Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tiểu luận cao học nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, quán triệt chỉ thị, nghị quyết của đảng trên địa bàn tỉnh thanh hoá hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.24 KB, 28 trang )

Nguyên lý tuyên truyền

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng cộng sản Việt nam là đảng cầm quyền. Đảng gắn bó mật thiết với
nhân dân, tơn trọng và phát huy quyền làm chủ, chịu sự giám sát của nhân dân, dựa
vào dân để xây dựng đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách
mạng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy.
Theo điều 41 của Điều lệ Đảng cộng sản Việt nam đã ghi rõ: “Đảng lãnh đạo nhà
nước và đồn thể chính trị - xã hội bằng cương lĩnh chính trị, chiến lược, chính
sách, chủ trương; bằng công tác tưởng, tổ chức cán bộ và kiểm tra, giám sát việc
thực hiện”. Như vậy việc đưa ra Nghị quyết, chỉ thị là sự cụ thể hoá cương lĩnh
chính trị, chủ trương, chiến lược của Đảng ở mỗi thời kỳ, mỗi lĩnh vực. Do đó
nhiệm vụ tuyên truyền, quán triệt Nghị quyết, chỉ thị của Đảng tới đảng viên, cán
bộ, nhân dân có vai trị quan trọng, vừa cơ bản, vừa thường xuyên và cần có sự địi
hỏi cao về chất lượng trong tồn bộ sứ mệnh lãnh đạo cách mạng của Đảng.
Nhận thức rõ, sâu sắc nhiệm vụ quan trọng này nên từ nhiều năm qua công
tác tuyên truyền, giáo dục, quán triệt Nghị quyết, chỉ thị của Đảng ở tỉnh Thanh
Hoá đã được các cấp uỷ Đảng triển khai học tập và thực hiện khá nghiêm túc. Tiến
hành lãnh đạo nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách về Nghị quyết,
chỉ thị của Đảng đạt được nhiều thành tích đáng kể vào sự nghiệp chung của cả
nước vì mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”.
Tuy nhiên trong những năm gần đây khi đất nước ta bước vào nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì cơng tác tun truyền, qn triệt Nghị
quyết, chỉ thị của Đảng đã gặp khơng ít khó khăn và bộc lộ rõ nhiều hạn chế, yếu
kém mà chúng ta cần khắc phục như: Nhận thức chưa đầy đủ, thiếu thống nhất của
một số cấp uỷ, cán bộ đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trị, tầm quan trọng của
Nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Mặt khác chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền,
quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết, chỉ thị của Đảng ở nhiều cấp, nhiều
nghành, nhiều lĩnh vực còn yếu.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn đó, bản thân em đã lựa chọn đề tài: "Nâng


cao chất lượng công tác tuyên truyền, quán triệt chỉ thị, Nghị quyết của Đảng
trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá hiện nay” làm tiểu luận cho mơn học “ Ngun lý
tun trưyền ”.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
- Đánh giá đúng thực trạng công tác tuyên truyền, quán triệt chỉ thị, Nghị
quyết, của Đảng trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng công tác
tuyên truyền, quán triệt chỉ thị, Nghị quyết của Đảng trong thời gian sắp tới.
3. Phương pháp nghiên cứu

1
Học viên Hà Anh Sơn - K27B


Nguyên lý tuyên truyền

Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích số liệu điều tra. Kế thừa các số
liệu đã có, logic- phân tích các vấn đề lý luận mà các nhà khoa học chuyên ngành
đã nghiên cứu và áp dụng vào thực tiễn.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài:
Công tác tuyên truyền quán triệt chỉ thị, Nghị quyết của Đảng ở các cấp uỷ
Đảng tỉnh Thanh Hoá - chủ yếu là hình thức tuyên truyền, quán triệt từ trung ương
đến cơ sở.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phụ lục và kết luận thì đề tài gồm có 3 chương.
Chương 1: Một số sơ sở lý luận chung về tuyên truyền chỉ thị, Nghị quyết
của Đảng.
Chương 2: Thực trạng công tác tuyên truyền, quán triệt chỉ thị, Nghị
quyết của Đảng trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền,

quán triệt chỉ thị, Nghị quyết của Đảng ở Thanh Hoá.

2
Học viên Hà Anh Sơn - K27B


Nguyên lý tuyên truyền

NỘI DUNG

Ch¬ng 1: MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TUYÊN TRUYỀN,
QUÁN TRIỆT CHỈ THỊ, NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG
1.1 Một số khái niệm
1.1.1 Tuyên truyền
Theo Đại bách khoa tồn thư Liên Xơ, thuật ngữ tun truyền có 2 nghĩa:
Theo nghĩa rộng: Tuyên truyền là sự truyền bá những quan điểm, tư tưởng
chính trị, triết học, khoa học, nghệ thuật…nhằm biến những quan điểm, tư tưởng
âý thành ý thức xã hội nhất định và cổ vũ tích cực xã hội con người.
Theo nghĩa hẹp: Tuyên truyền là sự truyền bá những quan điểm lý luận
nhằm xây dựng cho quần chúng thế giới quan nhất định, một kiểu ý thức xã hơị
nhất định và cổ vũ tích cực xã hội của con người.
1.1.2. Hiệu quả công tác tuyên truyền
Hiệu quả của bất kỳ hoạt động nào cũng là sự tương quan giữa mục đích đề
ra và kết quả mong muốn đat được trong một điều kiện xã hội nhất định. Kết quả
và mục đích gắn liền với nhau. Kết quả là biểu hiện thực tế của mục đích, là mục
đích đã đựợc thực hiện hố. Cịn mục đích lại chính là kết quả mà con người mong
muốn đạt tới, là kết quả “giả định” từ trước. Tuy nhiên mục đích và kết quả khơng
phải bao giờ cũng tương đồng nhau.
Hiệu quả cơng tác tun truyền cũng vậy. Đó là sự tương quan giữa kết quả
đạt được do tác động mà công tác tuyên truyền mang lại với mục đích đã đề ra

trong một điều kiện xã hội nhất định với một chi phí nhất định.
1.1.3. Chỉ thị của Đảng
Chỉ thị của Đảng là văn bản dùng để chỉ đạo các cấp uỷ, cơ quan, tổ chức của
Đảng cấp dưới thực hiện các chủ trương, chính sách hoặc một số nhiệm vụ cụ thể.
1.1.4. Nghị quyết của Đảng
Nghị quyết của Đảng là văn bản ghi lại các quyết định thông qua ở đại hội,
hội nghị cơ quan lãnh đạo của Đảng về chủ trương, nhiệm vụ cơng tác, chính sách,
kế hoạch và các vấn đề cụ thể.
1.1.5. Công tác tuyên truyền, quán triệt chỉ thị, Nghị quyết của Đảng
Đây là hoạt động của báo cáo viên, tuyên truyền viên, là một phương thức
tuyên truyền được tiến hành bằng lời nói trực tiếp nhằm mục đích nâng cao nhận
thức của cán bộ, đảng viên, nhân dân về nội dung cơ bản của chỉ thị, nghị quyết
của Đảng. Từ đó củng cố niềm tin và cổ vũ hành động của toàn xã hội.
1.2. Những yêu cầu về chất lượng công tác tuyên truyền, quán triệt chỉ
thị, Nghị quyết của Đảng
Để làm cho công tác tuyên truyền, quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng
đạt kết quả cao thì yêu cầu tổng quát là phải làm cho cán bộ, đảng viên và nhân
dân nắm được, hiểu rõ tinh thần cơ bản của chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Từ đó
3
Học viên Hà Anh Sơn - K27B


Nguyên lý tuyên truyền

xây dựng đường lối của Đảng và tích cực hành động thực hiện những chủ trương
đó. Điều đó đã được thể hiện trên các mặt sau:
Năng lực, trình độ của báo cáo viên, tổ chức lớp học, cơ sở vật chất, nhận
thức của cán bộ đảng viên và nhân dân ở sự tích cực với việc học, tiếp thu bài
giảng, ghi chép.
Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân thể hiện ở mức độ tin tưởng vào

tính khoa học, tính đúng đắn vào chỉ thị, nghị quyết. Tạo cho người học ý chí vững
vàng, lập trường kiên định tin tưởng, thực hiện đúng chủ trương, đường lối của
Đảng. Tính tích cực chính trị- xã hội của cán bộ đảng viên và nhân dân thể hiện ở
múc độ hồn thành nghĩa vụ cơng dân theo Hiến pháp, mức độ tham gia tích cực,
tự giác vào cơng tác xã hội, việc quản lý công việc nhà nước, tập thể, các tổ chức
chính trị- xã hội, pháp luật của nhà nước thành hiện thực trong cuộc sống.
Tích cực lao động, nhiệt tình, tận tuỵ với cơng việc, sáng tạo tinh thông nghề
nghiệp, quan tâm đến việc nâng cao văn hoá, tạo ra năng suất lao động cao, đấu
tranh chống những hành vi sai trái, các tệ nạn xã hội và các hành vi vi phạm pháp
luật.
1.3. Vai trò của việc tuyên truyền quán triệt chỉ thị, Nghị quyết
Chủ nghĩa Mác- Lênin đã khẳng định vai trò quan trọng của hệ tư tưởng và
đấu tranh lý luận- tư tưởng. C.Mác đã khẳng định: Tư tưởng sẽ trở thành lực lượng
vật chất một khi được xâm nhập vào quần chúng. Lênin nói: Khơng có lý luận cách
mạng thì khơng có phong trào cách mạng. Các giai cấp đại diện cho một phương
thức sản xuất đã tồn tại trong lịch sử chỉ có thể bảo vệ và xây dựng được chính
quyền của mình một khi có hệ tư tưởng riêng biệt. Giai cấp vơ sản chỉ có thể trở
thành một giai cấp tư giác, làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình khi được trang bị hệ
tư tưởng Mác- Lênin.
Xuất phát từ yêu cầu đó nên tuyên truyền Chỉ thị, Nghị quyết có nhiệm vụ
đưa những quan điểm, đường lối của Đảng trở thành nhận thức chung của quần
chúng, để quần chúng tự giác thực hiện những nhiệm vụ đó.
Thơng qua hoạt động tuyên truyền, quán triệt chỉ thị, nghị quyết của đội ngũ
báo cáo viên, tuyên truyền viên mà một mặt thông tin được đến với quần chúng
nhân dân, mặt khác nhờ thơng tin phản hồi có thể nắm bắt được nhận thức và thái
độ của nhân dân đối với chủ trương, chính sách, đường lối, nắm bắt được tâm tư
nguyện vọng, nhu cầu lợi ích…của quần chúng. Trên cơ sở thông tin phản hồi này
Đảng và Nhà nước kịp thời điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện chủ trương, đường lối,
chính sách pháp luật sao cho phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn cách
mạng và hợp với lịng dân.

