1
BÁO CÁO HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
TẠI VƯỜN QUỐC GIA XUÂN THỦY
GIAO THỦY, 2009
2
BÁO CÁO HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
TẠI VƯỜN QUỐC GIA XUÂN THỦY
NỘI DUNG
Nguyễn Viết Cách - Vườn Quốc gia Xuân Thủy
Trần Thị Trang - Vườn Quốc gia Xuân Thủy
Đinh Thị Phương - CORIN-Asia Việt Nam
Vũ Quốc Đạt - CORIN-Asia Việt Nam
THIẾT KẾ
Nguyễn Xuân Thuận - CORIN-Asia Việt Nam
HÌNH ẢNH
Vườn Quốc gia Xuân Thủy
CORIN-Asia Việt Nam
ĐƠN VỊ HỖ TRỢ
CORIN-Asia Việt Nam
ĐƠN VỊ TÀI TRỢ
Chương trình Liên minh Đất ngập nước (WAP)
Cơ quan hợp tác và phát triển Quốc tế Thụy Điển (SIDA)
GIAO THỦY, 2009
3
1. TÌNH HÌNH CHUNG
Trong những năm qua, hoạt động quản lý tài nguyên và phát
triển du lịch sinh thái tại VQG Xuân Thuỷ có những chuyển biển rõ rệt.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên được quản lý và bảo vệ tốt, số lượng
khách du lịch có xu hướng tăng và đang chuyển dần sang hình thức
du lịch sinh thái. Đặc biệt, năm 2008 là năm VQG Xuân Thuỷ chính thức
ra mắt là vùng lõi của khu dự trữ sinh quyển đồng bằng châu thổ sông
Hồng đã được UNESCO công nhận vào năm 2004 và tổ chức thành
công hội nghị thường niên của khu dự trữ sinh quyển. Chính điều đó
đã mở ra nhiều cơ hội và vị thế mới cho sự phát triển của VQG Xuân
Thuỷ, theo đó hoạt động du lịch sinh thái cũng phát triển hơn.
Tuy nhiên, để thu hút ngày càng đông lượng khách đến tham
quan, Xuân Thuỷ cần có các giải pháp thích hợp để phát huy hơn nữa
tiềm năng sẵn có của mình.
2. TÀI NGUYÊN DU LỊCH
2.1 Tài nguyên thiên nhiên
Hệ sinh thái đất ngập nước ở VQG Xuân Thuỷ đạt được ba điều
nhất đó là: “Đa dạng sinh học cao nhất, năng suất sinh học lớn nhất
đồng thời cũng là hệ sinh thái nhạy cảm nhất”.
Khu RAMSAR Xuân Thuỷ có hệ thực vật khá phong phú đa dạng.
Từ kết quả điều tra sơ bộ cho thấy ở đây có trên 120 loài thực vật bậc
cao có mạch, trong đó có gần 20 loài thích nghi với điều kiện sống
ngập nước hình thành nên hệ thống rừng ngập mặn rộng trên 3000ha
và gần 100ha rừng phi lao chạy dọc trên các giồng cát ở đảo Cồn Lu.
Có nhiều loài thực vật chính tiêu biểu cho hệ sinh thái rừng ngập mặn
như cây trang (Kandelia candel), sú (Aegicenia lannata), bần (Sonnera-
tia caseolairis), mắm (Avicennia lanata), cóc kèn (Derris trifoliata) Hệ
sinh thái rừng ở VQG Xuân Thuỷ là những sinh cảnh đặc trưng cho kiểu
rừng ngập mặn ở ven biển Bắc Bộ Việt Nam, đó là hệ sinh thái cửa sông
ven biển. Điều này cũng tạo ra một tiềm năng lớn cho phát triển du
lịch sinh thái.
