MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Nhân loại đang bước vào thế kỷ XXI – thế kỷ của nền văn minh trí
tuệ, của sự cạnh tranh và hội nhập mang tính chất toàn cầu. Đây là thế kỷ
của sự bùng nổ công nghệ thông tin và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin nhằm nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động mọi mặt
của tất cả các quốc gia. Trong thế kỷ ấy, sự bứt phá, vượt lên của mỗi
quốc gia, dân tộc diễn ra nhanh hay chậm phụ thuộc cơ bản vào việc quốc
gia đó, dân tộc đó có tạo ra được lớp người có đầy đủ đức, trí, thể, mỹ
hay không. Nhiệm vụ đào tạo này đặt trọng trách trước hết và chủ yếu
vào ngành giáo dục, nơi mà hàng ngày, hàng giờ hướng đến việc dạy dỗ
và phát triển con người toàn diện. Tuy nhiên, làm thế nào để đào tạo ra
được những con người toàn diện đáp ứng được đòi hỏi của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước và của thời đại, ngành giáo
dục nước nhà không thể không tiến hành cải cách triệt để, không thể
không tính đến sự đổi mới toàn diện mà trong đó việc ứng dụng đúng
đắn, sáng tạo và phù hợp công nghệ thông tin vào quá trình đổi mới
phương pháp dạy học là một trong những nội dung cơ bản nhất.
Trên thực tế, việc dạy học môn tư tưởng Hồ Chí Minh ở nhiều nơi
vẫn thường sử dụng phương pháp thuyết trình, giảng giải là chủ yếu, một
số nơi đã bước đầu ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy song kết
quả còn rất hạn chế. Trong các phương pháp đó, thầy đóng vai trò là
trung tâm, dùng khẩu ngữ của mình để phân tích các nội dung của bài
giảng cho sinh viên chép. Ngược lại, sinh viên là những người quan sát
thụ động, ghi chép lại một cách giản đơn, máy móc những điều thầy đọc
và trình chiếu. Phương pháp dạy học như vậy không những đã tạo ra sự
khô cứng, đơn điệu trong quá trình giảng dạy của thầy cũng như học tập
của trò; gây mất tập trung, làm triệt tiêu tính chủ động, cảm hứng sáng
1
tạo của người học. Hậu quả cuối cùng là chất lượng dạy và học còn thấp,
thậm chí còn có xu hướng “cải tiến” thành “cải lui” hoặc “cải lương”.
Thực trạng của việc dạy và học đó đã đặt ra yêu cầu cấp bách là
phải vận dụng hiệu quả hơn nữa công nghệ thông tin vào giảng dạy, đổi
cách làm cũ bằng cách làm mới khoa học, sáng tạo và hiệu quả hơn. Quá
trình đó thầy phải thực sự đóng vai trò là người hướng dẫn, phát huy
được tính chủ động, tích cực tìm kiếm các tri thức khoa học một cách
sáng tạo của trò, nâng cao một bước chất lượng dạy và học môn tư tưởng
Hồ Chí Minh hiện nay.
Để đáp ứng nhu cầu cấp bách đó, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài
“Nâng cao ứng dụng phần mềm Powerpoint vào xây dựng bài giảng
điện tử môn tư tưởng Hồ Chí Minh ở trường ĐHNN - ĐHQGHN”.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài.
Công nghệ thông tin ra đời là một bước tiến lớn lao trong lịch sử
văn minh của nhân loại. Nó tạo ra những phương tiện đắc lực cho con
người không phải chỉ trong sự tính toán, quản lí, sáng chế mà nó còn có
vai trò quan trọng cả trong lĩnh vực dạy học. Ở một số trường đã đưa các
thiết bị máy tính, đèn chiếu vào dạy học, nhưng hầu hết lại dừng lại ở chỗ
thay cho hoạt động viết trên bảng của thầy trước đây bằng việc soạn sẵn
trên máy tính rồi chiếu những đoạn đó cho sinh viên xem, thầy đọc lại
cho sinh viên chép. Có thể nói, việc sử dụng các phương tiện máy móc
hiện đại đó cũng là một bước tiến bộ, song nó vẫn chỉ dừng lại ở chỗ làm
đẹp hơn các dòng chữ ở trên bảng mà thôi. Còn việc sử dụng các công
nghệ mới, đáng chú ý là sử dụng phần mềm Ms Powerpoint để thiết kế
các bài giảng dưới dạng các slide tích hợp vẫn chưa được nhiều người
nghiên cứu. Đây là mục tiêu chính mà tác giả sẽ thực hiện trong đề tài
nghiên cứu của mình nhằm nâng cao ứng dụng phần mềm powerpoint
vào xây dựng bài giảng điện tử môn tư tưởng Hồ Chí Minh để có những
giờ giảng sinh động, phong phú, hấp dẫn và hiệu quả hơn.
2
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Mục đích mà đề tài đặt ra là làm sáng tỏ những cơ sở, nội dung cơ
bản của việc nâng cao ứng dụng phần mềm Microsoft Powerpoint để xây
dựng bài giảng điện tử và trình diễn các bài giảng đó trong quá trình
giảng dạy môn tư tưởng Hồ Chí Minh ở trường ĐHNN - ĐHQGHN.
Để đạt được mục tiêu đó, đề tài cần phải giải quyết hai nhiệm vụ
sau đây:
Một là, chỉ rõ những khuynh hướng và nội dung cơ bản của việc
việc nâng cao ứng dụng phần mềm Ms Powerpoint vào xây dựng bài
giảng điện tử môn tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, vận dụng những khuynh hướng, nội dung đó vào việc thiết
kế bài giảng điện tử môn tư tưởng Hồ Chí Minh.
Xác định đây là một đề tài khó vì sự hiểu biết về các phần mềm
công nghệ thật là vô cùng nên đề tài chỉ giới hạn trong những ý tưởng
triển khai bài giảng trên nền Ms Powerpoint mà tác giả cho là hữu hiệu
nhất.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài.
Để thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài đã nêu ra ở
trên, tôi sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp khác nhau như: phân tích
và tổng hợp, lôgíc và lịch sử đặc biệt là sử dụng phương pháp “trực
quan động” nhờ ứng dụng công nghệ thông tin. Với phương pháp trực
quan động, những tri thức môn tư tưởng Hồ Chí Minh tưởng chừng rất
khô cứng sẽ được giáo viên hướng dẫn kèm các slide tích hợp sao cho
diễn tả được trình tự quá trình nhận thức và xác lập được những đơn vị tri
thức đó trong quá trình nhận thức của sinh viên.
5. Đóng góp mới của đề tài.
Nghiên cứu đề tài này sẽ đưa ra hướng mới về nâng cao ứng dụng
phần mềm Ms Powerpoint vào xây dựng bài giảng điện tử môn tư tưởng
Hồ Chí Minh. Bằng phương pháp sử dụng Ms Powerpoint để thiết kế bài
3
giảng điện tử môn tư tưởng Hồ Chí Minh, phần mềm và đặc biệt là sản
phẩm của nó sẽ hỗ trợ đắc lực cho cả thầy và trò trong quá trình học tập
và nghiên cứu.
