Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

LUẬN ÁN: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền các xã miền núi đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh Bắc Giang hiện nay pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (813.62 KB, 115 trang )







LUẬN ÁN:
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
chính quyền các xã miền núi đặc biệt khó khăn trên
địa bàn tỉnh Bắc Giang hiện nay


Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đội ngũ cán bộ công chức chính quyền cấp xã ở vùng dân tộc và miền núi có
vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống
của cộng đồng dân cư.
Đảng, Nhà nước luôn chăm lo giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất
lượng của đội ngũ cán bộ cấp xã vùng dân tộc và miền núi. Ngay từ những ngày đầu
cách mạng, Đảng ta đã chăm lo xây dựng lực lượng, đào tạo, bồi dưỡng và rèn luyện
cán bộ, trong có đội ngũ cán bộ dân tộc và miền núi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy:
"Cán bộ là cái gốc của mọi công việc" và "huấn luyện cán bộ là công việc gốc của
Đảng".
Từ sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI (tháng 12 năm 1986) nền
kinh tế nước ta từng bước chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường. Giữa các
vùng trong cả nước có sự khác biệt về trình độ phát triển kinh tế - xã hội.
Nhằm mục tiêu nâng cao nhanh đời sống vật chất tinh thần cho đồng bào cấp
xã đặc biệt khó khăn vùng sâu, vùng xa, tạo điều kiện để đưa nông thôn các vùng


này thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển và hòa nhập vào sự
phát triển chung của cả đất nước, Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chính sách ưu tiên,
quan tâm đặc biệt đối với sự phát triển của cấp xã miền núi. Để thực hiện thắng lợi
các chính sách đó, vấn đề chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở có ý nghĩa quyết định.
Tại Hội nghị lần 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã khẳng
định: "Cán bộ là nhân tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng, gắn liền với
vận mệnh của Đảng, của đất nước, của chế độ".
Theo chủ trương của Đảng, chúng ta đang tiếp tục thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược là xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.

Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành nước
công nghiệp, có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản
xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật
chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh. Từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta trở thành
một nước công nghiệp.
Văn kiện Hội nghị 7 Ban Chấp hành Trung ương 9 đặt ra mục tiêu cụ thể về
phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống đồng bào các dân tộc.
"Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tại chỗ có phẩm chất và năng lực đáp ứng
được yêu cầu của địa phương, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững
mạnh" [26, tr.36].
Xã, phường, thị trấn là một cấp trong hệ thống hành chính 4 cấp của Nhà
nước Việt Nam, là nơi gần dân nhất và trực tiếp đưa đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào đời sống. Chính quyền cấp xã là cầu nối giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân. Mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước đều được tổ chức thực hiện ở cơ sở.
Vì vậy, chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp
xã ảnh hưởng trực tiếp đến sức mạnh của hệ thống chính trị ở cơ sở, tác động trực tiếp
đến sự nghiệp cách mạng và đổi mới của Đảng và Nhà nước.

Tại Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã xác
định:
Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động
nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công
tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng,
không ức hiếp dân, trẻ hóa đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng,
giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở [25, tr.167-
168].
Bắc Giang là tỉnh nghèo có 44 xã miền núi đặc biệt khó khăn, có nhiều dân
tộc, tôn giáo cùng sinh sống địa bàn, có vị trí địa lý phức tạp. Mặc dù đã được Đảng,
Nhà nước có nhiều chính sách ưu đãi về phát triển kinh tế - xã hội, nguồn nhân lực

nhằm đưa các xã này thoát khỏi tình trạng nghèo đói nhưng do sự thiếu hụt trầm trọng
và yếu kém của đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và đội ngũ cán bộ cơ sở nói riêng
trong triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội nên hiệu quả thu được qua việc thực hiện các chính sách này là chưa cao.
Trong những năm qua việc tổng kết, đánh giá đưa ra các giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức chậm được tiến hành, chưa
có các giải pháp đồng bộ phù hợp với đặc thù đối với đội ngũ cán bộ công chức của
tỉnh nói chung, cán bộ, công chức chính quyền cấp xã vùng núi đặc biệt khó khăn
nói riêng.
Với lý do đó tác giả chọn đề tài: "Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức chính quyền các xã miền núi đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
hiện nay".
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề nâng cao chất lượng và quản lý đội ngũ cán bộ công chức được nhiều
nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Đặc biệt, đề cập đến vấn đề cán bộ công chức chính
quyền cấp xã có các công trình, các bài viết của các tác giả:
Lê Đình Chếch: Về Nhà nước xã hội chủ nghĩa và công tác cán bộ chính quyền
cấp xã ở Hải Hưng, Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 1994.