4
Tại Xuân Thuỷ có các sinh cảnh chính như:
Hình 1. Sinh cảnh rừng ngập mặn
HÌnh 3. Sinh cảnh bãi bồi
và đất ngập nước
Hình 5. Sinh cảnh nhân tạo: mô
hình nuôi ngao trồng quảng canh
Hình 2. Sinh cảnh rừng phi lao
Hình 4. Sinh cảnh trảng cỏ
5
Tiêu biểu nhất cho Xuân Thuỷ là khu hệ chim. Từ VQG Xuân
Thuỷ đã ghi nhận trên 220 loài chim, trong đó có trên 150 loài di cư,
50 loài chim nước và có tới 09 loài nằm trong sách đỏ quốc tế. đó là:
Cò thìa (Platalea minor), Rẽ mỏ thìa (Eurynorynchus pygmeus), Choắt
chân màng lớn (Limodromus semipanmatus), Choắt đầu đốm (Tringa
stagnatinis), Cò trắng Trung Quốc (Egretta eulohotes), Te vàng (Vaviel-
luscinereus), Choắt mỏ vàng (Tringa guttifer), Mòng bể mỏ ngắn (Larus
saundersi). Bồ nông (Penecanus Philippen sis). Số lượng chim lúc đông
đúc lên tới 30-40 ngàn cá thể; ở Việt nam hiện nay hầu như chỉ có thể
dễ dàng bắt gặp Cò thìa và Rẽ mỏ thìa ở VQG Xuân Thuỷ (có thời điểm
số lượng cá thể Cò thìa ở đây đã chiếm tới 26% số lượng hiện còn của
thế giới).
Hàng năm, cứ đến dịp đông từ tháng 11, 12 năm trước đến tháng 3,
4 năm sau, vào mùa chim di cư, hàng chục ngàn con chim nước đã
dừng chân nghỉ ngơi, trú đông, kiếm mồi tích luỹ năng lượng cho cuộc
hành trình dài từ Xibêri, Trung Quốc, Triều Tiên xuống Australia và
theo hướng ngược lại. Vào thời điểm đông nhất, có từ 30.000 - 40.000
con chim các loại dừng chân nghỉ ngơi, trú đông (Nguyễn Huy Thắng,
1999).
Những đàn chim rợp trời kết hợp với sinh cảnh rừng ngập mặn
bao la giao hoà với biển đã và đang thu hút sự quan tâm rất lớn của
các nhà điểu học cũng như du khách trong nước và quốc tế. Là vùng
đất ngập nước, tính đa dạng của Xuân Thuỷ còn được nhân lên bởi sự
Hình 6. Chim Xuân Thủy
Ảnh: Lê Mạnh Hùng
6
tham gia của các loài động thực vật thuỷ sinh (500 loài), tiêu biểu là các
loài thuỷ hải sản. Những mô hình nuôi trồng thuỷ hải sản mang đậm
tính nhân văn ở khu vực vừa mang lại lợi ích kinh tế cho cộng đồng địa
phương đồng thời là những điểm tham quan thú vị đối với du khách.
Về thú có trên một chục loài thú, trong đó có 3 loài quý hiếm
là: Rái cá (Lura lutru), Cá heo (Lipotes vixillifer), Cá đầu ông sư (Neopho-
caera phocaennoides).
2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn
Khu vực VQG Xuân Thuỷ là vùng đất mới với lịch sử của quá
trình lấn biển mở mang bờ cõi, mang những sắc thái riêng đã tạo lên
sự hấp dẫn đối với du khách.
Trước hết là kiến trúc nhà ở (nhà bổi), nhà thờ Thiên chúa giáo
và chùa chiền mang nhiều dáng dấp dân gian được xây dựng trên
những làng quê thanh bình trù phú phù hợp với khí hậu vùng ven
biển vẫn còn được bảo tồn và lưu giữ.
Những nét sinh hoạt văn hoá mang đậm dấu ấn của nền văn minh lúa
nước như: chèo cổ, chầu văn, bơi chải, múa lân, chọi gà hay đấu vật…
trong các lễ hội cùng với sinh hoạt thường nhật của cộng đồng đã gắn
kết mọi người với nhau trong mối quan hệ mật thiết “tình làng nghĩa
xóm”. Sống ở miền quê được thiên nhiên ưu đãi, người dân miền biển
cũng chất phác, nhân hậu, cởi mở và mến khách.
Hình 8. Kiến trúc nhà bổi, nhà thờ
Hình 7. Kiến trúc nhà bổi
7
2.3. Các tuyến du lịch
* Tuyến du thuyền cửa sông: Tuyến này dành cho du khách muốn tìm
hiểu khái quát về VQG Xuân Thuỷ.