6. Ý nghĩa của đề tài.
Việc nghiên cứu đề tài này chẳng những góp phần làm phong phú
lí luận về đổi mới phương pháp dạy học, làm rõ hơn vai trò của việc ứng
dụng các công nghệ thông tin trong quá trình dạy học tư tưởng Hồ Chí
Minh, kích thích giáo viên ứng dụng đúng đắn hơn nữa phần mềm Ms
Powerpoint, phát huy tính hữu ích và đa dụng của nó phục vụ đắc lực cho
quá trình đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
Sản phẩm của đề tài (bài giảng điện tử môn Tư tưởng Hồ Chí
Minh) có thể sẽ được ứng dụng ngay vào quá trình giảng dạy, cung cấp
cho sinh viên một bài giảng điện tử đa dụng, hấp dẫn, góp phần đắc lực
vào việc nâng cao chất lượng dạy và học môn này ở trường Đại học
Ngoại Ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội.
7. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
được triển khai thành 2 chương, 7 tiết thể hiện trong … trang.
Chương 1: Những khuynh hướng và nội dung cơ bản của việc nâng
cao ứng dụng Microsoft Powerpoint vào xây dựng bài giảng
điện tử môn tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chương 2: Sử dụng phần mềm Microsoft Powerpoint trong việc thiết
kế bài giảng điện tử môn tư tưởng Hồ Chí Minh ở trường
ĐHNN – ĐHQGHN.
4
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG KHUYNH HƯỚNG VÀ
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA VIỆC NÂNG CAO ỨNG DỤNG
MICROSOFT POWERPOINT VÀO XÂY DỰNG BÀI GIẢNG
ĐIỆN TỬ MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1. Cơ sở của việc nâng cao ứng dụng Microsoft Powerpoint vào xây
dựng bài giảng điện tử môn tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.1.1. Tính tất yếu của việc đổi mới phương pháp dạy học.
Trong xu hướng phát triển chung của đất nước, một câu hỏi luôn
luôn đặt ra ở mọi lĩnh vực, từ đời sống vật chất đến đời sống tinh thần là
làm thế nào để nâng cao được chất lượng và hiệu quả của các hoạt động
của con người trong xã hội. Trong quá trình đi tìm kiếm đáp án trả lời cho
câu hỏi đó, nơi nào, lĩnh vực nào mà con người thay thế phong cách tư
duy cũ, cách làm cũ, bằng phong cách tư duy mới, cách làm mới phù hợp
sẽ dẫn đến thành công và thắng lợi, đem lại được hiệu quả cao hơn, chất
lượng tốt hơn trong công việc. Còn ở đâu, ở trong lĩnh vực nào mà con
người không chịu thay thế cái cũ bằng cái mới hoặc thay thế bằng một cái
mới khác mà không tạo ra được chất lượng và hiệu quả tốt hơn thì ở đó sẽ
không có sự phát triển.
Giáo dục là một lĩnh vực liên quan trực tiếp đến việc đào tạo con
người. Sản phẩm của giáo dục là sản phẩm cao quý nhất, “tinh hoa nhất”
của tự nhiên và xã hội. Nó tạo ra những lớp người có vai trò quyết định
tốc độ vận động và phát triển của tất cả các lĩnh vực khác trong đời sống.
Trên thực tế, những lực lượng này đã, đang và vẫn đóng vai trò quyết
định tương lai phát triển của đất nước. Quốc gia nào, dân tộc nào sớm
nhận ra được “chân lý” ấy, và biết đầu tư đổi mới lĩnh vực giáo dục thì
quốc gia đó, dân tộc đó sẽ phát triển nhanh chóng và bền vững. Còn quốc
5
gia nào, dân tộc nào không nhận ra được quy luật ấy thì quốc gia đó, dân
tộc đó sẽ không thể phát triển bền vững được.
Đổi mới phương pháp dạy học là thay thế cách thức dạy học cũ,
không có hiệu quả hoặc hiệu quả thấp bằng cách thức dạy học mới đem
lại hiệu quả nhận thức cao hơn cho người học. Đây là một đòi hỏi tất yếu
và bức thiết được đặt ra trong giáo dục hiện nay. Tính tất yếu và bức thiết
này bắt nguồn từ những cơ sở sau đây:
Cơ sở đầu tiên là do yêu cầu của công cuộc cải cách giáo dục, của
mục tiêu và chiến lược đào tạo con người nhằm phục vụ đắc lực cho sự
nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Như chúng ta đã biết,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một nhiệm vụ trung tâm và chiến lược
của cách mạng Việt Nam trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ đó chỉ được thực hiện thắng lợi khi đất nước có đầy đủ những
con người được trang bị những lý tưởng, hoài bão và ước mơ trong sáng,
có óc thẩm mỹ, đạo đức cao đẹp và đặc biệt là phải có thể lực, tri thức dồi
dào, hiện đại. Hiệu quả của sự trang bị đó tốt hay xấu, diễn ra nhanh hay
chậm với chất lượng cao hay thấp phụ thuộc trước hết vào sự nghiệp giáo
dục đào tạo, vào công cuộc cải cách giáo dục đang diễn ra hiện nay mà
trong đó việc đổi mới phương pháp dạy học phải được xem xét và tính
đến như một nguyên nhân, một động lực quan trọng. Bởi vì, nếu có được
phương pháp dạy học tốt sẽ giúp cho học sinh, sinh viên tiếp nhận được
các tri thức khoa học có hiệu quả, trên cơ sở đó mới hình thành được
niềm tin và lý tưởng cao đẹp, mới có lối sống và đạo đức trong sáng.
Ngược lại, nếu không có phương pháp dạy học thích hợp sẽ làm cho học
sinh và sinh viên không thể tiếp thu được kiến thức khoa học, nghèo nàn
về trí tuệ do đó dẫn đến những ước mơ và hoài bão viển vông, đạo đức bị
xói mòn, nhân cách con người bị sa sút. Vì vậy, đổi mới phương pháp
dạy học phải được đặt ra như một nhiệm vụ thường xuyên trong qúa trình
dạy học của nhà trường.
6
Tính tất yếu và bức thiết của sự đổi mới phương pháp dạy học còn
bắt nguồn từ chính thực trạng phương pháp dạy học ở nước ta hiện nay.
Phương pháp dạy học hiện nay ở nhiều trường còn rất lạc hậu và cũ kỹ,
không tiến kịp với yêu cầu và xu hướng phát triển của dạy học hiện đại.
Sở dĩ như vậy, bởi vì trong một thời gian khá dài, ngành giáo dục cứ phát
động đổi mới phương pháp nhưng nhiều giáo viên vẫn còn sức ỳ rất lớn.
Một số trường tuy đã có đổi mới phương pháp nhưng việc ứng dụng công
nghệ thông tin còn rất chậm hoặc việc ứng dụng đó chưa thật hiệu quả.