Cơng tác tun truyền, qn triệt Nghị quyết, chỉ thị của Đảng góp phần to
lớn vào sự nghiệp chung là đẩy mạnh q trình cơng nghiệp hố- hiện đại hoá đất
nước, vào việc xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc, vào
việc xây dựng và phát huy nhân tố con người, nâng cao bản lĩnh chính trị và phẩm
4
Học viên Hà Anh Sơn - K27B


Nguyên lý tuyên truyền

chất đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên. Góp phần to lớn trong việc tạo lập
các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng và nhân điển hình tiên tiến, đấu tranh
chống và phê phán những hiện tượng tiêu cực, bài trừ tệ nạn xã hội.
Công tác tuyên truyền, quán triệt Nghị quyết, chỉ thị của Đảng là vũ khí sắc
bén trong cuộc đấu tranh chung chống lại âm mưu “diễn biến hồ bình” của các
thế lực thù địch đối với nước ta, chống phao tin đồn, kích động để chia rẽ khối đại
đồn kết dân tộc, đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, thù địch, lệch lạc.
Nhằm bảo vệ nền tảng hệ tư tưởng, bảo vệ Đảng cộng sản Việt nam, bảo vệ chế độ.
Góp phần giữ vững ổn định chính trị và tăng cường khối đại đồn kết xã hội. Đây
chính là sức mạnh, là tiền đề, điều kiện cho công cuộc đổi mới, cho q trình thực
hiện cơng nghiêp hóa-hiện đại hố đất nước.
Mặt khác cơng tác tun truyền, qn triệt chỉ thị, nghị quyết có khả năng
đưa thơng tin về những Nghị quyết, chỉ thị tối mật, mật tới một bộ phận cán bộ,
đảng viên mà các phương tiện thông tin đại chúng không được phép đưa ra rộng rãi
trong quần chúng. Trong điều kiện hiện nay với sự bùng nổ thơng tin thì cơng tác
qn triệt chỉ thị, nghị quyết cịn góp phần định hướng thơng tin, giải thích cho
quần chúng hiểu rõ đâu là thơng tin chính thức, chính thống. Từ đó có thể định
hướng dư luận xã hội và góp phần tạo ra sự thống nhất về chính trị- tư tưởng trong
xã hội.
Vì vậy mà cơng tác tuyên truyền, quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng của

đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên đóng vai trò như là sợi dây bền chặt nối
liền giữa Đảng với quần chúng, Nhà nước với công dân, Trung ương với địa
phương. Góp phần củng cố khối đại đồn kết cơng- nơng- trí thức trong q trình
hội nhập thế giới. Đồng thời khắc phục các tệ nạn quan liêu và xa rời quần chúng
nhân dân.
1.4. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, quán
triệt chỉ thị, Nghị quyết của Đảng trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá
* Về mặt lý luận
Các chỉ thị, nghị quyết đều thể hiện rõ quan điểm, đường lối lãnh đạo của
Đảng đối với một công việc cụ thể, trong một giai đoạn nhất định. Cương lĩnh của
Đảng đã được thể hiện trong từng giai đoạn thơng qua việc cụ thể hố bằng chỉ thị,
nghị quyết của Đảng ở từng thời gian, từng lĩnh vực. Vì thế nên việc triển khai chỉ
thị, nghị quyết của Đảng chính là thực hiện mục tiêu cương lĩnh của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thì khẳng định: “ Sở dĩ Đảng ta có thể lãnh đạo giai
cấp cơng nhân và tồn dân tiến lên Chủ nghĩa xã hội, là vì Đảng ta có chính sách
đúng đắn và lãnh đạo thống nhất. Mà lãnh đạo thống nhất là vì tồn thể đảng viên
tư tưởng nhất trí và hành động nhất trí”. Để Nghị quyết, chỉ thị của Đảng thâm
nhập vào đảng viên, quần chúng nhân dân và biến nó thành hành động trong cuộc
sống thì Đảng ta phải làm tốt công tác tuyên truyền, quán triệt Nghị quyết, chỉ thị
5
Học viên Hà Anh Sơn - K27B


Nguyên lý tuyên truyền

của Đảng. Đây là nhiệm vụ cơ bản, thường xun của Đảng nên địi hỏi cơng tác
này ngày phải được nâng cao hơn về chất lượng.
Nghị quyết trung ương 4 khoá VIII đã chỉ rõ: “Việc quán triệt và tổ chức
thực hiện Nghị quyết, chỉ thị của Đảng ở nhiều cấp, nhiều ngành, trên nhiều lĩnh
vực còn yếu. Trong quá trình thực hiện một số cán bộ, đảng viên và cấp uỷ chưa

quan tâm đầy đủ đến Nghị quyết, chỉ thị của Đảng, không căn cứ vào Nghị quyết,
chỉ thị để hành động và kiểm tra công việc của mình; cịn làm những việc khơng
đúng Nghị quyết, thậm chí trái Nghị quyết”.
Đứng trước tình hình trên thì Đảng ta đã khắc phục bằng cách sử dụng nhiều
kênh, nhiều công cụ và phương tiện như: Hệ thống lớp học, các phương tiện thông
tin đại chúng, các buổi sinh hoạt của các tổ chức đoàn thể nhân dân, tuyên
truyền… Trong số các kênh đó thì hoạt động qn triệt Nghị quyết, chỉ thị của báo
cáo viên, tuyên truyền viên được Đảng xác định là công cụ quan trọng hàng đầu
nhằm tuyên truyền về đường lối, chính sách, truyền bá những quan điểm của Đảng,
đưa tiếng nói của Đảng đến với nhân dân.
Công tác tuyên truyền, quán triệt là kênh thơng tin chủ yếu và chính thống
nhằm giáo dục, phổ biến, quán triệt mọi chủ trương, chính sách, đường lối, quan
điểm của Đảng và Nhà nước; Thông báo kịp thời có định hướng các vấn đề thời sự
quan trọng trong nước và quốc tế, các vấn đề nóng bỏng mà dư luận quan tâm.
Nhờ đó mà tạo ra sự thống nhất về nhận thức và hành động trong Đảng và trong
toàn xã hội, củng cố niềm tin, cổ vũ các phong trào hành động của quần chúng.
Thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách pháp luật của Nhà nước.
* Về mặt thực tiễn
Trong giai đoạn hiện nay thì cơng tác tuyên truyền, quán triệt Nghị quyết
của cả nước nói chung và của tỉnh Thanh Hố nói riêng đã đạt được một số thành
tựu nhất định từ việc xây dựng kế hoạch học tập, chương trình hành động và tiến
hành thực hiện Nghị quyết, chỉ thị của Đảng sát hợp với thực tế, phù hợp với điều
kiện của địa phương và từng bước nâng cao chất lượng Báo cáo viên.
Tuy nhiên thì ở Thanh Hố cơng tác tun truyền, qn triệt Chỉ thị, Nghị
quyết của Đảng đang bộc lộ những hạn chế, yếu kém. Việc quán triệt Chỉ thị, Nghị
quyết của Đảng đang bộc lộ những hạn chế, yếu kém. Việc quán triệt chỉ thị, nghị
quyết của Đảng ở các cấp, các ngành mới chỉ dừng lại ở đội ngũ cán bộ, đảng viên,
đại đa số nhân dân chưa được thông báo.
Mặt khác việc tổ chức, quán triệt chỉ thị, nghị quyết chưa tốt. Khi tổ chức cịn
mang tính một chiều, thời gian ngắn, nội dung chưa sâu. Chưa chú trọng ở khâu

viết bài thu hoạch, xây dựng chương trình hành động thực hiện nghị quyết, xây
dựng hành động ở một số cơ sở Đảng bộ địa phương chưa thật phù hợp vào điều
kiện cụ thể của mỗi đơn vị. Vì thế nên kết quả đạt được không cao là điều dễ hiểu.
Bên cạnh đó cơng tác tổng kết thực tiễn việc thực hiện chỉ thị, nghị quyết
chưa kịp thời, đầy đủ, tổng kết và nhân rộng các mơ hình tiên tiến chưa thật nhiều,
6
Học viên Hà Anh Sơn - K27B


Nguyên lý tuyên truyền

ý thức thái độ của Đảng viên chưa thật nghiêm túc, cơ sở vật chất còn thấp… Tất
cả những yếu tố đó đã ảnh hưởng đến nhiệm vụ chính trị trên địa bàn tỉnh Thanh
Hố.
Vì vậy để góp phần nâng cao chất lượng cơng tác lý luận và cơng tác báo cáo
viên thì cần thiết phải nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, quán triệt chỉ thị,
nghị quyết của Đảng trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.