Xuất phát từ trụ sở VQG XuânThuỷ đi dọc sông Vọp ra cửa Ba Lạt
(cửa sông Hồng). Du khách có thể ghé thăm ngọn Hải Đăng (Tiền Hải -
Thái Bình), đài quan sát Cồn Ngạn và thăm Cồn Xanh - một đảo cát pha
mới bồi. Sau đó du khách nghỉ trưa, thăm thú đảo Cồn Lu và quay về
thăm các cánh rừng ngập mặn ở cửa sông. Nếu may Nếu may mắn du
khách có thể được ngắm nhìn những đàn chim di trú đang bình thản
kiếm mồi ở đầu sông Trà.
* Tuyến xem chim: Tuyến này dành cho du khách có nhu cầu khám phá
thiên nhiên, quan sát chim muông và chiêm ngưỡng những cảnh quan
độc đáo của hệ sinh thái đất ngập nước cửa sông ven biển.
Hình 10. Du khách xem chim
Hình 9. Các hình ảnh sinh hoạt văn hóa
Xuất phát từ Văn phòng VQG du
khách đi thuyền hoặc canô theo
sông Vọp đến Cồn Ngạn, cuối Cồn
Lu. Đây là vùng chim quan trọng
của VQG – là nơi trú ngụ của các
loài chim nước quý hiếm. Đây cũng
là khu vực người dân địa phương
nuôi vây ngao quảng canh khá
hùng vĩ. Du khách có thể tiếp tục đi
8
* Tuyến điền dã
Du khách đi bộ qua các
sinh cảnh tự nhiên gồm các cánh
rừng và các đầm tôm (mô hình
kinh tế - sinh thái của người dân
địa phương). Du khách có thể ghé
thăm các đầm tôm, xem tập quán
canh tác theo phương thức quảng
canh cải tiến của các chủ đầm tôm,
đồng thời có thể quan sát các loài
chim hoang dã kiếm mồi và nghỉ
* Tuyến du khảo đồng quê: Tuyến này áp dụng cho du khách có nguyện
vọng khám phá đới sống của người dân địa phương.
dọc theo các giông cát ở má ngoài Cồn Lu để quan sát rừng phi lao,
xem các loài chim rừng và chim ven biển sau đó quay về trụ sở VQG.
Hình 11. Khách du lịch trên tuyến
điền dã
HÌnh 12. Khách du lich đạp xe
khám phá cuộc sống của người
dân địa phương
ngơi tại khu vực. Vào mùa chim di trú, du khách dễ dàng bắt gặp Cò
thìa và nhiều loài chim nước khác đang chung sống rất tự nhiên với
con người trong các đầm tôm của người dân địa phương.
Xuất phát từ trụ sở VQG
Xuân Thuỷ đi qua các làng mới
Tân Hồng và Điện Biên. Du khách
tiếp tục khám phá đời sống tấp lập
của các ngư dân Bến cá Giao Hải,
thăm làng dệt lưới, làm nước mắm
và chợ quê. Trên đường trục chạy
dọc trung tâm các xã vùng đệm,
du khách có thể ghé thăm các
công trình kiến trúc độc đáo như:
Nhà Bổi, chùa chiền, Nhà thờ thiên
chúa giáo…
9
Nếu may mắn gặp dịp lễ hội, du khách có thể chiêm ngưỡng
các nét văn hoá dân gian thú vị và đặc sắc (hát chầu văn, bơi chải )
của một vùng quê giàu đẹp và yên bình.
Với nguồn tài nguyên phong phú, các tuyến du lịch hấp dẫn,
Xuân Thuỷ là nơi lý tưởng để thu hút khách du lịch trong tương lai
không xa.
3. HIỆN TRẠNG KHÁCH DU LỊCH
3.1. Hiện trạng khách du lịch
3.1.1. Khách du lịch quốc tế
Năm 2007 2008 2009
Lượt khách 219 183 196
Bảng 1. Bảng thống kê số lượng khách quốc tế tới thăm VQG Xuân Thủy qua
các năm 2007-2009
Qua Bảng 1, có thể thấy số lượng khách quốc tế đến Xuân Thuỷ
có xu hướng giảm, một phần do ảnh hưởng của dịch bệnh và suy thoái
kinh tế.