Khi bàn đến vấn đề đổi mới phương pháp dạy học theo hướng đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin thì nhiều người cho rằng đó là việc làm tốn
kém, mất thời gian và không đem lại hiệu quả cao. Với quan niệm đó,
mặc cho ngành giáo dục phát động, mặc cho nhà trường động viên, nhiều
thầy cô vẫn cho rằng không cần đến công nghệ thông tin, không cần giáo
án điện tử, hoặc chỉ cần đưa giáo án mình đã soạn trên giấy vào các slide
để có bài giảng điện tử trình chiếu trên lớp thì họ vẫn có thể hoàn thành
xuất xắc giờ dạy của mình. Cách thức dạy học như vậy là một trong
những nguyên nhân quan trọng tạo ra lực cản mạnh mẽ việc nâng cao
chất lượng, hiệu quả của quá trình tiếp nhận và vận dụng những tri thức
khoa học của học sinh, sinh viên.
Mặt khác, trong điều kiện hiện nay, khi mà tốc độ phát triển của
khoa học diễn ra như vũ bão, nhiều lĩnh vực khoa học mới đã nảy sinh và
phát triển mạnh mẽ, khi mà các ngành công nghệ mới xuất hiện ngày
càng nhiều thì đòi hỏi con người phải nhận thức và vận dụng vào trong
cuộc sống, mới đem lại hiệu quả cao trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hoá xã hội và giáo dục. Tuy nhiên, muốn tiếp nhận nó và vận dụng
được nó thì các phương pháp dạy học cũ đã tỏ ra không đáp ứng được mà
cần phải có cách tiếp cận mới, phải sử dụng các phương pháp mới, các
phương tiện hiện đại trong quá trình dạy học mới có thể mang lại hiệu
quả cao.
7
1.1.2. Vai trò của công nghệ thông tin trong việc đổi mới phương
pháp dạy học môn tư tưởng Hồ Chí Minh.
Sử dụng công nghệ thông tin là hình thức dạy học trực quan hiện
đại và ngày càng trở thành nhu cầu bức thiết của việc đổi mới phương
pháp dạy học. Sở dĩ như vậy bởi vì:
Công nghệ thông tin có khả năng tích cực hóa quá trình hoạt
động trí tuệ, nâng cao hiệu quả hoạt động dạy học. Cả về mặt lí luận
cũng như thực tiễn, đã chứng minh rằng công nghệ thông tin nếu được
sử dụng một cách khoa học, nghệ thuật thì không những chúng rất phù
hợp mà còn tạo nhiều khả năng cho giáo viên thực hiện tốt các nguyên
tắc dạy học như đảm bảo tính vừa sức, tính hệ thống, liên hệ lý thuyết
với thực hành, phát huy tính tích cực và tự giác của học sinh đặc biệt là
nguyên tắc trực quan. Công nghệ thông tin có khả năng làm tăng quá
trình chuyển hóa cảm thụ cảm tính sang tư duy trừu tượng nhờ yếu tố
trực quan sinh động. Đồng thời, nhờ khả năng trực quan sinh động sẽ
kích thích tính hứng thú, tích cực hóa hoạt động trí tuệ, nâng cao hiệu
quả của quá trình dạy học.
Tăng cường công nghệ thông tin là cơ sở giúp cho việc đồng bộ
hóa nhà trường với nền sản xuất xã hội. Khi có trong tay phương tiện
kỹ thuật dạy học hiện đại, giáo viên và sinh viên được tiếp cận các vấn
đề dạy học mới về kỹ thuật, về công nghệ của xã hội thông qua không
chỉ bản thân các thiết bị kỹ thuật mà quan trọng hơn là thông qua
những thông tin mà thiết bị mang lại. Những thông tin ấy không chỉ
giúp cho người học hiểu một cách cơ bản các nguyên lý chung của quá
trình sản xuất, hiểu và làm quen được với công cụ lao động mà còn
hiểu rõ thực tiễn của nền sản xuất xã hội và những yêu cầu cấp bách
của chúng. Trên cơ sở ấy, xác lập hướng đi đúng đắn trong quá trình
hướng nghiệp cho người học.
8
Một trong những mục đích cơ bản của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ là ngoài tác dụng tăng năng suất lao động thì vấn đề quan
trọng nữa là làm rút ngắn thời gian và làm giảm nhẹ cường độ lao
động. Công nghệ thông tin là sản phẩm của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ, chúng không những góp phần nâng cao hiệu quả của quá
trình sư phạm mà trước mắt chúng thay thế một cách sinh động với
hiệu quả cao hơn một số quá trình làm việc mệt nhọc và thiếu hứng thú
của người dạy.
Đó là những cơ sở khoa học của việc phát triển, ứng dụng công
nghệ thông tin vào trong đời sống xã hội. Đối với quá trình dạy học
việc ứng dụng các phương tiện tin học hỗ trợ không chỉ được xem như
là phương tiện truyền đạt giống như rất nhiều phần mềm trợ giúp giảng
dạy khác (dùng máy vi tính (computer assited instrution), bài học
(tudorials), củng cố và luyện tập (drill and practice)) đang lưu hành
hiện nay. Mà hướng phát triển của công nghệ thông tin phải nhằm thúc
đẩy, điều phối tư duy và xây dựng kiến thức thông qua các nội dung
dưới đây:
Thứ nhất, phải coi công nghệ thông tin là công cụ hỗ trợ xây
dựng kiến thức. Nội dung này được thể hiện ở chỗ: nó giúp hiển thị các
ý tưởng, sự hiểu biết của người học. Với sự trợ giúp của công nghệ
thông tin, các ý tưởng được biểu hiện ra bên ngoài bằng hành động cụ
thể. Bên cạnh đó, nó còn giúp người học tạo ra nhiều kiến thức có hệ
thống và đa môi trường (trước máy tính cá nhân, lớp học, hội trường,
hội nghị trực tuyến ). Tính hệ thống là nội dung khá nổi bật trong dạy
học khi có sử dụng sự giúp đỡ của công nghệ thông tin.
Thứ hai, công nghệ thông tin là phương tiện để khám phá kiến
thức nhằm hỗ trợ học tập qua xây dựng kiến thức. Ngày nay, công nghệ
thông tin phát triển mạnh mẽ, nó đã trở thành phương tiện thực sự hữu
hiệu để tìm hiểu các vấn đề của thế giới. Công nghệ thông tin giúp truy
9
cập được những thông tin cần thiết. Những thông tin đó không chỉ ở
một lĩnh vực mà ở rất nhiều lĩnh vực, không chỉ của một nước mà của
nhiều nước trên thế giới. Bên cạnh đó, nó còn giúp so sánh những điểm
dị biệt của các sự vật hiện tượng một cách nhanh chóng dễ dàng và
hiệu quả.
Thứ ba, công nghệ thông tin là môi trường để hỗ trợ sự thực
hành. Nó giúp biểu diễn và mô phỏng các vấn đề, tình huống và hoàn
cảnh của thế giới hiện thực; giúp xác định không gian an toàn, kiểm tra
các vấn đề của tư duy người học.
Thứ tư, công nghệ thông tin là môi trường học tập thông qua trao
đổi trong cộng đồng. Nó được biểu hiện ở chỗ, giúp cho mọi người hỗ
trợ, cộng tác với nhau; tạo sự tranh luận, bàn bạc để đạt đến sự nhất trí
cao giữa các thành viên trong cộng đồng.