7
Học viên Hà Anh Sơn - K27B


Ngun lý tun truyền

Ch¬ng 2

THỰC TRẠNG CƠNG TÁC TUN TRUYỀN, QUÁN TRIỆT
CHỈ THỊ , NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HOÁ
HIỆN NAY
Chỉ thị, nghị quyết là sự thể hiện đường lối lãnh đạo của Đảng đối với một

công việc cụ thể, trong một giai đoạn nhất định. Để ý chí, quyết tâm trở thành hiện
thực thì phải làm tốt công tác tuyên truyền, quán triệt chỉ thị, nghị quyết. Vì vậy
việc tuyên truyền, quán triệt chỉ thị, nghị quyết để cán bộ, đảng viên và nhân dân
hiểu và làm theo chỉ thị và nghị quyết của Đảng là một khâu rất quan trọng trong
việc biến nhận thức của Đảng thành hiện thực trong cuộc sống, có ý nghĩa quyết
định đến thành công hay thất bại trong việc tổ chức thực hiện chỉ thị, nghị quyết
của đảng ở cơ sở.
2.1. Đặc điểm kinh tế, xã hội tỉnh Thanh Hoá ảnh hưởng đến tuyên
truyền, quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng

1. Vài nột về Tỉnh Thanh Hố
Thanh Hóa là một tỉnh thuộc phía Bắc miền trung với diện tích
11.116,3 km2, Thanh Hóa có vị trí địa lý cực kỡ quan trọng: Phía Bắc giỏp
với Ninh Bình, Hồ Bình, Sơn La; Phía tây giáp với Lào; phía nam giáp với
Nghệ An; phía đơng giáp với vịnh Bắc bộ, có đầy đủ dạng địa hình: biển,
đồng bằng, trung du, miền núi.
Thanh Hóa có 27 huyện, thị, thành phố. Trong đó có 2 thị xó và trung
tõm lớn nhất của tỉnh là Thành phố Thanh Hoá. Thanh Hoá cũng là tỉnh có số
dân đơng thứ 3 trong cả nước( sau Thành phố Hồ Chí Minh và Thủ đơ Hà
Nội). Với 3.646.600 triệu người, trong đó có 7 dân tộc anh em: Kinh, Mường,
Thái, Mông, Dao, Khơ mú, Thổ. Trong gần 3,7 triệu dân thì có khoảng 2 triệu
lao động. Trong đó 80% lao động trong tỉnh là lao động Nông nghiệp. Do số
lao động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp cho nên thu nhập bình qn đầu
người chỉ có 471USD/ năm. Hiện Thanh Hóa đang có chủ trương xây dựng 4
vùng kinh tế lớn đó là: Nghi Sơn, Sầm Sơn, Bỉm Sơn, Ngọc Lặc. Và phấn
đấu kinh tế đạt: Công nghiệp và xây dựng 37,5%; Nông - Lâm - Ngư nghiệp
28,5% và dịch vụ là 34% trong toàn tỉnh.
8
Học viên Hà Anh Sơn - K27B



Nguyên lý tuyên truyền

Với điều kiện địa lý, điều kiện dân cư và tình hình thực tiễn của tỉnh
Thanh Hố cũng nhiều khó khăn song tỉnh Thanh Hóa cùng với cả nước thực
hiện thành công công cuộc đổi mới, đời sống nhân dân trong toàn tỉnh ngày
càng được nâng cao.
2. Tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hố.
a. Tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hố 2007
Thứ nhất: Về tình hình kinh tế.
Kinh tế tỉnh Thanh Hóa trong năm qua duy trì được tốc độ tăng trưởng
khá và tương đối đồng đều giữa các ngành, lĩnh vực, các vùng miền trong
tỉnh. Trong 10 chỉ tiêu kinh tế chủ yếu thì có 06 chỉ tiêu là hồn thành vượt
mức kế hoạch, 4 chỉ tiêu cịn lại gần đạt chỉ tiêu kế hoạch.
Tốc độ tăng trưởng GDP ước đạt 10,2%( kế hoạch 11%); GDP bình
quân đầu người ước đạt 471USD( kế hoạch 475 USD), giá trị tăng trưởng
trong các ngành Nông - Lâm - Ngư nghiệp; công nghiệp và xây dựng; dịch
vụ tương ứng là: 5,5% ; 13,4% ; 11% ( kế hoạch là 5,5% ; 15,4% ; 10,9%).
Cơ cấu kinh tế tiếp tục tăng theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp
và xây dựng, giảm trong ngành Nông - Lâm - Ngư nghiệp.
Thứ 2: Lĩnh vực văn hóa - xã hội.
Lĩnh vực văn hóa – xó hội tiếp tục có những chuyển biến tích cực theo
hướng chuẩn hóa và xã hội hố. Các chỉ tiêu chủ yếu đạt và vượt mục tiêu kế
hoạch. Chất lượng giáo dục tồn diện được nâng lên đó là phổ cập giáo dục
đúng độ tuổi đợc giữ vững 100% số huyện, thị xã, thành phố đạt tiêu chuẩn
phổ cập giáo dục THCS, hoàn thành mục tiêu kế hoạch 5 năm trước thời hạn.
Tồn tỉnh có 434 trường đạt chuẩn quốc gia…Hoạt động y tế về chất lượng
khám chữa bệnh được nâng lên, cơ sở vật chất, trang thiết bị được tăng
cường…


9
Học viên Hà Anh Sơn - K27B


Nguyên lý tuyên truyền

b. Mục tiêu và các chỉ tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh đề ra trong các năm
2008.
Mục tiêu tổng quát của năm 2007 là: Tranh thủ điều kiện và thời cơ mới,
kiên quyết cải thiện môi trường đầu tư, huy động tối đa nguồn nhân lực của
các thành phần kinh tế…Thực hiện đồng bộ các giải pháp tạo chuyển biến cơ
bản và toàn diện các nội dung cải cách hành chính để nâng cao hiệu lực hiệu
quả quản lý nhà nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập, đẩy mạnh công tác thực
hành tiết kiệm, chống tham nhũng lãng phí, tăng cường củng cố quốc phịng,
an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội
Thứ nhất: Về chỉ tiêu kinh tế.
Phấn đấu đạt nhịp độ tăng trưởng kinh tế: 11,5% trở lên. GDP bình
quân đầu người đạt 520USD.
Đạt cơ cấu kinh tế : Nông - Lâm - Ngư nghiệp: 28,5%; Công nghiệp xây dựng đạt: 37,5%; dịch vụ: 34%. Trong đó, giá trị tăng thêm các ngành
Công nghiệp - xây dựng tăng 15,3% giá trị tăng thêm các ngành dịch vụ tăng
12,7%.
Tổng sản lượng lương thực ổn định 1,5 triệu tấn trở lên
Tổng giâ trị hành hóa xuất nhập khẩu trên địa bàn đạt 170 triệu USD
Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn vượt quá dự toán Trung ương giao
3% trở lên
Thứ hai: Về văn hóa - xã hội.
Giảm tỷ lệ sinh: 0,45/1000
Giảm 3% tỷ lệ hộ nghèo đến cuối năm 2008 còn 27,8%; 55% số xã,
phường thị trấn đạt 10 chuẩn quốc gia về y tế, giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi
suy dinh dưỡng xuống còn 29,8%. tỷ lệ lao động được đào tạo đạt 31% và tạo

việc làm cho 47.000 lao động.

10
Học viên Hà Anh Sơn - K27B


Nguyên lý tuyên truyền

Tình hình an ninh, trật tự xã hội và chính trị của tỉnh ổn định, đại bộ phận
cán bộ, đảng viên và nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành
của Nhà nước. Những thành tựu kinh tế - xã hội của cả nước và của tỉnh đã đạt
được trong những năm qua càng củng cố lòng tin của nhân dân vào thắng lợi của
sự nghiệp cách mạng, của q trình cơng nghiệp hoá - hiện đại hoá và tương lai
của đất nước. Tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc đấu tranh chống các
hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, tệ nạn xã hội, phấn đấu xây dựng và thực hiện
mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Nhìn
chung tình hình an ninh, chính trị, xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá cơ bản là ổn
định, nhân dân tin tưởng phấn khởi, chấp hành tốt và thực hiện đúng các chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của địa
phương, nhân dân yên tâm lao động, sản xuất và quan tâm theo dõi các hoạt động
của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương.
2.2. Thực trạng thực hiện tuyên truyền, quán triệt nghị quyết, chỉ thị
của Đảng ở tỉnh Thanh Hoá hiện nay.
Việc tuyên truyền, quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng ở tỉnh Thanh Hoá
thường theo quy trình sau:
Khi có một chỉ thị, nghị quyết của Đảng cần quán triệt tới cán bộ, đảng viên
và nhân dân, Thường vụ tỉnh uỷ căn cứ vào hướng dẫn chỉ đạo của Trung ương sau
đó giao cho Ban tuyên giáo tỉnh uỷ xây dựng kế hoạch triển khai trong tồn tỉnh,
báo cáo viên có thể mời trung ương hoặc tỉnh; văn phòng tỉnh uỷ chuẩn bị cơ sở
vật chất và ngành có liên quan đến nghị quyết chuẩn bị, chương trình hành động.