Hàng năm, tại Xuân Thuỷ trung bình có khoảng 30-40 đoàn
khách du lịch đến từ 30 quốc tịch khác nhau, đông nhất vẫn là khách
đến từ nước Anh, chiếm gần 30% tổng số khách đến VQG Xuân Thuỷ
trong 03 năm, tiếp theo là Mỹ, Nhật, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch… Đặc biệt
trong vài năm gần đây số lượng khách Đông Nam Á tăng lên đáng kể.
Hình 13. Du lịch xem chim
Hình 14. Du lịch học tập
10
Những năm trước, phần lớn du khách là những nhà khoa học
về sinh học (nghiên cứu chim, rừng ngập mặn và thuỷ sinh) nhưng
hiện nay đã có sự thay đổi đáng kể, lượng khách đến VQG để quan sát
chim chiếm tỷ lệ cao nhất (trên 80%). Khách thường đến vào mùa chim
di trú (tháng 9, 10 năm trước – tháng 3, 4 năm sau), theo thông tin trên
mạng Internet hoặc qua các công ty lữ hành như Sài Gòn Tourist, Dalat
Tourist, Vido Tour, Sao Mai, Hoàn Kiếm Nhìn chung lượng khách quốc
tế còn nhỏ và ít có khách đi theo Tour du lịch sinh thái.
Ghi chú: Số lượng khách nêu trên mới chỉ là những đối tượng có đăng ký
tạm trú ở VQG, còn khoảng 60-70% đối tượng khách quốc tế đến VQG
thông qua đối tác khác, chỉ thăm thú và làm việc trong ngày, không đăng
ký tạm trú nên VQG không có số liệu thống kê báo cáo đầy đủ về các đối
tượng này.
3.1.2. Khách du lịch nội địa
Năm 2007 2008 2009
Lượt khách 4.907 5.802 6.010
Bảng 2. Bảng thống kê số lượng khách du lịch nội địa tới thăm VQG Xuân
Thủy qua các năm 2007-2009
Như vậy số lượng khách nội địa thường chiếm trên 90% tổng
số khách đến VQG và chủ yếu là khách đi du lịch thiên nhiên chứ chưa
phải đã có động cơ du lịch sinh thái chính thức. Thông thường khách
nội địa đến tham quan nghiên cứu là học sinh, sinh viên, cán bộ nhân
viên đến từ khối các cơ quan nhà nước và con em địa phương đi xa
về thăm quê. Số lượng khách hàng năm thường từ 4000 – 6000 lượt
khách, khoảng 200 đoàn/ năm.
Từ các kết quả trên có thể thấy số lượng khách đến VQG Xuân
Thuỷ là quá nhỏ bé so với tiềm năng sẵn có ở đây. Do vậy, việc xây
dựng các chiến lược phát triển du lịch là rất cần thiết.
3.2. Dịch vụ du lịch
3.2.1. Dịch vụ lưu trú
11
Hiện nay VQG Xuân Thuỷ đã có cơ sở lưu trú phục vụ khách du
lịch đến tham quan. Với 04 phòng đôi và 02 phòng ba khép kín được
trang bị khá đầy đủ. Ngoài những trang thiết bị cơ bản như: giường
ngủ, chăn ga, gối, đệm, tủ, bàn làm việc… còn có Tivi, Điều hoà nhiệt
độ, nước nóng. Còn lại là những phòng nghỉ trung bình (dùng chung
công trình phụ).
Hệ thống phòng nghỉ tại VQG Xuân Thuỷ có thể phục vụ được
khoảng 20-30 khách/ đêm.
Điều thú vị nữa là: trong chuyến tham quan VQG Xuân Thuỷ, du
khách có thể nghỉ tại nhà dân nếu muốn tận hưởng không khí trong
lành, yên ả của một làng quê. Tại xã Giao Xuân có 07-12 phòng nghỉ
với trang thiết bị khá đầy đủ, đảm bảo có thể phục vụ cùng một lúc
tối thiểu là 16 khách và cao nhất là 30 khách. Những người dân tham
gia phục vụ khách du lịch đã được tham gia những khoá tập huấn về
nghiệp vụ du lịch, có khả năng đón tiếp khách chu đáo.