Thứ năm, công nghệ thông tin là người đồng hành tri thức, hỗ trợ
thông qua phản ánh. Nó hỗ trợ người học trình bày, biểu thị những điều
mình biết; phản ánh những điều đã học và chứng minh được rằng bằng
cách nào mà học được như thế; giúp kiến tạo cách biểu diễn ý hiểu của
mình theo cách riêng.
Trên đây là những nội dung cơ bản và tác dụng của công nghệ
thông tin trong quá trình dạy học. Đó là những nội dung tương đối lớn.
Song, trong giới hạn của đề tài này chúng tôi không đi khai thác tất cả
những vấn đề đó mà chỉ bước đầu đề cập tới hướng nâng cao ứng dụng
phần mềm Microsoft Powerpoint vào xây dựng bài giảng điện tử môn
tư tưởng Hồ Chí Minh. Vấn đề này sẽ được đề tài đề cập đến một cách
cụ thể hơn ở phần sau.
1.2. Nâng cao ứng dụng phần mềm Microsoft Powerpoint vào
xây dựng bài giảng điện tử môn tư tưởng Hồ Chí Minh.
Với sự phát triển của phương tiện nghe nhìn, người ta đã đưa
phim, đèn chiếu, băng video, máy chiếu giấy trong vào bất kỳ hình
10
thức thảo luận nào. Tuy có những ưu điểm vượt trội so với các công cụ
truyền thống nhưng vẫn chưa tạo được hiệu quả có tính chất bước
ngoặt vì vẫn là phương tiện thụ động và không tương tác được.
Khả năng diễn tả minh họa trên máy tính ngày càng tuyệt vời
hơn dẫn đến yêu cầu phải có phương tiện giúp trình diễn những nội
dung ấy, không chỉ với từng người trước màn hình máy tính cá nhân
mà có thể trình diễn trước cử tọa đông người trong môi trường lớp học,
giảng đường, hội trường Điều này được thực hiện với phần mềm
trình diễn Havard Graphics, Lotus Freelance, Microsoft Powerpoint
Hiện nay, phần mềm được sử dụng phổ biến là Microsoft Powerpoint
với phần cứng phải có máy chiếu dữ liệu: data projection hay LCD
projecter… có thể chiếu lên màn phản quang hoặc tường trắng bất kỳ.
Microsoft Powerpoint là phần mền văn phòng được tích hợp
trong office có thể khai thác các tư liệu sẵn có ngay trong PC như trong
Word, Excel Microsoft Powerpoint có thể liên kết tốt với hầu hết các
chương trình tự động (.exe) cũng như có thể lưu lại dưới nhiều dạng
trong đó có dạng hypertext hay siêu văn bản (.htmt) để đưa lên mạng
giúp người dùng có thể trực tuyến hay tải về để sử dụng.
Trình diễn là phương tiện để truyền đạt thông tin. Một trình diễn
tốt là trình diễn có thể khích lệ, gây cảm hứng, thuyết phục và kích
thích được trí tuệ của khán thính giả. Microsoft Powerpoint cung cấp
cho chúng ta những công cụ để tạo trình diễn cũng như để nâng cao và
tùy biến chúng, nhằm truyền đạt những thông tin của mình. Tính linh
hoạt là một trong những điểm mạnh của Microsoft Powerpoint. Tất
nhiên, khi nghiên cứu kỹ và là một người có khả năng thiết kế thì các
tính năng tiên tiến và những tùy chọn phong phú của Microsoft
Powerpoint sẽ cho phép mỗi cá nhân phát huy tối đa khả năng sáng tạo
của mình. Microsoft Powerpoint có thể giúp tạo một trình diễn bằng sử
dụng một Wizard, một kiểu mẫu thiết kế, hoặc từ một phác thảo
11
(scratch); thêm văn bản và các bảng (table) vào nội dung trình diễn; sử
dụng các chế độ hiển thị để lập dàn bài, tổ chức thêm nội dung, hiệu
đính và xem trước trình diễn; định dạng một trình diễn bằng cách tùy
biến các phối màu (color scheme), màu nền (background) và các kiểu
mẫu thiết kế; tạo một trình diễn trên màn hình bằng cách sử dụng một
máy tính, các phim đèn chiếu và máy chiếu (overhead và profector)
hoặc thông qua các trang web; tạo và in các ghi chú (note), cũng như
các tài liệu phân phát cho khán giả (handout); thêm các biểu đồ, sơ đồ
(sơ đồ tổ chức, sơ đồ tự tạo), hình ảnh, clipart cũng như những hình
dạng và đối tượng khác vào nội dung; tăng hiệu quả truyền đạt bằng
cách sử dụng kết hợp các phương tiện truyền thông khác như âm thanh,
video, hoạt hình
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ thì các tính
năng của Microsoft Powerpoint ngày càng hoàn thiện hơn. Nó thực sự
hữu ích trong việc mở rộng giao diện của người sử dụng cũng như
thuận lợi cho truyền thông và hội họp trực tuyến. Với những tính năng
như vậy, ngày nay Microsoft Powerpoint được sử dụng ngày càng rộng
rãi.
Môn học tư tưởng Hồ Chí Minh thường được coi là môn học có
tính trừu tượng, khái quát cao, do đó nếu phương pháp giảng dạy
không phù hợp sẽ không đem lại hiệu quả trong dạy và học. Nhưng khi
có sự trợ giúp của máy tính mà cụ thể là phần mềm Microsoft
Powerpoint, cùng với những ý tưởng thiết kế bài giảng hợp lý, phương
pháp giảng dạy khoa học của giáo viên sẽ khắc phục được thành kiến
đó. Với sự trợ giúp của Microsoft powerpoint, chữ nhiều hay ít, phim
ảnh xuất hiện vào lúc nào, nhanh hay chóng trên màn hình tùy thuộc
vào mục đích sư phạm của người dạy. Sự xuất hiện đúng lúc của phim
ảnh sẽ tăng thêm tính sinh động và khả năng hấp dẫn các thông tin,
kích thích tư duy tích cực, tự giác, sáng tạo của người học.
12
Ứng dụng phần mềm Microsoft Powerpoint để xây dựng được
một bài giảng điện tử khoa học, tập trung vào những nội dung quan
trọng, lược bỏ đi những yếu tố phụ, không cần thiết sẽ giúp cho sinh
viên không bị phân tán tư tưởng, hướng tư duy vào những nội dung bản
chất. Hơn nữa, việc giảng dạy bằng các slide tích hợp sẽ giúp cho sinh
viên vận dụng tối đa khả năng hoạt động của cả thị giác, thính giác
trong quá trình vận động của trí tuệ. Điều đó có nghĩa là, sinh viên sẽ
kết hợp giữa quan sát các slide với việc nghe giáo viên phân tích, giảng
giải; tự liên hệ với thực tiễn gián tiếp qua phim ảnh; có cơ hội được
tiếp xúc với nguồn tư liệu vô cùng phong phú qua bài giảng Nhờ đó
sinh viên sẽ nhận thức các vấn đề và có thể tự mình rút ra những kết
luận cần thiết. Việc sử dụng Microsoft Powerpoint trong giảng dạy đã
thực hiện con đường nhận thức từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó
và "từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng
đến thực tiễn".