PGS.TS Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS Trần Xuân Sầm chủ biên: Luận cứ khoa học
cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
TS Thang Văn Phúc và TS Chu Văn Thành đồng chủ biên: Chính quyền cấp xã
và quản lý nhà nước cấp xã của Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước, Ban Tổ chức Cán
bộ Chính Phủ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
TS Nguyễn Văn Sáu và GS Hồ Văn Thông chủ biên: Cộng đồng làng xã Việt
Nam hiện nay, của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2001; Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
Nguyễn Thị Hậu: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức chính quyền cấp xã
ở tỉnh Phú Thọ hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2003.
Mạc Minh Sản: Hoàn thiện pháp luật về cán bộ chính quyền cấp cơ sở theo yêu
cầu xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà
Nội, 2003.

PGS Hà Quang Ngọc: Đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở: thực trạng và giải
pháp, Tạp chí Cộng sản số 2/1999.
GS.TSKH Vũ Huy Từ: Một số giải pháp tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ cơ
sở, Tạp chí Quản lý nhà nước số 5/2002.
Th.S Dương Hương Sơn, Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chính
quyền cấp xã ở tỉnh Quảng Trị hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, 2004.
Những tài liệu trên của các tác giả là nguồn tư liệu quý có giá trị tham khảo, kế
thừa để chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài của mình.
Những công trình nói trên mới đề cập tới những vấn đề chung về cán bộ, công
chức hay cán bộ, công chức cấp xã, hoặc chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu đối với đội
ngũ cán bộ, công chức của một tỉnh, thành phố. Trong khi đó, đối với một tỉnh có nhiều
đặc thù như ở Bắc Giang, việc nghiên cứu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công
chức cấp xã vẫn chưa có tác giả nào đầu tư nghiên cứu một cách cơ bản và hệ thống

dưới giác độ Luật học. Vì vậy tác giả mạnh dạn nghiên cứu vấn đề này với lòng mong
muốn góp phần nhỏ bé vào luận giải những vấn đề mà lý luận và thực tiễn đã và đang
đặt ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Luận văn nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã miền núi đặc biệt khó khăn ở tỉnh Bắc
Giang.
Nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về cán bộ công chức chính quyền cấp xã, chất
lượng đội ngũ cán bộ công chức chính quyền cấp xã thuộc khu vực miền núi đặc biệt
khó khăn trên cơ sở hệ thống hóa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh của Đảng và quy định của Nhà nước ta.
- Phân tích làm rõ thực trạng đội ngũ cán bộ công chức chính quyền cấp xã của
cấp xã miền núi đặc biệt khó khăn của tỉnh Bắc giang qua đó rút ra những vấn đề cần
giải quyết.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức
chính quyền cấp xã vùng núi đặc biệt khó khăn nhằm đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Giang và xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền các xã
miền núi đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh Bắc Giang từ năm 1999 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp
phân tích, tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội học và một số phương pháp khác.
6. Đóng góp về lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Đóng góp về lý luận:
- Góp phần hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh của Đảng và Nhà nước về cán bộ, công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ
công chức chính quyền cấp xã vùng núi, vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn.
- Đánh giá đúng thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ công chức chính quyền cấp
xã miền núi đặc biệt khó khăn và quá trình xây dựng đội ngũ này trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức
chính quyền cấp xã miền núi đặc biệt khó khăn.
ý nghĩa thực tiễn của luận văn:
- Luận văn có thể cung cấp thêm các luận cứ khoa học giúp các cấp lãnh đạo của
tỉnh Bắc giang trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ công chức chính quyền cấp xã
vùng núi đặc biệt khó khăn.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy và nghiên cứu ở
Trường Chính trị tỉnh, các Trung tâm chính trị huyện, ủy ban Dân tộc miền núi hoặc làm tài
liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.