Hình 15. Khu nhà khép kín
Hình 17. Nhà nghỉ cộng đồng
Hình 16. Nội thất phòng nghỉ
khép kín
Hình 18. Cối giã gạo
12
3.2.2. Dịch vụ ăn uống
Đến tham quan VQG Xuân Thuỷ, du khách có cơ hội được
thưởng thức những món ăn mang đậm hương vị biển. Đó là những
món ăn được chế biến từ những loại thuỷ hải sản do người dân địa
phương khai thác được trong khu vực VQG như: tôm, cua, cá, ngao,
mực … Món ăn không chỉ ngon, rẻ, đảm bảo vệ sinh mà cách trang trí
cũng hết sức được chú trọng.
Tại VQG đã có một phòng ăn rộng, có thể phục vụ được nhiều
thực khách trong cùng một thời điểm
Hình 18. Món ăn chế biến từ cá
Hơn thế nữa, du khách
còn có thể được thưởng thức các
món ăn được chế biến từ các sản
phẩm do chính VQG phối hợp
với Viện Tài nguyên duyên hải Á
Châu (CORIN- Asia) tại Việt Nam
hỗ trợ cộng đồng, như: các món
ăn chế biến từ nấm tươi hay khô
(Sản phẩm của Dự án phát triển
sinh kế trồng nấm); mật ong (sản
Hình 19. Món ăn chế biến từ tôm
Hình 20. Món ăn chế biến từ nấm
phẩm của Dự án hỗ trợ nghề nuôi ong), các loại hoa quả như: nhã trái
mùa, vải muộn, thanh long ruột đỏ, bưởi Diễn, (sản phẩm của Dự án
hỗ trợ phát triển VAC)
13
4. ĐÁNH GIÁ CHUNG
Nhìn chung hoạt động du lịch tại Xuân Thuỷ trong vài năm trở
lại đây đã có bước phát triển mới. Do nguồn tài nguyên phong phú
được quản lý bảo vệ tốt; hoạt động tuyên truyền quảng bá được đẩy
mạnh nên thu hút sự quan tâm của du khách, đáng chú ý là số lượng
khách nội địa đến với Xuân Thuỷ tăng lên đáng kể.
Tuy nhiên để du lịch sinh thái phát triển hơn nữa chúng ta còn
nhiều vấn đề phải giải quyết.
4.1. Hệ thống giao thông
* Giao thông đường bộ
Giao thông từ tất cả các nơi tới VQG khá thuận lợi. Khoảng cách
từ trung tâm Hà Nội tới Vườn khoảng 150km, thời gian đi mất khoảng
3 giờ. Tuy nhiên từ ranh giới đê quốc gia đi ra vùng lõi của VQG thì
đường rất xấu, chỉ có một đường trục Cồn Ngạn dài khoảng 04km là
con đường giao thông huyết mạch của Ban quản lý VQG. Con đường
này đã và sẽ được cải tạo nâng cấp. Xe ôtô nhỏ (tối đa 7 chỗ ngồi) có
thể lưu thông trên con đường này. Đây cũng là con đường độc đạo mà
cộng đồng sử dụng
Ranh giới giữa vùng lõi và vùng đệm ở phía Tây Bắc là hệ thống
đê vành vào các đầm tôm nên hiện nay chỉ có xe máy, xe thô sơ có thể
đi lại được. Đây là tuyến đường bộ duy nhất có trong khu vực dùng để
tuần tra bảo vệ và phục vụ khách tham quan du lịch, nhưng do ảnh
hưởng của các cống tháo nước nên xe ô tô không thể đi được và vào
những ngày trời mưa việc đi lại cũng rất khó khăn.
* Giao thông đường thuỷ
Có thể nói giao thông đường thuỷ trong vùng cũng khá thuận tiện,
từ Hà Nội du khách có thể đi tàu xuống VQG. Trong VQG có sông Vọp,
sông Trà và nhiều sông kênh nhỏ, du khách có thể đi thuyền nhỏ len
theo các dòng chảy để quan sát chim và thưởng ngoạn cảnh đẹp của
một trong những khu vực còn rừng ngập mặn tốt nhất vùng châu thổ
sông Hồng.
14
Tuy nhiên, giao thông đường thuỷ ở VQG còn phụ thuộc vào
thuỷ triều, vào những ngày triều kiệt việc đi lại thăm thú của du khách
bằng đường thuỷ gặp rất nhiều khó khăn.