Khi xây dựng bài giúp giảng điện tử môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
với phần mềm Microsoft Powerpoint sẽ giúp cho giáo viên tiết kiệm
được thời gian lên lớp, nâng cao chất lượng dạy và học. Điều này được
thể hiện rõ nhất khi đem so sánh việc sử dụng Microsoft Powerpoint
với phương tiện dạy học trực quan khác, chẳng hạn như sử dụng giấy
bản trong. Có thể vẽ, viết sẵn lên từng bản trong bộ phận của mỗi sơ
đồ, mỗi nội dung trên từng bản trong theo thứ tự đã chuẩn bị sẵn từ
trước. Khi sử dụng, giáo viên đặt từng bản trong có nội dung phù hợp
lên bệ mặt máy chiếu. Lúc đó trên màn hình chỉ có hình ảnh một bộ
phận của sơ đồ mà giáo viên vừa đặt. Giáo viên tiếp tục đặt bản trong
thứ hai chồng lên bản thứ nhất lúc đó sẽ có bộ phận thứ hai của sơ đồ.
Tiếp tục đặt các bản trong khác (đã chuẩn bị sẵn) chồng lên các bản
trong trước, cuối cùng sẽ được một sơ đồ hoàn chỉnh trên màn hình.
Như vậy là, dù đã được chuẩn bị sẵn từ trước nhưng nó cũng làm mất
13
rất nhiều thời gian. Trong khi đó nếu có sự trợ giúp của máy tính với
phần mềm Microsoft Powerpoint, cũng có sự chuẩn bị từ trước, chỉ cần
một thao tác nhỏ như nhấn chuột hoặc cài đặt thời gian chạy tự động
giáo viên sẽ đạt được kết quả như mong muốn.
Trong thiết kế bài giảng điện tử các môn khoa học nói chung và
các môn tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng, yêu cầu đặt ra không chỉ
đảm bảo tính khoa học mà còn phải đảm bảo tính thẩm mĩ. Microsoft
Powerpoint không chỉ đem lại tính chính xác mà còn đem lại thẩm mĩ
cao. Nhiều giáo viên có nhược điểm là trình bày xấu, chữ viết không
đẹp, không thẳng hàng Điều đó sẽ không đem lại hiệu quả sư phạm
như mong muốn. Nhưng khi sử dụng trên máy tính, thiết kế bài giảng
điện tử với Microsoft Powerpoint, những nhược điểm đó sẽ được khắc
phục. Các câu chữ đều chính xác, đẹp mắt, màu sắc sinh động kết hợp
với màu nền (background) phù hợp sẽ có tác dụng làm nổi bật nội dung
mà giáo viên cần diễn đạt. Hơn nữa, khi trình bày bài giảng trên bảng
đen, giáo viên phải mất rất nhiều thời gian viết bảng, nhiều khi sinh
viên ngồi cuối không nhìn thấy rõ. Nhưng với sự giúp đỡ của máy vi
tính kết hợp giữa Microsoft Powerpoint với profector sẽ có hiệu quả
hơn, thẩm mĩ cao hơn nhiều. Cỡ chữ, hình ảnh được phóng to hơn trên
màn hình giúp cho sinh viên kể cả những người ngồi cuối cùng cũng
thấy rõ từng chi tiết.
Với những tính năn trội của mình, Ms Powerpoint đã trở thành
phần mềm chủ yếu phục vụ cho giáo viên thiết kế bài giảng điện tử cho
mình. Quá trình vận dụng đó là một bước tiến lớn, tạo ra tính đột phá
trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học ở nước ta. Sự xuất hiện
các bài giảng điện tử thiết kế trên nền MS Powerpoint trên thực tế đã
nhận được sự ủng hộ đầy hứng khởi của cả thầy và trò cũng như toàn
xã hội. Giáo án điện tử đã giải phóng được sức lao động của thầy, giúp
thầy không phải viết nhiều, vẽ nhiều, giảng giải nhiều như trước đồng
14
thời giúp sinh viên không những nghe thầy giảng và còn được quan sát
trực quan qua các slide mà thầy trình chiếu. Sau một thời gian khảo
nghiệm, việc triển khai giáo án điện tử môn học tư tưởng Hồ Chí Minh
ở trường ĐHNN – ĐHQGHN trên nền phần mềm Ms Powerpoint còn
một số hạn chế sau đây:
Thứ nhất, cơ sở phục vụ cho việc triển khai giáo án điện tử chưa
đầy đủ, máy chiếu, màn chiếu, các thiết bị âm thanh… chưa đáp ứng
yêu cầu. Nhiều phòng học chưa có máy chiếu hoặc chưa có máy tính,
màn chiếu ở nhiều phòng bị trục trặc
Thứ hai, cán bộ kĩ thuật vừa thiếu lại vừa yếu, chưa đảm bảo cho
việc thực hiện của giáo viên thông suốt
Thứ ba, vấn đề kĩ thuật sử dụng máy tính, máy chiếu còn là một
khó khăn chưa thể vượt qua ở một số giáo viên.
Thứ tư, từ phía chủ quan của giáo viên, nếu không có ý thức sử
dụng PowerPoint tốt thì các ưu thế của phần mềm này có thể sẽ trở thành
nhược điểm lớn và cơ bản, như:
- Thiết kế các slide chưa hợp lí, thiếu khoa học, sử dụng quá nhiều,
hoặc quá ít chữ trên một slide, kích cỡ chữ không phù hợp, kiểu chữ
không được qui định thống nhất làm cho bài giảng lộn xộn, khó theo dõi
- Nội dung bài giảng và nội dung trình chiếu thiếu tính nhất quán
+ Lạm dụng quá nhiều các hiệu ứng làm học sinh mất tập trung vào
bài giảng.
+ Lạm dụng màu sắc, âm thanh hoặc sử dụng chúng không hợp lí,
không nhất quán…
+ Bài giảng điện tử nhiều khi đóng vai trò thay cho giáo án giấy,
trình diễn các slide là để thay cho viết bảng. Vì vậy, nói đổi mới nhưng
thực chất thì không có.
15
+ Tính tích hợp của các slide chưa phong phú, chưa khoa học. Các
trang giáo án điện tử vẫn rất đơn giản, chưa có liên kết phong phú, thiếu
phim ảnh minh hoạ, thiếu thực tế…
Những hạn chế về khách quan cũng như chủ quan chính là tác nhân
làm cho quá trình vận dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy chưa đạt
chất lượng cao. Học sinh thích học vì mới lạ nhưng tâm lí bị phân tán,
không theo dõi được bài học, không ghi được nội dung cơ bản của bài,
mất đi tính chủ động, sáng tạo trong học tập.