Khi đã chuẩn bị đầy đủ các điều kiện thì mở hội nghị cán bộ chủ chốt của tỉnh bao
gồm các thành phần như: Toàn ban chấp hành Đảng bộ tỉnh; trưởng, phó các cơ sở,
ban ngành, đoàn thể tỉnh; ban thường vụ các huyện, thị uỷ, đảng uỷ trực thuộc; chủ
tịch, các phó chủ tịch hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân huyện, thị xã và các
đồng chí uỷ viên Thường vụ tỉnh uỷ, phó chủ tịch uỷ ban nhân dân, hội đồng nhân
dân tỉnh đã nghỉ hưu trên địa bàn tỉnh. Số người tham gia học nghị quyết, chỉ thị
đạt từ 95% trở lên; các đại biểu được phát tài liệu đầy đủ; ý thức người học tốt: có
từ 70 đến 80% số người học ghi chép bài đầy đủ… Thời gian học tập từ 1 đến 2
ngày tuỳ theo nội dung và số lượng nghị quyết.
Chương trình quán triệt những nội dung chính của chỉ thị, nghị quyết; thơng
qua chương trình hành động thực hiện nghị quyết của Tỉnh uỷ và phổ biến kế
hoạch tuyên truyền, quán triệt chỉ thị, nghị quyết trong tồn tỉnh. Có thời gian cho
việc thảo luận, giải đáp thắc mắc, nhưng đa số người học đều nhất trí như nghị
quyết, khơng có thắc mắc gì nên những phần đó được thơng qua.
Sau hội nghị cán bộ chủ chốt của tỉnh là hội nghị cán bộ chủ chốt của huyện,
thị uỷ. Cách làm tương tự như tỉnh. Thành phần gồm: Tồn ban chấp hành Đảng bộ
huyện; bí thư, phó bí thư các đảng bộ trực thuộc; chủ tịch hội đồng nhân dân, uỷ
ban nhân dân; chủ nhiệm hợp tác xã, phường, thị trấn. Thủ trưởng các phòng ban,
11
Học viên Hà Anh Sơn - K27B


Nguyên lý tuyên truyền

cơ quan, đoàn thể xung quanh huyện… Số người học đạt từ 90% trở lên. Tài liệu
được phát đến đầu mối các tổ chức cơ sở Đảng và báo cáo viên. Thời gian tuỳ
thuộc vào nội dung và số lượng Nghị quyết. Chương trình quán triệt những nội
dung cơ bản của chỉ thị, nghị quyết; báo cáo viên có thẻ của trung ương, của tỉnh,
huyện thơng qua chương trình hành động của huyện và kế hoạch triển khai trong
toàn huyện. Ý thức học tập tương đối tốt. Có từ 30 đến 40% số người học ghi chép

bài. Khơng thảo luận và nếu có chỉ định phát biểu thì đa số nhất trí như nghị quyết
và hứa quyết tâm thực hiện đúng như kế hoạch của huyện uỷ đã đề ra.
Đối với 3 Đảng uỷ trực thuộc (Đảng uỷ Dân chính Đảng tỉnh, Đảng uỷ Bộ
chỉ huy quân sự tỉnh và Đảng uỷ cơng an tỉnh) có 2 hình thức: Tổ chức hội nghị
cán bộ chủ chốt hoặc mở từ 1 đến 4 lớp tập trung quán triệt cho toàn thể cán bộ,
đảng viên trong toàn bộ Đảng bộ. Thời gian từ 1 buổi đến 1 ngày. Nội dung tương
tự của tỉnh. Phần thảo luận theo kế hoạch được đưa về các chi bộ, đảng bộ nhưng
hầu hết là không thực hiện.
Sau hội nghị cán bộ chủ chốt của huyện là việc triển khai ở các tổ chức cơ sở
đảng. Đối với các cơ quan xung quanh huyện, huyện uỷ thường xuyên tổ chức từ 1
đến 2 lớp học tập trung như các Đảng uỷ trực thuộc tỉnh; Đối với các đảng bộ xã,
phường, thị trấn thì mở hội nghị tồn thể đảng viên có mời thêm các đồng chí cán
bộ chủ chốt của Mặt trận và các đoàn thể cùng dự. Thời gian 1 buổi, nội dung
tương tự huyện; chủ yếu là nghe và phổ biến, rất ít người ghi chép. Phần thảo luận
được theo kế hoạch đưa về các chi bộ nhỏ. Báo cáo viên thường mời ở Ban tuyên
giáo và thường vụ huyện uỷ, một số nơi mời tỉnh. Số người tham gia học tập từ
80% trở lên. Tài liệu được phát đến tận các chi bộ cơ sở.
Như vậy, nhìn chung chất lượng các hội nghị quán triệt các chỉ thị, nghị
quyết của Đảng có thể chia làm mấy loại như sau: Hội nghị cán bộ chủ chốt cấp
tỉnh đạt kết quả tốt; Hội nghị cán bộ chủ chốt cấp huyện và hội nghị đảng viên
trong lực lượng vũ trang: 80% đạt khá, 20% đạt tốt; Các lớp học tập trung của đảng
viên thuộc các đảng bộ trực thuộc tỉnh, xung quanh huyện có 80% đạt yêu cầu,
20% đạt khá. Ở các Đảng bộ xã, thị trấn, phường và chi bộ trực thuộc huyện, thị uỷ
có 15% chưa đạt yêu cầu, 70% đạt yêu cầu, 15% đạt khá.
Việc tuyên truyền, quán triệt chỉ thị, nghị quyết đến nhân dân thực hiện thao
2 cách: Ban chấp hành các đồn thể nhân dân có trách nhiệm tun truyền đến hội
nghị đảng viên của mình và thơng qua hệ thống loa truyền thanh của xã, phường,
thị trấn.
2.3. Những ưu điểm và hạn chế trong công tác tuyên truyền, quán triệt
chỉ thị, nghị quyết của Đảng ở tỉnh Thanh Hoá

2.3.1. Ưu điểm và nguyên nhân
Thứ nhất: Đại đa số các cấp uỷ Đảng đã nhận thấy tầm quan trọng và trách
nhiệm của mình trong việc tuyên truyền, quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng
đến cán bộ, đảng viên và nhân dân. Do đó đã chấp hành nghiêm túc sự chỉ đạo của
12
Học viên Hà Anh Sơn - K27B


Nguyên lý tuyên truyền

Đảng cấp trên trong việc lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ việc tuyên truyền, quán triệt
chỉ thị, nghị quyết của Đảng ở địa phương, đơn vị mình.
Sau khi có sự chỉ đạo của Trung ương (Ban tuyên giáoTrung ương) thì ở mọi
cấp bộ đảng đều xây dựng kế hoạch thực hiện đúng với sự chỉ đạo của cấp trên và
phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương, đơn vị mình như về thời gian học
tập, nội dung cần quán triệt, đối tượng học, chương trình hành động…
Về thời gian học tập tuy có ít hơn so với quy định của Trung ương, nhưng
như thế là phù hợp với điều kiện của cơ sở hiện nay. Về nội dung đã truyền đạt đầy
đủ những nội dung cơ bản của chỉ thị, nghị quyết theo yêu cầu đề ra.
Về việc xây dựng chương trình hành động nhằm biến chỉ thị, nghị quyết của
Đảng thành hiện thực trong cuộc sống còn ở mức độ và chất lượng khác nhau.
Nhưng đã được cấp uỷ Đảng chuẩn bị nghiêm túc, có thơng qua Đảng bộ và tổ
chức thực hiện đạt kết quả tương đối tốt ở nhiều địa phương, đơn vị, góp phần giữ
vững ổn định chính trị, tiếp tục đưa kinh tế của tỉnh đi lên và xây dựng Đảng, chính
quyền được củng cố.
Thứ hai: Về chất lượng đội ngũ Báo cáo viên.
Một trong những yếu tố để việc tuyên truyền, quán triệt chỉ thị, nghị quyết
của Đảng đến cán bộ, đảng viên và nhân dân đạt kết quả tốt là chất lượng đội ngũ
Báo cáo viên, tuyên truyền viên. Nhận thức rõ điều đó nên Thanh Hố đã tổ chức
mạng lưới báo cáo viên từ tỉnh đến cơ sở.

Những năm qua Thanh Hố ln quan tâm tới việc bồi dưỡng nghiệp vụ,
cung cấp thông tin cho đội ngũ báo cáo viên. Mỗi tháng tổ chức hội nghị báo cáo
viên một lần khi có chỉ thị, nghị quyết của Đảng cần được quán triệt tới cán bộ,
đảng viên và nhân dân thì sau hội nghị chủ chốt cấp tỉnh ban tuyên giáo mở hội
nghị bồi dưỡng báo cáo viên, trong đó nêu rõ nội dung cần quán triệt tới từng loại
đối tượng, những thông tin định hướng giúp cho các báo cáo viên hiểu sâu, hiểu
rộng, nắm chắc vấn đề.
Vì vậy lực lượng báo cáo viên của tỉnh ln là lực lượng nòng cốt trong việc
tuyên truyền, quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng đến cán bộ, đảng viên và nhân
dân. Nhiều người có trình độ, năng lực, nắm chắc đối tượng, chuẩn bị công phu,
chu đáo nên trình bày lưu lốt, âm lượng tốt, ví dụ minh hoạ sát thực…giúp cho
Đảng viên dễ hiểu, dễ nhớ và nắm chắc được nội dung cơ bản của Chỉ thị, Nghị
quyết. Qua theo dõi có khoảng 50% báo cáo viên cấp tỉnh, 35% báo cáo viên cấp
huyện và khoảng 15% báo cáo viên cấp xã truyền đạt tốt chỉ thị, nghị quyết của
Đảng.
Thứ ba: Ý thức học tập của cán bộ, đảng viên nghiêm túc.
Mỗi người đảng viên đều có ý thức, trách nhiệm là phải học tập để nắm
được chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Mặt khác với tinh thần ham học hỏi, cầu tiến
bộ, nhiều đảng viên đã khơng ngại tuổi cao, sức yếu, hồn cảnh gia đình để đi học
tập nghị quyết, chỉ thị một cách nghiêm túc và đầy đủ. Thường số lượng Đảng viên
13
Học viên Hà Anh Sơn - K27B