4.2. Cơ sở vật chất, kỹ thuật du lịch
Nhìn chung cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch tại VQG Xuân Thuỷ
đã đáp ứng được những nhu cầu cơ bản của du khách. Tuy nhiên, số
lượng phòng nghỉ còn hạn chế, phòng ăn còn nhỏ nên vào mùa đông
khách việc phục vụ chưa thật sự chu đáo. Hiện nay, Ban du lịch của
VQG đang trong quá trình hình thành, các phương tiện phục vụ cho
hoạt động du lịch chưa được trang bị đầy đủ.
4.3. Lực lượng lao động trong du lịch
Trong VQG đã có cán bộ chuyên trách về du lịch, tuy nhiên số
lượng còn ít. Khi có khách, cán bộ của vườn thay nhau kiêm nghiệm lái
xuồng, hướng dẫn viên…
Là một đơn vị sự nghiệp nghiên cứu khoa học mang những
đặc thù riêng biệt nhằm tổ chức thực thi luận chứng kinh tế - kỹ thuật
đã được Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ Nông nghiệp và PTNT) phê duyệt,
Ban quản ký khu Ramsar Xuân Thuỷ vừa là chủ đầu tư dự án VQG Xuân
Thuỷ. Ngoài ra, Ban quản lý còn phải hợp tác với các đơn vị hữu quan
để xây dựng và tổ chức thực thi dự án “Vùng đệm” và dự án “Du lịch” ở
đây. Trong khi phải đảm nhiệm rất nhiều vai trò như vậy nhưng hiện
nay bộ máy tổ chức của Ban quản lý chỉ có 11 người.
Mảng du lịch hiện nay do 1 cán bộ phụ trách du lịch cùng với
bộ phận kỹ thuật và bảo vệ kiêm nghiệm, trong đó cán bộ du lịch và
bộ phận kỹ thuật đóng vai trò chính còn bộ phận bảo vệ phục vụ việc
vận chuyển và ăn uống cho khách.
Do lực lượng lao động trong du lịch còn mỏng và phần lớn là
cán bộ kiêm nghiệm nên mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc nâng
cao trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ của mình
nhưng chất lượng thực hiện công việc còn thấp. Do vậy, nếu muốn
hoạt động du lịch ở VQG Xuân Thuỷ phát triển tương xứng với tiềm
15
năng vốn có của nó thì việc bổ sung thêm những cán bộ có chuyên
môn, năng lực là rất cần thiết.
4.4. Quảng bá du lịch
Đây là lĩnh vực còn nhiều yếu kém trong hoạt động du lịch ở
VQG Xuân Thuỷ. Trước đây do điều kiện về giao thông, thông tin liên
lạc còn hạn chế nên hoạt động du lịch ở đây chỉ được biết đến một
cách gián tiếp thông qua các tổ chức quốc tế đến làm việc và qua một
số phương tiện truyền thông nên hiệu quả tuyên truyền quảng cáo
không cao.
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây hoạt động này đã nhận được
sự quan tâm của nhiều tổ chức quốc tế, nhiều công ty du lịch đến khảo
sát và gửi khách đến Vườn. Nhiều cuốn phim, tờ gấp giới thiệu về tiềm
năng của VQG đã đến với du khách, nhiều công ty du lịch đã đăng tải
thông tin này trên Website của mình. Do vậy muốn thu hút khách, việc
quảng bá tuyên truyền cần được quan tâm.
4.5. Sự tham gia của cộng đồng vào hoạt động du lịch
Đối với việc phát triển du lịch ở các khu bảo tồn thiên nhiên thì
sự tham gia của cộng đồng đóng vai trò rất quan trọng. Nằm trong quy
luật chung đó, cộng đồng vùng đệm VQG Xuân Thuỷ đã tạo khá nhiều
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển du lịch ở nơi đây.
Ấn tượng đầu tiên khi du khách đến đây là sự thân thiện, mến
khách của người dân. Đây chính là điều tạo ấn tượng ngay từ phút đầu
đối với du khách, làm cho du khách có cảm giác gần gũi, thân quen.