Trên cơ sở tham khảo một số tài liệu và sự trải nghiệm thực tế, để
nâng cao và sử dụng có hiệu quả phần mềm PowerPoint trong thiết kế
giáo án và giảng dạy môn Tư tưởng Hồ Chí Minh, cần thống nhất một số
qui định sau sau đây:
Quy định về sử dụng màu sắc trong các trang trình chiếu:
Phối màu linh hoạt, phong phú và dễ làm là ưu việt dễ thấy ở máy
tính nói chung, ở các trang trình chiếu PowerPoint, nói riêng. Song sử
dụng màu sắc thế nào cho hợp lí thì không phải ai cũng làm được.
* Màu sắc phản ánh nội dung:
Để có những trang trình chiếu thu hút và ấn tượng, ngoài nội dung
khoa học ra, chúng ta phải biết sử dụng màu sắc hợp lí: chọn màu, phối
màu giữa nền và chữ, phối màu giữa các dòng văn bản.
Theo các công trình nghiên cứu, mỗi màu nền có mang ý nghĩa riêng
của nội dung và đối tượng nghe. Chẳng hạn, những màu trung tính như
màu xám và những màu tối hơn sẽ tạo một không khí nghề nghiệp (tất
nhiên không ai chọn nền đen); màu cam và những màu lân cận trong dãy
quang phổ như vàng, hồng nhạt, nâu nhạt sẽ tạo không khí thân thiện
(màu đỏ không nên chọn vì quá chói mắt); để tạo một bầu không khí vui
tươi, chào đón ta có thể dùng màu vàng và màu hổ phách; màu xanh nước
biển và xanh lá cây thì nhã nhặn, màu trắng rất nghiêm túc song nếu bản
báo cáo có chữ viết không được chuẩn bị kĩ trên nền trắng hoặc dùng nền
16
trắng trong suốt bài giảng sẽ tạo cho sinh viên một cảm giác một bài
giảng sơ sài, thiếu chuẩn bị.
Những ý nghĩa của màu nền như trên có thể dùng để tham khảo.
Các hình đã cho sẵn trong các nền ở Design cũng ảnh hưởng nhất định
đối với nội dung trang trình chiếu. Hơn nữa, việc chọn nền còn phụ thuộc
nhiều vào sở thích của người thiết kế. Cần kết hợp tất cả các yếu tố này
để có một bài soạn tốt về hình thức trang trình chiếu.
* Màu sắc và sự tiếp nhận của mắt:
Màu chữ và hình sẽ là công cụ đắc lực phục vụ cho bài giảng nếu ta
sử dụng nó hợp lí. Ngược lại, bài giảng sẽ dễ dàng trở thành một buổi
biểu diễn màu sắc loè loẹt nhưng nhạt nhẽo, thậm chí còn gây cảm giác
khó chịu cho người đọc. Để đảm bảo việc sử dụng màu sắc hiệu quả, có
một số nguyên tắc sau:
- Sử dụng nhiều nhất là 5 màu trong mỗi trang bài giảng
Nếu chữ viết trong một trang chỉ có một màu duy nhất, người đọc sẽ
rất nhàm chán. (Ngoại trừ trường hợp, trên trang đó chỉ chứa một loại nội
dung duy nhất, như, nội dung của một mục, một đoạn trích, một câu hỏi
thảo luận hay nhiệm vụ khám phá). Ngược lại, sử dụng quá nhiều màu
sắc trong một trang hoặc trong một bài giảng sẽ làm cho sinh viên hoặc
cảm giác đẹp sặc sỡ, thích thú với màu mà không tập trung vào nội dung
bài học, hoặc có cảm giác khó chịu, dẫn đến phản tác dụng. Nên dùng từ
2 đến tối đa 5 màu, phân phối hợp lí thì trang trình chiếu sẽ trở nên hấp
dẫn hơn. Ví dụ: Dùng một màu chính xuyên suốt cho nội dung khoa học
của bài học, một vài màu nổi hơn cho các đề mục và một màu khác để
làm nổi bật các ý quan trọng. Chú ý, các đề mục có vai trò ngang nhau thì
phải có màu giống nhau (cỡ chữ, kiểu chữ cũng giống nhau). Thế nhưng
nên dùng màu nào để làm nổi bật các ý quan trọng? Thông thường, người
ta dùng màu đỏ (nhưng không được để trên nền xanh và tím).
- Màu đỏ được mắt tiếp nhận tốt nhất trong số các màu cơ bản
17
- Tránh đặt màu nền và màu chữ có bước sóng quá khác nhau (ví
dụ: đỏ - xanh dương; đỏ - tím) hoặc có bước sóng gần nhau (khó phân
biệt, ví dụ: đỏ - cam ):
Thủy tinh thể của mắt không thể điều chỉnh để mắt tập trung vào
cùng một lúc hai màu có bước sóng khác xa nhau (đỏ và xanh chẳng
hạn). Mắt sẽ có cảm giác không tốt khi nhìn vào trang trình chiếu có hai
màu này đặt cạnh nhau (các màu nóng và các màu lạnh sẽ “đối chọi”
nhau), nhất là màu nền và màu chữ.
Quy định sử dụng chữ viết trong trang trình chiếu:
* Kiểu chữ: Các Font chữ thường dùng là Times New Roman và
Arial. Việc dùng font nào là tùy sở thích của người thiết kế. Tuy nhiên,
trong văn bản tiếng Việt có những bất cập khi dùng các font này:
- Arial: Font chữ này biểu hiện sự nghiêm túc, thường được mặc
định trong phần mềm PowerPoint nên khi dùng nó không phải thay đổi
gì. Nhưng nếu viết nghiêng thì Font này không được đẹp mắt
- Times New Roman: Muốn dùng font này, sau khi viết cần chuyển
từ Arial sang Time New Roman, hơi mất thời gian. Song, font chữ này
đẹp, kể cả khi để nghiêng.
Chú ý: Nên dùng WordArt để viết đề bài hoặc tiêu đề lớn.
* Cỡ chữ: Mục đích của việc chiếu các slide lên màn ảnh là để
người dự đọc nội dung chính được viết trên đó, cho nên cần phải đảm bảo
để người ngồi ở hàng ghế cuối cùng cũng đọc được hết chữ. Theo tính
toán, chiều cao (kích thước) chữ trên màn hình có tỉ lệ không nhỏ hơn
1/150 (so với khoảng cách đến người xa nhất). Ví dụ, nếu người xem
ngồi cách màn hình 5 m, chữ trên màn hình phải cao ít nhất 3,3 cm. Tất
nhiên, nếu đặt máy chiếu ra xa màn hình thì chữ sẽ được phóng lớn lên,
song, khi đó độ nét của hình và chữ cũng giảm theo. Đối với máy thông
thường, trong khoảng cách giữa máy chiếu và màn hình từ 2,5m đến 5m
(không nên xa hơn). Đó là nói về mặt lí thuyết. Trong thực tế, có nhiều lí
18
do để ta có thể quyết định cỡ chữ, như:lớp đông sinh viên (quá 40 người),
độ phân giải của máy, nội dung nhất thiết chỉ thể hiện trong một trang
nhưng lại quá nhiều chữ (hoặc ngược lại). Cho nên người thiết kế phải tự
quyết định cỡ chữ cho phù hợp để bài giảng đạt yêu cầu cả cho người
thiết kế lẫn người học. Nếu không phải là đề mục của bài thì nên dùng cỡ
chữ 24 (trường hợp bất khả kháng, phải viết nhiều chữ trên một trang thì
có thể nhỏ hơn) và lớn nhất là 28, 32. Chữ nhỏ hơn 20, đặt máy gần sẽ
nhỏ, đặt máy xa thì mờ, cả hai trường hợp đều khó đọc. Chữ lớn, tất
nhiên dễ đọc song cũng không nên dùng cỡ quá lớn. Có hai lí do: Thứ
nhất, thị trường của mắt bị phân tán, cản trở nhận thức của người đọc;
Thứ hai, cũng cần sự tập trung nội dung ít nhất là của một đề mục vào
một trang PowerPoint để sinh viên theo dõi bài được tốt.
