử đau thương nhưng vĩ đại
của dân tộc
- Hoàn cảnh ra đời và cảnh tình đất nước trong bài văn tế:
+ Hồn cảnh ra đời: Tk mục 1. đề 1
+ Tình thế căng thẳng: Súng giặc đất rền >< Lòng dân trời tỏ
+ Bọn giặc gây bao tội ác quăng vùa hương, xô bàn độc... Những người nghĩa sĩ hi
sinh để lại gia đình nhéo nhóc với mẹ già, vợ yếu, con thơ, khiến nhân già trẻ đều hai hàng
lụy nhỏ…
=> Tái hiện một thời kì lịch sử đầy đau thương của đất nước
- Qua hình tượng người nghĩa sĩ nơng dân xả thân, chấp nhận hi sinh quyết chiến đấu để
bảo vệ non sơng, đất nước ta thấy cả một thời kì lịch sử hào hùng, vĩ đại của dân tộc.
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của cụ Đồ Chiểu người đọc hiểu hơn về một thời đại

đau thương mà vĩ đại của dân tộc. Khi đất nước trở thành thuộc địa của thực dân xâm lược,
11


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

dân tộc ta bước vào một thời kì lịch sử đau thương với máu và nước mắt của bao người đã
ngã xuống. Kiêu hãnh biết bao, tự hào biết bao trong bối cảnh ngoại bang giày xéo, ngọn
lửa của lòng yêu nước nhân dân lại bùng lên. “Đất nghèo nuôi những anh hùng”, người
nông dân nơi lũy tre làng hai sương một nắng đã thắp lên ngọn lửa yêu nước để tỏa sáng
đến muôn đời.
3. Đánh giá hai nhận định:
- Hai nhận định đều đúng bổ sung cho nhau để thể hiện cái nhìn sâu sắc và tồn diện về tác
phẩm.
- Đánh giá về nội dung và nghệ thuật.
III. KẾT LUẬN: Suy nghĩ chung của bản thân về vấn đề đã nêu.

MR: Con người là sản phẩm của hoàn cảnh, nhưng nhân cách của con người không
chỉ là sản phẩm thụ động của hoàn cảnh. Ngày xưa cụ Nguyễn Du từng cho rằng: “Xưa
nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”. Nhân cách của Nguyễn Đình Chiểu là một minh
chứng sống động về tính năng động của con người. Cuộc đời dù nghiệt ngã, nhưng sự
nghiệp của con người ấy không vì thế mà bng xi theo số phận.Vượt qua số phận để
đứng vững trước sóng gió của cuộc đời, chính là thái độ sống có văn hóa, là nhân cách cao
đẹp của Nguyễn Đình Chiểu.

12




×