Trong những năm gần đây được sự quan tâm của Ban quản lý VQG và
các tổ chức phi chính phủ như Hội chữ thập đỏ Đan Mạch (DRC), Bird
life International, Trung tâm nghiên cứu Hệ sinh thái rừng ngập mặn
(MERC) đã tổ chức các đợt giáo dục môi trường. Họ cũng đã tổ chức
các đợt sinh hoạt văn hoá, văn nghệ, tham quan bảo tàng động thực
vật rừng ngập mặn cho học sinh khá giỏi các trường Trung học cơ sở
miền biển, đã phát hành cuốn sách “Rừng ngập mặn của chúng ta”
để giảng dạy trong các trường Trung học cơ sở vùng ven biển… Nhờ
16
những hoạt động giáo dục môi trường mà nhận thức của người dân ở
đây về môi trương , về tầm quan trọng của hệ sinh thái đất ngập nước,
hệ sinh thái rừng ngập mặn trong những năm gần đây đã có những
tiến bộ rõ rệt.
Đó là tiền đề quan trọng không chỉ cho công tác bảo tồn mà
còn phục vụ cho mục tiêu cho phát triển du lịch ở khu Ramsar Xuân
Thuỷ.
Mặc dù đã tạo ra một số đíều kiện tốt cho khả năng phát triển
du lịch ở nơi đây nhưng chính cộng đồng địa phương đã gây ra không
ít khó khăn cho Ban quản lý, đặc biệt là cho công tác bảo tồn. Do dân số
ở các xã vùng đệm khá đông, cuộc sống chủ yếu dựa vào thiên nhiên
nên hoạt động khai thác nguồn lợi thuỷ hải sản diễn ra khá rầm rộ,
thậm trí là khai thác huỷ diệt. Những hoạt động này của họ đang làm
cạn kiệt dần nguồn tài nguyên, ảnh hưởng lớn đến tính đa dạng sinh
học. Điều đó chính là làm cạn kiệt nguồn tài nguyên du lịch.
Một số người dân đã tham gia vào hoạt động vận chuyển khách
du lịch nhưng không thường xuyên và chất lượng phục vụ còn thấp.
Nhiều người dân cũng chưa có hiểu biết thấu đáo về DLST ở VQG Xuân
Thuỷ.
5. Ý KIẾN ĐỀ XUẤT
- Xây dựng phương hướng, kế hoạch cụ thể cho phát triển du lịch sinh
thái
- Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, quảng bá để thu hút sự quan
tâm của du khách đồng thời nâng cao ý thức bảo vệ tài nguyên môi
trường.
- Đào tạo và đào tạo lại cán bộ nhân viên hoạt động trong lĩnh vực du
lịch tại VQG Xuân Thuỷ.
- Lên chương trình, kế hoạch liên kết tour, liên kết với các công ty lữ
hành để thu hút lượng khách về tham quan ở Xuân Thuỷ
- Thu hút cộng đồng địa phương tham gia vào hoạt động du lịch.
- Tính toán sức chứa sinh thái và sức chứa tổng hợp để du lịch sinh thái
ở Xuân Thuỷ hoạt động có hiệu quả.
17
Vườn Quốc gia Xuân Thủy (VQGXT) được thành lập từ
Quyết định số 01/QĐ-TTg ngày 02/01/2003 của Thủ Tướng
chính phủ; đồng thời VQGXT là khu Ramsar đầu tiên của
khu vực Đông Nam Á, được UNESCO chính thức công nhận
tháng 01/1989. Những chức năng cơ bản của VQGXT là:
Bảo tồn mẫu chuẩn điển hình của hệ sinh thái đất ngập nước ở cửa Sông
Hồng; Phục vụ hoạt động nghiên cứu khoa học trong nước và quốc tế:
Tăng cường giáo dục môi trường, phát triển mô hình du lịch sinh thái; Góp
phần tạo công ăn việc làm và phát triển bền vững kinh tế- xã hội của khu
vực.
Viện Các Nguồn Lực Ven Biển Á Châu (CORIN-
Asia Việt Nam) là một tổ chức phi lợi nhuận,
hoạt động trong lĩnh vực quản lý các vùng đất
ngập nước và vùng ven biển trong sự hợp tác với
mạng lưới CORIN-Asia. CORIN-Asia có nhiều năm kinh nghiệm trong việc
phát triển nguồn nhân lực xã hội ở nhiều mức độ khác nhau bằng việc
biến những khó khăn của địa phương thành những cơ hội. Mục tiêu là xây
dựng năng lực địa phương hướng tới phát triển sinh kế bền vững và tăng
cường khả năng thích ứng với sự biến đổi của môi trường.