* Số chữ trên một trang trình chiếu: Vấn đề này cũng cần lưu ý.
Nói là dùng cỡ chữ tối thiểu là 20 nhưng không có nghĩa là cho phép viết
đầy kín trang PowerPoint. Thông thường, chữ quá nhiều thì người ta sẽ ít
tập trung đọc hoặc đọc không hết, thậm chí có thể đọc nhầm. Cho nên về
nguyên tắc, không nên viết quá nhiều hàng trên trang PowerPoint, mỗi
hàng không nên quá nhiều chữ (trừ trường hợp bất khả kháng). Để khắc
phục điều đó, cũng như viết trên bảng đen, và để các trang trình chiêú
phải chứa đủ nội dung cơ bản của bài học, không nhất thiết phải viết
nhiều, viết nguyên câu, đầy đủ như trong SGK, có thể làm như sau:
- Thay vì viết nguyên câu, ta chọn từ khóa hoặc cụm từ khóa cho
chính xác để đưa lên màn hình thay cho câu ấy.
- Nếu không có gì đặc biệt, trên mỗi trang nên có khoảng từ 10 đến
15 dòng, mỗi dòng không quá 10 chữ để trang trình chiếu được tập trung
và sáng sủa.
Chú ý: Cùng một cỡ chữ nhưng chữ Arial lớn hơn Time New
Roman 1 bậc.
19
* Việc sử dụng WordArt: Phần mềm này cho phép dùng chữ để
trang trí, làm đẹp trang PowerPoint. Có một số tác dụng của WordArt như
sau:
- Viết đầu đề bài học - thường dùng trang riêng biệt. Chú ý không
chọn những mẫu quá cầu kì hoặc khó đọc.
- Viết trong khuôn hình vẽ (dạng cong)
- Trang trí nền cho trang trình chiếu: Chọn mẫu chữ (WordArt) thích
hợp có ý nghĩa nào đó mà mình muốn, tô màu ít tương phản với màn hình
để không hưởng đến nội dung viết trên trang ấy, phóng to trên cả màn
hình làm nền (Background). Có thể trang trí chữ theo chiều dọc khi cần
thiết.
Chú ý: Giống như dùng màu hoặc các effect, khi dùng WordArt,
không nên lạm dụng và cũng không cầu kì làm phân tán sự chú ý của sinh
viên. Ngoài ra, cần chú ý, sau khi viết chữ vào trang PowerPoint, cần
chỉnh màu sao cho phù hợp và rõ (chọn đối tượng, click chuột phải, chọn
Format Ojbect chọn Colors and Lines).
Quy định sử dụng các hiệu ứng (Effect) trên trang trình chiếu:
Đặc sắc của phần mềm PowerPoint là sự phong phú của các hiệu ứng
(các kiểu cho xuất hiện trang trình chiếu – Animation Schemes, các kiểu
xuất hiện chữ, hình - Custom Animation …). Song sử dụng chúng cũng
tùy trường hợp, nhất là các kiểu xuất hiện chữ. Có thể như sau:
Chỉ nên sử dụng các effect vừa phải, đảm bảo ở mức đủ sinh động:
- Nên dùng một số kiểu cho màn hình xuất hiện (Animation
Schemes): Grow and exit, Boumerang and exit, Title arc, Compress, Big
title, Unfold, Rise up, Bounce, Ellipse motion, Float. Mỗi bài giảng nên
dùng một kiểu thống nhất.
Nên đề nhan đề hoặc một vấn đề nào đó trên cùng của trang cùng
xuất hiện với màn hình (không cho hiệu ứng hàng chữ đó). Tránh tình
20
trạng khi chuyển trang thì xuất hiện màn hình trắng một cách vô nghĩa và
mất thời gian.
- Các kiểu xuất hiện chữ (Custom Animation) thì nên sử dụng hạn
chế ở một vài effect như: Box, Diamond, Rise up, Ease In hoặc những
chức năng tương tự. Chú ý, cho thực hiện nhanh để không mất thời gian
và nhàm chán (chọn Fast hoặc Very Fast trong ngăn Speed).
Khai thác kỹ các tính năng của Power Point, lại thấy nổi lên xu
hướng lạm dụng màu sắc (chữ, mảng trang trí, các nền templates) và các
hiệu ứng hoạt hình. Trang trí nhiều khi không có chủ đích, không liên
quan gì tới thông tin đang cung cấp. Có slide, khi trình chiếu thấy hoa nở,
bướm đập cánh bay rộn rã quanh tiêu đề với nội dung khá nghiêm túc.
Hoặc không khó bắt gặp các slides có gắn nhiều hình clipart, màu sắc
biến ảo, chữ chạy ra vào, quay vòng… Đặt trong nội dung bài dạy, các
yếu tố trang trí này nhiều khi thu hút chú ý, khiến người học bị nhiễu,
hoặc phân tán khả năng nhận biết thông tin chính.
Quy định sử dụng các trang PowerPoint kết hợp các hoạt động
dạy và minh hoạ (phim, ảnh…):
Đây cũng là một ưu thế tuyệt đối của PowerPoint mà chiếc bảng
thông thường không thể làm được. Nếu có chăng thì người giáo viên phải
chuẩn bị trước các bản vẽ trên giấy khổ lớn hoặc băng, đĩa hình (hoặc
phim) để hỗ trợ thêm cho nội dung giảng.
Trong bài giảng tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là bài giảng có sử dụng
các phương pháp dạy học tích cực, giáo viên cần mở rộng nội dung ra
thực tế (bằng hình ảnh, phim), cần cập nhật thông tin hoặc chèn các câu
hỏi, hướng dẫn thảo luận…trong khi vẫn phải để nội dung bài giảng trên
trang PowerPoint phát triển liên tục, sinh viên dễ theo dõi và ghi được
bài. Có nhiều cách để ngườì thiết kế thực hiện điều đó. Dưới đây là một
số cách.
* Sử dụng “liên kết” (Hyperlink):
21
- Ưu điểm:
+ Sử dụng tư liệu theo kiểu liên kết rất tiện lợi. Các thao tác với
máy đơn giản, tư liệu xuất hiện nhanh, rõ.
+ Sử dụng thuận lợi cho các tư liệu là hình động hoặc Film
+ Có thể liên kết nhiều tư liệu, nhưng khi giảng, nếu thiếu thời gian
thì ta có thể bỏ qua tư liệu đó cũng không sao, bởi vì nói chung các tư
liệu không nằm trong một logic nào của bài giảng.