Nguyên lý tuyên truyền

đi học nghị quyết, chỉ thị ở nông thôn đạt từ 75 đến 80%. Đa số đảng viên đã chú ý
lắng nghe. Sau mỗi đợt học một số nơi yêu cầu đảng viên viết thu hoạch, vì thế nên
đảng viên phải học tập nghiêm túc hơn.
Các đảng viên đi làm xa, hoặc già yếu không di học được, cấp uỷ giao cho bí

thư chi bộ hoặc đảng viên ở gần nhà có trách nhiệm truyền đạt Nghị quyết cho họ.
Vì vậy có thể nói việc tun truyền, quán triệt Nghị quyết của Đảng đến được đại
đa số cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ. Qua điều tra ở 5 xã, có 83% ý kiến trả
lời thường xuyên được nghiên cứu, học tập, quán triệt Chỉ thị, Nghị quyết của
Đảng, trong đó 78% được học tập tại các hội nghị của Đảng bộ cơ sở.
Thứ tư: Hình thức, phương pháp, phương tiện đa dạng, phong phú, nên đã
thông báo được những nội dung rất cơ bản của Chỉ thị, Nghị quyết đến một bộ
phận nhân dân.
Khi tổ chức trong Đảng xong thì các cán bộ đồn thể nhân dân có trách
nhiệm tun truyền, thơng báo tinh thần cơ bản của Chỉ thị, Nghi quyết đến hội
viên của mình. Trong tình hình hiện nay việc họp dân để học tập Nghị quyêt là rất
khó; Mở những hội nghị tập trung nghiên cứu như Đảng bộ cơ sở thì khơng có điều
kiện. Vì vậy nên cán bộ đồn thể thường biên tập lại những tinh thần cơ bản của
Nghị quyết rồi nhận định kỳ sinh hoạt mà phổ biến. Hoặc chỉ thị, Nghị quyết được
cụ thể hố thành chính sách cho vay ưu đãi để phát triển kinh tế gia đình, quỹ xố
đói giảm nghèo…thì mới phổ biến được đến nhân dân.
* Hình thức tuyên truyền đa dạng, phong phú: Thông qua tuyên truyền trực
tiếp như: Tuyên truyền miệng từ người này sang người khác, kết hợp với các
phương tiện thông tin khác như: Sách báo: 77%, đài, ti vi: 85%...
Thông qua hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên của cấp
uỷ,các cơ quan, đoàn thể trong tỉnh.Thơng qua sinh hoạt của các tổ chức Đảng,
chính quyền, đoàn thể.
Hoạt động của hệ thống giáo dục quốc dân, các lớp bồi dưỡng lý luận chính
trị của các tổ chức và đồn thể chính trị.
Hoạt động thơng tin, tuyên truyền lưu động, các hoật động tuyên truyền cổ
động trực tiếp trong các đợt sinh hoạt chính trị như: Mit tinh, tuần hành, cổ động,
lễ hội. Các hoạt động biểu diễn văn hoá văn nghệ nhằm vào các đối tượng cụ thể.
Vì thế nên đa số họ nắm được ý chính trong Nghị quyết, Chỉ thị, đường lối, chính
sách của Đảng, Nhà nước.
Đối với nhân dân thì việc tuyên truyền, quán triệt Chỉ thị, Nghi quyết của

Đảng chủ yếu qua tuyên truyền gián tiếp như: Hệ thống loa truyền thanh ở cơ sở.
Đặc biệt ở những vùng nông thôn, vùng sâu thì việc tuyên truyền qua hệ thống loa
truyền thanh có tác dụng to lớn. Nhiều đài truyền thanh cho đọc cuốn Hỏi – Đáp về
Nghị quyết do Ban tuyên giáo Trung ương phát hành hoặc biên tập lại ngắn gọn,
rồi phát liên tục. Có 70% số người trả lời được biết Nghị quyết qua phương tịên
này.
14
Học viên Hà Anh Sơn - K27B


Nguyên lý tuyên truyền

Qua hệ thống xuất bản và phát hành các ấn phẩm phục vụ nhu cầu như đọc
sách, báo. Qua các hình thức cổ động như: Kẻ, vẽ khẩu hiệu chính trị, panơ,
ápphích, tranh cổ động, truyền đơn, tờ rơi…
* Phương tiện để tuyên truyền chỉ thị, nghị quyết đa dạng như: Lời nói của
Báo cáo viên, tuyên truyền viên của Đảng, các đồn thể chính trị, cơ quan nhà
nước. Các phương tiện hoạt động của hệ thống thơng tin đại chúng. Các thiết chế
văn hố- văn nghệ, thể thao.
*Phương pháp tuyên truyền đổi mới như: Tuyên truyền qua phương pháp
nêu gương: Những người thực hiện tốt Chỉ thị, Nghị quyết. Những người đi học
đầy đủ, ghi chép bài và từ đó thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và nhà
nước đề ra.
Những người có hồn cảnh khó khăn, những người cao tuổi vẫn đi học đầy
đủ để nêu gương cho con cháu. Hoặc thông qua các cá nhân: Mỗi người đều có thể
trở thành một tuyên truyền viên tích cực trong việc tuyên truyền cho người khác
thực hiện đúng chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Đưa đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước ta đến với đại bộ phận nhân dân lao động.
Thông qua các lớp học, qua hội nghị thì tuyên truyền chỉ thị, nghị quyết
được quán triệt tốt nhất và mọi người đều có ý thức học tập…

Như vậy, những năm qua ở Thanh Hố cơng tác tun truyền về Nghị quyết
của Đảng có nhiều kết quả đáng kể, góp phần nâng cao nhận thức , củng cố niềm
tin và cổ vũ hành động để thực hiện nhiệm vụ mà Chỉ thị, Nghị quyết đã đề ra.
*Nguyên nhân của thành công.
Do cấp uỷ Đảng đã nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng và trách nhiệm của
mình đơiv với việc tun truyền, qn triệt Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng đến cán
bộ, đảng viên và nhân dân. Từ đó khắc phục được nhiều khó khăn, tổ chức tốt việc
thực hiện học tập Nghị quyết của Đảng cho Đảng bộ theo đúng yêu cầu, kế hoạch
đề ra.
Hiện nay khi ý thức hoạc tập Nghị quyết của một số đảng viên khơng cịn
được như trước, điều kiện kinh phí, cơ sở vật chất cịn khó khăn mà các Đảng bộ tổ
chức được như vậy là một cố gắng rất lớn.
Các Báo cáo viên có năng lực, trình độ truyền đạt Nghj quyết lại được chăm
lo, bồi dưỡng nghiệp vụ thường xuyên đã giúp họ bình tĩnh, tự tin khi đứng trên
bục giảng, góp phần vào việc nâng cao chất chất lượng tuyên truyền, quán triệt Chỉ
thị, Nghị quyết của Đảng.
Ý thức Đảng, tinh thần ham học hỏi của đại đa số đảng viên là yếu tố rất
quan trọng trong việc nâng cao chất lượng tuyên truyền quán triệt Chỉ thị, Nghị
quyết của Đảng.
Bên cạnh đó phải kể đến sự đổi mới mạnh mẽ về phương pháp, hình thức,
phương tiện tuyên truyền chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước nói chung và của
tỉnh Thanh Hố nói riêng.
15
Học viên Hà Anh Sơn - K27B


Nguyên lý tuyên truyền

2.3.2 Những khuyết điểm và nguyên nhân
Thứ nhất: Một số cấp uỷ cơ sở chưa thấy hết tầm quan trọng và trách nhiệm

của mình trong việc tuyên truyền, quán triệt Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng đến cán
bộ, đảng viên và nhân dân, do đó có tư tưởng quán triệt cho xong, chạy theo thành
tích, dẫn đến việc học tập Nghị quyết hình thức, chất lượng kém.
Hầu hết các Đảng bộ đều xây dựng kế hoạch triển khai học tập Nghị quyết
rất bài bản, đúng với hướng dẫn của cấp trên nhưng khi thực hiện lại không đúng
như kế hoạch như: Thời gian học tập ghi từ 1 đến 2 ngày nhưng chỉ thục hiện từ 1
buổi đến 1 ngày.
Tổ chức học tập thiếu chu đáo: Hội trường chật chội, bàn ghế thiếu thốn, loa
đài không bảo đảm…
Việc quản lí thiếu chặt chẽ, phần nhiều dựa vào tính tự giác của đảng viên.
Mặt khác chưa quan tâm tới việc phổ biến, quán triệt cho quần chúng nhân dân.
Chưa xây dựng được chương trình hành động, thường rất hình thức chung chung,
dàn trải, khơng sát với tình hình địa phương, khơng có việc làm cụ thể tạo ra bước
chuyển biến ngay sau khi học Nghị quyết. Ở nhiều nơi sau khi quán triệt xong là
xong, không kiểm tra, khơng đơn đốc việc thực hiên chương trình hành động,
khơng sơ kết, tổng kết nên việc học Nghị quyết cứ theo lối mòn cũ…
Thứ hai: Năng lực của đội ngũ báo cáo viên còn nhiều hạn chế (40% số ý
kiến được hỏi đều như vậy).
Báo cáo viên đóng vai trị rất quan trọng trong việc tuyên truyền, quán triệt
Chỉ thi, Nghị quyết nhưng việc quản lý đội ngũ này chưa chặt chẽ, việc bồi dưỡng
không thường xuyên, việc tuyể chọn thiếu kĩ càng, nhiều đồng chí có tên trong
danh sách báo cáo viên nhưng khơng nói được buổi nào, chưa nắm được đối tượng
nghe, lớp học nào cũng trình bày một loại giáo án…khiến người học mệt mỏi, uể
oải, không hào hứng. Theo báo cáo của Ban tuyên giao các huyện, thị uỷ thì có tới
20% báo cáo viên cấp tỉnh; 30% Báo cáo viên cấp huyện và 50% báo cáo viên
tuyên truyền viên cấp xã chưa lên lớp giảng Nghị quyết hoặc tuyên truyền chưa
hay.
Theo quy định chung thì các bí thư cấp uỷ trực tiếp truyền đạt Chỉ thị, Nghị
quyết ở Đảng bộ mình, nhưng hầu hết các bí thư cịn e dè, thiếu tự tin nên từ tỉnh
đến cơ sở phần lớn là mời báo cáo viên, do đó việc liên hệ Nghị quyết với tình

hình địa phương khơng sát, khơng phù hợp. Do đó đảng viên nắm Nghị quyết
không sâu, không vững.
Thứ ba: Ý thức học tập Nghị quyết của một số đảng viên chưa nghiêm túc.
Có một bộ phận đảng viên đi học Nghị quyết “cho có mặt” cốt để điểm
danh, khơng vi phạm quy chế của Đảng bộ.
Chính vì vậy hiện nay có tình trạng đảng viên đi học Nghị quyết giờ đầu rất
đông (80 – 90%), nhưng sau giờ giải lao, nhiều đảng viên bỏ về (50 – 60%), Việc
tổ chức cho những đảng viên vắng mặt, đi làm xa còn nhiều hạn chế.
16
Học viên Hà Anh Sơn - K27B