Chương 1
Cơ sở lý luận về chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền các xã miền núi
đặc biệt khó khăn

1.1. chính quyền cấp xã và vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của chính quyền cấp xã
1.1.1.1. Khái niệm chính quyền cấp xã
Theo quy định của Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, chính
quyền cấp xã (xã, phường, thị trấn) là một cấp cuối cùng trong hệ thống hành chính 4
cấp. Xã, phường, thị trấn được xác định là cấp cơ sở. Vì vậy, cấp xã chính là nền tảng
của hệ thống chính trị, đóng vai trò thiết thực trong việc xây dựng chủ trương, đường lối

của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, là yếu tố quyết định sự thành công của
sự nghiệp cách mạng nước ta. Chính quyền cấp xã bao gồm HĐND và UBND, trong đó
HĐND "là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương đại diện cho ý chí, nguyện vọng
và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước
nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên". Còn UBND do HĐND bầu, là cơ
quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách
nhiệm trước HĐND cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên.
Xuất phát từ vị trí của chính quyền cấp xã trong hệ thống chính trị nên nó có vai
trò rất quan trọng trong cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước của nhân dân. Có thể
khẳng định chính quyền cấp xã là cầu nối quan trọng giữa Đảng, Nhà nước với nhân
dân.
- Chính quyền cấp xã là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, cấp xã nói chung là cơ sở thực tiễn cho
việc xây dựng và kiểm nghiệm tính đúng đắn của đường lối chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước trong cuộc sống.
- Chính quyền cấp xã là nơi trực tiếp giải quyết các yêu cầu của nhân dân.
Trong thực tế cuộc sống, khi cần có sự can thiệp của chính quyền, thì nơi người dân tìm
đến đầu tiên chính là chính quyền cơ sở. Điều này đã đúc rút thành câu thành ngữ
"Quan thì xa, bản nha thì gần". Chính quyền cấp xã cũng là nơi trực tiếp đưa ra các giải

pháp cần thiết theo thẩm quyền để giải quyết những yêu cầu chính đáng của người dân,
tạo điều kiện cho người dân có cuộc sống bình yên, thực hiện có hiệu quả các quyền và
nghĩa vụ của mình trước nhà nước và cộng đồng.
- Chính quyền cấp xã là nơi trực tiếp quyết định các vấn đề kinh tế - xã hội ở
địa phương. Tính hiệu quả trong hoạt động quản lý nhà nước của chính quyền cấp xã
đóng vai trò quan trọng, chủ yếu trong việc cung cấp các dịch vụ công phục vụ nhân
dân và bộ máy nhà nước. Từ đó, chính quyền cấp xã giúp cho cơ quan nhà nước cấp
trên có những căn cứ để hoạch định các chính sách phát triển kinh tế - xã hội sát với
yêu cầu của đời sống thực tế.
- Chính quyền cấp xã là nơi trực tiếp nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân

địa phương để kịp thời phản ánh với cơ quan nhà nước cấp trên, giúp Nhà nước đề ra
các biện pháp phù hợp với đặc điểm của mỗi địa phương. Thực tế ở một số địa phương
như Thái Bình, Tây Nguyên cho thấy, nếu không đi sâu sát nắm bắt nguyện vọng của
nhân dân sẽ nảy sinh nhiều vấn đề rất phức tạp, dễ bị kẻ xấu lợi dụng, gây chia rẽ trong
nội bộ nhân dân, phá vỡ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân.
Chính quyền cấp xã là trung tâm của hệ thống chính trị ở cơ sở; là địa bàn gắn
trực tiếp nhất với cuộc sống nhân dân. Tất cả các tổ chức quyền lực nhà nước cấp trên
cuối cùng đều phải thông qua vai trò của hệ thống chính quyền cấp xã và nếu không có
chính quyền cơ sở vững mạnh các tổ chức chính quyền cấp trên khó có thể phát huy tác
dụng. Các quan hệ của nhân dân với Đảng, với Nhà nước thể hiện trước hết và trực tiếp
thông qua quan hệ của nhân dân với chính quyền cấp xã. Sức mạnh của hệ thống chính
trị được chứng minh qua sức mạnh của chính quyền cơ sở. Cơ sở và chính quyền cơ sở
là yếu tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp đổi mới của cả nước nói chung và công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng.
Như vậy, chính quyền cấp xã là trung tâm của hệ thống chính trị cơ sở, là một
trong các cấp chính quyền của nhà nước ta, bao gồm HĐND và UBND là những cơ
quan quyết định và tổ chức thực hiện những chủ trương, biện pháp liên quan đến phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và đời sống của nhân dân ở địa
phương theo quy định của Hiến pháp, pháp luật.
1.1.1.2. Đặc điểm của chính quyền cấp xã