- Hạn chế:
+ Khi trình chiếu tư liệu thì bài giảng bị gián đoạn
+ Khi thiết kế bài giảng, tất cả các trang chủ và trang tư liệu đều
phải được để trong một Folder thì mới sử dụng các trang minh hoạ được.
Nếu muốn chuyển sang máy khác cần phải copy toàn bộ Folder ấy để
chuyển đi.
+ Dấu hiệu liên kết sẽ làm thay đổi màu sắc kí tự đã thống nhất
trong các trang trình chiếu (và có gạch dưới), không được thẩm mĩ.
Chú ý:
Các tư liệu là hình động hoặc Film, cần được đóng gói với phần
mềm xử lí động (Windows Media Player, Winamp…) để phòng khi đem
bài giảng sang máy khác thiếu phần mềm xử lí ấy.
Để tiện cho việc kiểm tra các File tư liệu, nên đánh số trang trong
bài giảng sử dụng tư liệu ấy phía sau tên File.
* Chèn tư liệu bằng các hiệu ứng xuất hiện và xóa đi:
Một số tư liệu không chiếm đầy trang PowerPoint như: một hình
vẽ, một trích dẫn, một câu hỏi, một yêu cầu sinh viên làm việc (trao đổi
nhóm về nội dung nào đó ), ta có thể chèn trực tiếp mà không cần dùng
liên kết.
Cách làm: đưa hình hoặc khung chữ vào ngay chỗ cần chèn. Sử
dụng hiệu ứng “xuất hiện” khi cần dùng tới tư liệu đó trong bài giảng.
Khung chữ nên có một màu khác với màu nền để sinh viên chú ý tới nó.
22
Sau khi dùng xong, cho lệnh exit để rút các tư liệu ra khỏi trang
PowerPoint. Để tư liệu không che phần nội dung đã giảng, nên chọn chỗ
cho chúng xuất hiện. nội dung giảng tiếp theo sẽ được viết ngay vào đó.
- Ưu điểm: Dễ thực hiện và khi trình chiếu thì nó làm cho màn hình
sinh động, tập trung được sự chú ý của sinh viên.
- Nhược điểm lớn nhất của cách làm này là: Nếu chèn vào một
trang PowerPoint nhiều tư liệu hoặc có tư liệu văn bản dài thì công việc
thiết kế sẽ rất phức tạp và dễ nhầm lẫn khi cho cái nào xuất hiện trước,
cái nào sau… vì tư liệu và nội dung ghi sẽ chồng chất lên nhau.
* Sử dụng các trang có cửa sổ trong trong Slide Layouts để minh
họa:
Kiểu này cho phép chúng ta đưa tư liệu minh hoạ trực tiếp vào
trang trình chiếu (các cửa sổ) khi cần. Chèn vào lúc nào là tuỳ thuộc vào
người thiết kế.
- Ưu điểm:
+ Sinh viên có thể theo dõi nội dung bài liên tục vì tư liệu chỉ
chèn vào “cửa sổ”.
+ Khi chuyển máy, không phải đóng gói vì mọi thông tin đều nằm
trong File PowerPoint .
+ Có thể chồng chập nhiều hình trên một trang PowerPoint để khi
chiếu, các tư liệu được sử dụng liên tục (cho xuất hiện rồi exit, xuất hiện
minh họa khác…).
- Nhược điểm:
+ Người thiết kế phải tốn nhiều thao tác trên máy hơn nên rất dễ
nhầm lẫn hình và thứ tự xuất hiện.
+ Khi in trang trình chiếu phát cho sinh viên, thì tất cả các tư liệu
minh hoạ trong một trang đều được in ra. Nếu chèn nhiều tư liệu thì
chúng sẽ bị chồng lên nhau.
+ Các ô cửa sổ chiếm nhiều diện tích màn hình
23
+ Đối với hình động hoặc Film thì các thao tác còn phức tạp hơn.
Trong trường hợp này, nên dùng Hyper Link.
Thực chất, đối với những người có kĩ thuật máy tính cao, có thể
dùng nhiều thủ thuật trình chiếu phức tạp hơn nhưng trong đề tài này, tôi
chỉ xin nêu ra một vài cách làm cơ bản, chủ yếu là để phù hợp với trình
độ chung. Chắc chắn rằng, khi chúng ta đã thiết kế nhiều giáo án rồi thì
mỗi cá nhân sẽ có đòi hỏi tất yếu là làm sao cho giáo án mỗi ngày một
phong phú hơn, hay hơn. Sẽ có hai hướng để cải tiến giáo án cho hay
hơn. Hướng thứ nhất phải tích cực tìm tòi, tham khảo tài liệu để có nhiều
tư liệu đưa vào giáo án, hướng thứ hai là nghiên cứu thêm các kĩ thuật
trong máy tính để ứng dụng cho những trường hợp có ý tưởng về phương
pháp dạy học phức tạp hơn. Việc nghiên cứu các phần mềm mô phỏng
các thí nghiêm hoặc các hiện tượng trên máy tính cũng là vấn đề phải
làm và đó cũng là những “tư liệu” tự tạo làm cho giáo án của chúng ta
hấp dẫn hơn. Cần phải nhắc lại một yêu cầu quan trọng đó là sự hấp dẫn
của một giáo án dạy học bằng PowerPoint phải được bắt nguồn từ nội
dung bài giảng trình chiếu là chủ yếu, không phải là sự hấp dẫn của
những trang quảng cáo hoặc những trang tiêu đề như trên truyền hình.
Mặc dù có những tính ưu việt như trên nhưng phần mềm Microsoft
Powerpoint vẫn có những hạn chế nhất định. Chính vì vậy mà giáo viên
cần phải biết khai thác, sử dụng và lựa chọn để mục đích lúc ban đầu
của mình đặt ra được thực hiện với hiệu quả cao nhất. Bởi “máy tính
không kì diệu mà chính các giáo viên mới đem lại sự kì diệu” (Craig
Barett, intel CEO).
24
CHƯƠNG 2: THIẾT KẾ BÀI GIẢNG
ĐIỆN TỬ MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRÊN NỀN
POWERPOINT
Ở chương này, tác giả sẽ đi vận dụng những lí thuyết đã được trình
bày ở chương 1 để thiết kế Bài giảng điện tử môn Tư tưởng Hồ Chí
Minh, phục vụ việc giảng dạy môn Tư tưởng Hồ Chí Minh cho đối tượng
là sinh viên trường Đại học Ngoại Ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội. Đây
chính là mục đích lớn nhất của đề tài, đem lại tính hiện thực, hữu ích cho
đề tài này.
Trong quá trình thiết kế bài giảng dựa trên nền Ms Powerpoint, tôi
không chủ trương nhắc lại những lí thuyết đã nêu mà chủ yếu là vận dụng
những chỉ dẫn đó để thiết kế bài giảng điện tử môn tư tưởng Hồ Chí Minh
gồm 6 chương. Nội dung cụ thể bao gồm các bài giảng dưới đây:
25