Nguyên lý tuyên truyền

Một hiện tượng khá phổ biến hiện nay ở các buổi học Nghị quyết thì hầu hết
khơng ai ghi chép mà nghe là chính. Có nhiều nghị quyết khá dài, báo cáo viên
phải trình bày cả ngày nhưng đảng viên cũng chỉ nghe. Hoặc báo cáo viên cứ trình
bày cịn một bộ phận đảng viên ở dưới cứ làm việc riêng: Đọc báo, nói chuyện rất
tự nhiên…Và tất yếu sẽ dẫn đến đi học Nghị quyết mà hiểu lơ mơ, không nhớ đầy
đủ.
Thứ tư: Việc tuyên truyền, quán triệt Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng mới chỉ
đến đảng viên, chưa đến được đại đa số các tầng lớp nhân dân do nội dung,
phương pháp tuyên truyền còn nhiều hạn chế.
Hiện nay việc tổ chức mở lớp để quán triệt Chỉ thị, Nghị quyết của đảng đến
quần chúng chỉ có thể tổ chức được ở các đơn vị quân đội, lực lượng công an, các
đơn vị sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách nhà nước…còn việc họp dân để quán
triệt Nghị quyết là không thực hiện được. Việc tổ chức học tập cho số lao động
trong các công ty trách nhiệm hữu hạn, số lao động trong các làng nghe và thanh
niên lại càng khó khăn hơn. Vì vậy mà việc tuyên truyền Nghị quyết đến đại đa số
nhân dân dựu trên hệ thống loa truyền thanh. Tuy nhiên ở Thanh Hố hịên nay thì

hệ thống này đã xuống cấp nhiều. Số loa chưa phủ kín trên địa bàn dân cư, nội
dung chủ yếu là thông báo, mời họp…
Nội dung tun truyền: Cịn mang tính máy móc, dập khn. Hay nói cách
khác là q dài và làm cho người học khơng nắm được ý chính mà người tun
truyền chỉ thị, nghị quyết đang nói. Vì vậy nên hiệu quả tun truyền khơng cao.
Hình thức tun truyền: Thường mang tính lý luận cao, chưa đi sâu vào việc
tổ chức thực hiện nên hiệu quả đạt được khơng cao. Vì thế nên ảnh hưởng đến việc
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Phương pháp tuyên truyền: Chưa sử dụng linh hoạt các phương pháp tuyên
truyền. Phương pháp nêu gương cịn ít, phương pháp cá nhân và tổ chức lớp học
cịn mang tính hình thức, khơng quan tâm đến kết quả như thế nào.Bên cạnh đó thì
chưa khai thác triệt để các kênh thông tin để tuyên truyền cho đại bộ phận nhân
dân.
Đối với các đoàn thể nhân dân nói là giao ban cho Ban chấp hành có trách
nhiệm qn triệt đến hội viên của mình nhưng cấp uỷ thì khốn trắng, đồn thể
ngành dọc cấp trên khơng hướng dẫn, kinh phí khơng có, điều kiện hội họp khơng,
khơng có quy chế. Nên các đồn thể thường phải chờ, kết hợp với các kỳ sinh hoạt
định kỳ, mỗi năm từ 1 đến 2 lần, tranh thủ phổ biến những nét cơ bản của Nghị
quyết. Do đó chất lượng hạn chế. Có 52% ý kiến trả lời nhân dân chưa được học
tập chỉ thị, Nghị quyết của Đảng qua các hội nghị. Dân biết được, hiểu được và
thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng ở địa phương qua hệ thống báo chí,
đài, ti vi và các hình thức văn hố văn nghệ khác.
* Ngun nhân yếu kém
17
Học viên Hà Anh Sơn - K27B


Nguyên lý tuyên truyền

Chỉ thị, nghị quyết quá nhiều (55% ý kiến): Có hội nghị Trung ương ra tới

3,4 nghị quyết (Hội nghị Trung ương 5 khoá IX ra tới 5 nghị quyết). Trong một
buổi quán triệt có tới 5 nghị quyết (Chỉ thị 48 của Bộ chính trị, nghị quyết 41,46,47
của Bộ chính trị) khiến người nghe khơng nhớ nổi đầy đủ tên nghị quyết. Ở Thanh
Hoá từ năm 2001 đến 2006 có: Tỉnh uỷ có 18 nghị quyết, 84 chỉ thị, 24 chương
trình hành, mỗi huyện có trên dưới 20 nghị quyết và mỗi khi học nghị quyết nhiều
như vậy nên mọi người chỉ chú ý quan tâm về vật chất để tuyên truyền Nghị quyết
của Trung ương, tỉnh, huyện còn ở chi bộ bám sát thực tế thì lại xem nhẹ, quán triệt
qua loa.
Nghị quyết nhiều nhưng thực hiện chưa được bao nhiêu, nói chưa đi đơi với
làm nên cán bộ, đảng viên, nhân dân thường nói: Nghị quyết nào cũng hay, cũng
đúng nhưng không thực hiện thì đúng, thì hay cũng chẳng để làm gì. Từ đó gây
tâm lý nhàm chán, khơng hứng thú khi đi học nghị quyết.
Nghị quyết nhiều nhưng kinh phí có hạn. Nếu chỉ chờ vào nguồn đảng phí
như hiện nay thì mua báo cũng khơng đủ chứ đừng nói đến các hoạt động khác.
Tình trạng cứ phải có Nghị quyết của Đảng thì cơng việc mới được thực
hiện. Vì vậy ngành nào, lĩnh vực nào cũng đề nghị cấp uỷ ra Nghị quyết về cơng
việc của ngành mình, lĩnh vực mình, rồi lấy đó làm “ cái gậy” để thúc đẩy cơng
việc của ngành mình.
Việc học tập qn triệt Nghị quyết vãn theo lối mịn cũ. Cứ có nghị quyết là
cả nước tổ chức học tập, một người cứ đứng nói chay cả buổi, khơng hình ảnh
minh hoạ, khơng phân biệt ngành nào, đối tượng nào cần nắm nội dung chính của
Chỉ thị, Nghị quyết… Dẫn đến tình trạng người nghe không muốn nghe hoặc nghe
không hiểu nhưng vẫn ngồi nghe với thái độ thờ ơ, ít quan tâm làm cho việc học
tập không cao.
Đội ngũ báo cáo viên chưa đủ mạnh, cấp uỷ chưa nắm được hoạt động, chế
độ thù lao cho báo cáo viên ít ỏi. Theo báo cáo của Ban tuyên giáo huyện uỷ Quốc
Oai: Báo cáo viên cấp huyện có 47 người thì có 30% tốt, 30% khá và 40% trung
bình, kém.
Hiện nay các buổi học Nghị quyết ở huyện,xã, phường thường mời các đồng
chí lãnh đạo cơ quan ở huyện, tỉnh về giảng. Tuy họ có nhiều thơng tin nhưng chỉ

giỏi một lĩnh vực mà mình phụ trách, khơng có nhiều thời gian chuẩn bị bài, khơng
hiểu đối tượng và khơng nắm chắc tình hình địa phương. Nên việc truyền đạt kém
hiệu quả.

18
Học viên Hà Anh Sơn - K27B


Nguyên lý tuyên truyền

Ch¬ng 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, QUÁN TRIỆT CHỈ THỊ, NGHỊ QUYẾT
CỦA ĐẢNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HOÁ
3.1. Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ đảng,
chính quyền, sự phối hợp giữa đồn thể trong hệ thống chính trị trong việc
tun truyền, quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng
Đảng lãnh đạo xã hội bằng đường lối thông qua việc ban hành các nghị
quyết, chỉ thị của Đảng. Nghị quyết, chỉ thị có thể trở thành hiện thực trong cuộc
sống khi được cụ thể hố bằng các chính sách cụ thể của nhà nước, chương trình
hành động của mỗi cấp, mỗi ngành, từng cơ quan. Từ đó qua hoạt động thực tiễn
của các đồn thể trong hệ thống chính trị và các phương tiện thông tin đại chúng,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nghị quyết, chỉ thị của Đảng được truyền bá tới mọi
tầng lớp nhân dân, được họ tổ chứcthực hiện thành hiện thực trong cuộc sống. Vì
vậy nên tăng cường sự lẫnhđạo của Đảng, chính quyền, sự phối hợp của các đồn
thể trong hệ thống chính trị là một chỉnh thể thống nhất, một quy trình mang tính
cách mạng và khoa học đảm bảo cho nghị quyết, chỉ thị của Đảng được thực hiện
và đi sâu vào cuộc sống, đảm bảo vai trị lãnh đạo của đảng đối với tồn xã hội.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong việc tuyên truyền, quán triệt Nghị

quyết, chỉ thị của Đảng là nâng cao nhận thức của cấp uỷ Đảng về tầm quan trọng
của chỉ thị, nghị quyết. Nâng cao trách nhiệm của cấp uỷ Đảng trong toàn bộ các
khâu trong quy trình tổ chức thực hiện, triển khai tuyên truyền, quán triệt như: Xây
dựng kế hoạch triển khai tuyên truyền, quán triệt chỉ thị, nghị quyết, xây dựng
chương trình hành động thực hiện, hướng dẫn việc tổ chức tuyên truyền, quán triệt
chỉ thị, nghị quyết của Đảng ở các cấp các ngành và từng đoàn thể nhân dân. Mỗi
tổ chức cơ sở Đảng, từng cán bộ đảng viên phải thạt sự là tấm gương tiêu biểu
trong việc chấp hành và thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảngvà hướng dẫn, tập
hợp động viên mọi tầng lớp nhân dân thực hiện thắng lợi chỉ thị, nghị quyết của
Đảng. Năng động, sáng tạo trong tổ chức thực hiện, thường xuyên sơ kết, tổng kết
rút kinh nghiệm.
Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các đồn thể chính trị trong hệ thống
chính trị, các đồn thể cần xác định rõ trách nhiệm của đoàn thể mình trong việc
thực hiện. Trên cơ sở đó có kế kế hoạch phối hợp chặt chẽ giữa các đoàn thể thông
qua hành động cụ thể, thiết thực. Trước hết là sự phối hợp trong xây dựng kế hoạch
và chương trình hành động thực hiện Nghị quyết, chỉ thị của Đảng.
Để có sự phối hợp có hiệu quả cần đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cấp uỷ
Đảng các cấp, các ngành phải là người lãnh đạo, người chỉ huy, hướng dẫn, gắn kết
sự phối hợp giữa các đoàn thể trong việc tuyên truyền Nghị quyết. Đồng thời ở
19
Học viên Hà Anh Sơn - K27B


Nguyên lý tuyên truyền

trong mỗi đoàn thể nhất là người đứng đầu phải thấy rõ trách nhiệm của mình, nêu
cao tinh thần tự giác, chủ động, sáng tạo trong việc tuyên truyền, quán triệt chỉ thị,
nghị quyết của Đảng.
3.2. Nâng cao chất lượng đội ngũ báo cáo viên
Báo cáo viên là người làm công tác tuyên truyền miệng của Đảng, giữ vai

trò quan trọng trong việc truyền bá chỉ thị, nghị quyết của Đảng tới cán bộ, đảng
viên và tầng lớp nhân dân.
Sau khi Đảng có nghị quyết, chỉ thị thì để đến được với cán bộ, đảng viên và
nhân dân là chủ yếu thông qua hoạt động tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo
viên của Đảng. Thực tế cuộc sống thì mọi báo cáo viên đều phải và có thể làm
cơng tác tun truyền, qn triệt Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng. Song không phải
báo cáo viên nào cũng có thể làm một cách thực sự đúng đắn, sâu sắc và có hiệu
quả. Vì vậy nâng cao chất lượng đội ngũ Báo cáo viên là một nhiệm vụ quan trọng,
phải được tiến hành thường xuyên ở tất cả các cấp, các ngành, đối với tất cả báo
cáo viên chuyên nghiệp và kiêm chức bán chuyên nghiệp.
Nâng cao chất lượng đội ngũ Báo cáo viên cần bám sát tiêu chuẩn, yêu cầu
cần đạt tới của Báo cáo viên. Trước hết đội ngũ Báo cáo viên phải có bản lĩnh
chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với mục tiêu lý tưởng của Đảng, có nhiệt
tình cách mạng, say sưa với nghe nghiệp, ln ln nói đúng và nói trúng Nghị
quyết, Chỉ thị của Đảng. Các báo cáo viên phải được đào tạo một cách cơ bản về
chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh hiểu biết sâu sắc về cơng việc của
mình và thực tiễn cuộc sống. Có khả năng cụ thể hoá Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng
trong cuộc sống.
Báo cáo viên phải thật sự là tấm gương tiêu biểu về phẩm chất đạo đức, lối
sống và chun mơn nghiệp vụ, có uy tín trong cơng việc. Đồng thời phải có kiến
thức sư phạm sâu sắc kết hợp với năng khiếu bẩm sinh, biết chọn lựa và sử dụng
phương pháp tuyên truyền tốt, phù hợp với từng đối tượng để tuyên truyền chỉ thị,
nghị quyết của Đảng hiệu quả.
Báo cáo viên phải thường xuyên tự bồi dưỡng và được bồi dưỡng về lập
trường, quan điểm, đạo đức lối sống và chuyên môn nghiệp vụ, đảm bảo đủ về số
lượng, tinh về chất lượng, đáp ứng được yêu cầu cảu cách mạng trong từng thời kỳ
cụ thể đặt ra.
Để đạt được các yêu cầu nêu trên báo cáo viên các cấp phải được lựa chọn
một cách kỹ lưỡng, lấy tiêu chuẩn chính trị và chun mơn nghiệp vụ là chính.
3.3. Khơng ngừng đổi mới về hình thức, phương pháp tuyên truyền,

quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng
“Chủ trương một, biện pháp mười” khi đã có đường lối chính trị đúng đắn
thì vấn đề có ý nghĩa quyết định thắng lợi, đó là phương pháp. Phương pháp rất
20
Học viên Hà Anh Sơn - K27B


Nguyên lý tuyên truyền

phong phú, đa dạng, đúng hoặc chưa đúng. Vì thế nên đổi mới phương pháp, hình
thức tuyên truyền, quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng nhằm tìm ra phương
pháp tốt nhất. Đây là việc làm có tầm quan trọng đặc biệt góp phần đưa cơng tác
tun truyền chỉ thị, nghị quyết của Đảng đạt kết quả tốt nhất.
Đổi mới hình thức, phương pháp tuyên truyền, quán triệt chỉ thị, nghị quyết
của Đảng trước hết là đổi mới trong việc xây dựng kế hoạch, chương trình, đề
cương tuyên truyền. Tất cả phải được xây dựng trên những căn cứ khoa học cụ thể
là: Tinh thần cơ bản nội dung chỉ thị, nghị quyết; thực tiễn của từng địa phương, cơ
quan, đơn vị; đối tượng nghiên cứu học tập; thời gian cụ thể. Thực hiện tăng cường
đối thoại, trao đổi, thảo luận và viết bài thu hoạch trong quá trình tuyên truyền chỉ
thị, nghị quyết của Đảng nhất là với đội ngũ cán bộ công chức nhà nước. Kết hợp
chặt chẽ với các hiìnhthức khác như: Báo, đài phát thanh- truyền hình, tạp chí,
panơ áp phích, điển hình tiên tiến và các hình thức trực quan khác.
Mặt khác sau khi có chỉ thị, nghị quyết của Đảng thì các cấp uỷ Đảng cần
tập trung nghiên cứu và xây dựng chương trình hành động; biên tập lại Nghị quyết,
chỉ thị thành tài liệu tuyên truyền ngắn gọn, rõ nội dung, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực
hiện. Phát tài liệu trước để cán bộ, đảng viên và nhân dân tự nghiên cứu, tổ chức
lớp học tuyên truyền, giải đáp thắc mắc, đề xuất, kiến nghị.
Đồng thời phải bám sát tinh thần cơ bản, nội dung chính xun suốt tồn bộ
chỉ thị, nghị quyết; vận dụng căn cứ lý luận và thực tiễn để giải thích, cắt nghĩa,
làm sinh động sáng tỏ nội dung chỉ thị, nghị quyết đã đề ra. Tuỳ theo tình hình cụ

thể của mỗi địa phương, đối tượng tuyên truyền, lựa chọn nội dung, hình thức
tuyên truyền cho phù hợp, hiệu quả.
3.4. Nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tự giác của người được
tuyên truyền, quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng
Đây là vấn đề có vị trí, vai trị to lớn ảnh hưởng khơng nhỏ đến công tác
tuyên truyền, quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Tinh thần trách nhiệm, ý thức
của người học càng cao thì hiệu quả cơng tác tun truyền càng lớn. Ngược lại
người được tuyên truyền mà ý thức tự giác và tinh thần trách nhiệm thấp thì dù chỉ
thị, nghị quyết của Đảng có đúng đến mấy, báo cáo viên có chất lượng đến mấy thì
cuũngchỉ hiểu một cách lơ mơ, cắt xén, thậm chí cịn sai lệch, dẫn đến thiếu thống
nhất trong hành động và thực tiễn. Vì vậy nên chỉ thị, nghị quyết chậm đi vào cuộc
sống. Chính vì thế nên phải đề cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tự giác của người
học. Phỉa coi đây là nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền lợi của mọi cán bộ, đảng viên và
nhân dân.
Phải xác định rõ việc học tập chỉ thị, nghị quyết của Đảng là quyền lợi,
nghĩa vụ của tất cả mọi người, nhất là đối với đội ngũ báo cáo viên, cán bộ, đảng
viên. Người được tun truyền phải ln ln xác định cho mình tinh thần chủ
động, tích cực trong việc tìm tịi, nghiên cứu, học tập chỉ thị, nghị quyết của Đảng.
21
Học viên Hà Anh Sơn - K27B


Nguyên lý tuyên truyền

Biết vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn cuộc sống của bản thân, cơ quan,
cần thực hiện nghiêm túc các khâu trong quá trình học tập, tích cực trao đổi, thảo
luận, viết bài thu hoạch để củng cố, nâng cao chất lượng, nhận thức của bản thân
và khả năng vận dụng chỉ thị, nghị quyết vào thực tiễn cuộc sống.
Đồng thời người được tuyên truyền phải coi nâng cao tinh thần trách nhiệm,
ý thức tự giác trong học tập là một tiêu chuẩn đánh giá, bình xét thi đua hàng năm

đặc biệt là đối với đội ngũ công chức nhà nướccác cấp, cán bộ, đảng viên, người
đứng đầu trong hệ thống chính trị của Đảng. Từ đó cụ thể hố vào thực tiễn từng
địa phương, cơ quan, đơn vị.
3.5. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết công tác tuyên truyền,
quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng
Tuyên truyền, quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng thơng qua hình thức tổ
chức hội nghị là một khâu, một mắt xích quan trọng, là điểm khởi đầu để trang bị
nội dung cơ bản cho người nghe. Từ đó họ sẽ tiếp thu đầy đủ, đúng đắn tinh thần
chỉ thị, nghị quyết của Đảng và có nhận thức đúng đắn,niềm tin và hành động
đúng. Cịn nếu tuyên truyền không đầy đủ, sai lệch dẫn đến nhận thức sai, thiếu
niềm tin và hành động sai. Vì thế nên việc tuyên truyền đúng, sai, đầy đủ đều tác
động trực tiếp đến nhận thức và hành động của đối tượng được tuyên truyền. Và để
kiểm tra xem đúng, sai, đầy đủ hay chưa đầy đủ có nhiều kênh, song kênh quan
trọng hàng đầu là thông qua công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết.
Công tác kiểm tra, sơ kết và tổng kết là nhằm mục đích đánh giá cơng việc
đã làm, cái gì đã làm được, cái gì chưa làm được, chỉ ra nguyên nhân để từ đó rút
ra bài học kinh nghiệm, đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện hiệu quả
hơn trong thời gian tới.
Cơng tác sơ kết, tổng kết phải có nội dung bám sát với yêu cầu mà chỉ thị,
nghị quyết của Đảng đặt ra. Từ đó liên hệ, kiểm điểm rõ những yêu cầu cần đạt
được trong công tác tuyên truyền thơng qua hình thức tổ chức hội nghị.
3.6. Cần chăm lo về cơ sở vật chất, giải quyết thoả đáng chế độ đãi ngộ
đối với người đi tuyên truyền và đối tượng được tưyên truyền
Đây là điều kiện vật chất quan trọng và cần thiết đảm bảo cho công tác tuyên
truyền, quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng đạt hiệu quả. Nếu cơ sở vật chất lạc
hậu, yếu kém, chế độ đãi ngộ với người dạy học và học khơng đảm bảo thì sẽ ảnh
hưởng khơng tốt đến cơng tác tun truyền. Vì thế nên phải thường xun chăm lo
về cơ sơ vật chất và chế độ đãi ngộ cho người dạy và học ở tất cả các ngành, các
cấp mà nhất là ở cơ sở. Đây là một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao
chất lượng tuyên truyền trong điều kiện cụ thể hiện nay.


22
Học viên Hà Anh Sơn - K27B


Nguyên lý tuyên truyền

Cơ sở vật chất cho công tác tuyên truyền trước hết là phải đảm bảo đầy đủ,
kịp thời, chính xác, chính thống về các tài liệu tuyên truyền, học tập, trang thiết bị
như: Hội trường, âm ly, loa đài và những điều kiện cần thiết khác.
Chế độ đãi ngộ bao gồm: Đối với người đi tuyên truyền và người được tuyên
truyền, cần phải coi hai đối tượng này như nhau. Riêng đối với người đi tuyên
truyền đây là loại hình lao đơng đặc biệt, lao động trí óc, lao động phức tạp mà
không phải tất cả mọi người đều làm được và có kết quả tốt.
Đồng thời phải kết hợp chặt chẽ với tất cả các giải pháp khác thơng qua hệ
thống báo chí, phát thanh- truyền hình, cổ động để tạo sức mạnh tổng hợp đảm bảo
cho công tác tuyên truyền chỉ thị, nghị quyết đạt kết quả cao nhất và đi vào cuộc
sống.
Như vậy, tất cả các giải pháp trên là một chỉnh thể thống nhất có quan hệ
chặt chẽ với nhau, tác động và thúc đẩy lẫn nhau trong công tác tuyên truyền,
quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Thực hiện tốt các giải pháp trên sẽ góp
phần vào việc nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, quán triệt chỉ thị, nghị
quyết của Đảng trên địa bàn tỉnh, văn kiện đại hội Đảng các cấp, nghị quyết đại hội
Đảng bộ Tỉnh Thanh hố lần thứ XVI và Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ X của đảng
cộng sản Việt nam.
* Một số đề xuất:
Đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, nên
nhiệm vụ trong giai đoạn mới của Đảng, xác định cần “nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn
dân tộc, đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước ta thốt khỏi

tình trạng kém phát triển”. Mà yếu tố hàng đầu là phải biến chỉ thị, nghị quyết của
Đảng đi vào cuộc sống. Để làm tốt điều đó tác giả xin đề xuất một số khuyến nghị
sau:
Thứ nhất: Các cấp uỷ Đảng phải nhận thức rõ tầm quan trọng và trách nhiệm
của mình trong tuyên truyền chỉ thị, nghị quyết của Đảng đến cán bộ, đảng viên và
nhân dân. Ở đầu cấp quan tâm, có trách nhiệm thì ở đó sẽ khắc phục được khó
khăn, tìm được biện pháp để tổ chức thực hiện tốt.
Thứ hai: Phải đổi mới mạnh mẽ công tác tuyên truyền chỉ thị, nghị quyết
của Đảng như: Đổi mới từ lớp học với nhiều loại đối tượng khác nhau, có phương
pháp, nội dung truyền đạt phù hợp với đối tương.
Thứ ba: Cần phải thường xuyên chăm lo cho đội ngũ báo cáo viên, nhằm
nâng cao năng lực, trình độ, phẩm chất cách mạng cho đội ngũ này. Như vậy mới
đảm bảo được tính chiến đấu, tính thuyết phục trong khi truyền đạt. Đồng thời
nắm bắt tâm tư, vướng mắc để giải đáp kịp thời chủ trương, chính sách, nâng cao
23
Học viên Hà Anh Sơn - K27B


Nguyên lý tuyên truyền

lòng tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân và sự đồng thuận của toàn xã hội thông
qua các chỉ thị, nghị quyết của Đảng.
Thứ tư: Học phải đi đơi với hành, nói phải đi đơi với làm. Cần phải tổ chức
thực hiện tốt chỉ thị, nghị quyết của Đảng ở địa phương mình, phải tạo sự chuyển
biến sau mỗi lần học.
Thứ năm: Cần tăng cường công tác tổng kết thực tiễn trong quá trình tuyên
truyền, quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Đồng thời kịp thời làm sáng tỏ
những vấn đề mà cuộc sống đặt ra, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng.
Trên đây là một số đề xuất về giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
tuyên truyền chỉ thị, nghị quyết của Đảng đối với tỉnh Thanh hố nói riêng và đối

với cả nước nói chung mà bản thân đưa ra nhằm giải quyết thực trạng vấn đề học
tập chỉ thị, nghị quyết hiện nay.

24
Học viên Hà Anh Sơn - K27B


Nguyên lý tuyên truyền

KẾT LUẬN
Đảng cộng sản Việt nam với bản chất cách mạng và tư duy chính trị nhạy
bén đã khởi xướng và tiến hành công cuộc đổi mới một cách toàn diện và sâu sắc
trên các lĩnh vực, cả về đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới cơ cấu kinh tế, đổi mới
quan hệ kinh tế đối ngoại và cải cách nền hành chính quốc gia. Gắn kết các nội
dung đổi mới và để đảm bảo cho q trình đổi mới là q trình hồn thiện hệ thống
pháp luật, cơ chế quản lý… Chính điều này khơng chỉ đảm bảo phát huy được nội
lực của đất nước, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân mà còn tạo tiền đề bên
trong nhân tố quyết định cho tiến trình hội nhập với bên ngồi. Để đạt được những
thành quả đó có sự đóng góp khơng nhỏ của công tác tuyên truyền, quán triệt nghị
quyết, chỉ thị của Đảng trong từng thời kỳ cụ thể.
Tuy nhiên qua nghiên cứu thực tiễn thì dư luận cán bộ, đảng viên và nhân
dân vẫn chưa thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng đề ra. Vì vậy mà phải
đổi mới công tác tuyên truyền nhằm nâng cao chất lượng việc quán triệt và tổ chức
thực hiện nghị quyết Đại hội đảng, nghị quyết kết luận các hội nghị trung ương và
nghị quyết, chỉ thị của Bộ chính trị, ban bí thư, nghị quyết của đại hội, của các cấp
uỷ.
Đổi mới nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, quán triệt nghị quyết,
chỉ thị của Đảng nhằm tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ cả về nhận thức, tư tưởng
của hành động, gắn việc tuyên truyền , quán triệt với việc tổ chức thực hiện, đưa
nghị quyết , chỉ thị của Đảng vào cuộc sống . Điều đó địi hỏi phải đổi mới đồng bộ

ở các cấp uỷ Đảng, ở các khâu, các quy trình đến đưa Nghị quyết, chỉ thị vào cuộc
sống.
Do những điều kiện khách quan cụ thể, đề tài khơng tránh khỏi những thiếu
sót, khuyết điểm. Vì vậy rất mong các thầy cơ giáo đóng góp ý kiến để nội dung
của đề tài hồn chỉnh hơn. Góp phần vào sự nghiệp chung của đất nước trong thời
kỳ hội nhập nền kinh tế thị trường và cụ thể hoá các nghị quyết, chỉ thị của Đảng
vào trong cuộc sống.

25
Học viên Hà Anh Sơn - K27B


×