Một là, chính quyền cấp xã là cấp cơ sở trực tiếp tiếp xúc với nhân dân. Cán bộ,
công chức cấp xã thực hiện quan hệ công tác không chỉ với tư cách là người thực thi
quyền lực nhà nước mà còn là người trong mối quan hệ gia tộc và xóm làng lâu đời. Là
người trực tiếp hàng ngày giải quyết các vấn đề liên quan đến lợi ích thiết thực của đời
sống của nhân dân, cán bộ cấp xã phải đạt được: một mặt, đúng chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước; mặt khác, phải thấu tình đạt lý trong quan hệ xóm làng. Sự
nghiệp đổi mới, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước làm cho bộ mặt nông
thôn thay đổi từng ngày trên các lĩnh vực đòi hỏi cán bộ chính quyền cấp xã phải có tư
duy mới, trình độ và kiến thức mới về chính trị, kinh tế, khoa học - kỹ thuật, quản lý.

Hai là, tổ chức bộ máy của chính quyền xã khác với các đơn vị hành chính cấp
trên; ở xã chỉ có HĐND và UBND thực hiện việc quản lý địa phương. Trong đó HĐND
là cơ quan quyền lực nhà nước, là cơ quan đại diện cho ý tchí và nguyện vọng của nhân
dân địa phương và UBND là cơ quan chấp hành và đồng thời là cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương mà không có các cơ quan tư pháp: Viện kiểm sát và Tòa án. Vì thế,
chính quyền cấp xã phải quản lý nhà nước về kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc
phòng theo thẩm quyền do pháp luật quy định.
Ba là, chính quyền cấp xã là cấp thấp nhất, trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ cụ
thể, là cấp đưa chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tế
cuộc sống. Ngoài việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp xã nói chung,
chính quyền cấp xã còn phải căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương mình chủ
động đưa ra các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân trong việc thực
hiện đường lối, chính sách của Đảng; vận động nhân dân nghiêm chỉnh chấp hành pháp
luật; chủ động đưa những tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất để tăng năng suất
lao động, phát triển ngành nghề mới, tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm của địa phương,
giải quyết việc làm, cải thiện đời sống của nhân dân địa phương.
1.1.1.3. Phân loại các đơn vị hành chính cấp xã
Cấp xã là cấp cuối cùng trong hệ thống hành chính 4 cấp. Tính đến tháng 10
năm 2002 nước ta có 8.971 xã [38, tr.6].
Qua 15 năm đổi mới chúng ta đã thu được nhiều thành tựu về kinh tế. Nó là nền
tảng cho việc đổi mới hệ thống chính trị, trong đó có đổi mới tổ chức và hoạt động của

chính quyền cơ sở. Đổi mới hệ thống chính trị trở thành xúc tác, động lực cho đổi mới
kinh tế thu được kết quả. Một trong những yếu tố góp phần nâng cao vai trò của chính
quyền cơ sở trong việc quản lý xã hội là Đảng, Nhà nước ta đã xác định được tiêu chí
phân loại đơn vị hành chính cấp xã trên cơ sở các điều kiện tự nhiên, xã hội, địa lý,
phong tục, tập quán.
Theo Nghị quyết số 22 - NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 27-11-1989 về một số
chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi thì cấp xã được phân loại
thành:

- Các xã miền xuôi.
- Các xã miền núi: biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa.
Việc phân chia này có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện chính sách dân
tộc và miền núi của Đảng và Nhà nước ta.
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm nhiều dân tộc cùng sinh sống, kề vai
sát cánh với nhau trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Các dân tộc thiểu số
nước ta cư trú xen kẽ trên địa bàn rộng lớn, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về
chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng và bảo vệ môi trường sinh thái. Mỗi dân tộc có
sắc thái văn hóa riêng, góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú của nền văn hóa Việt
Nam thống nhất.
Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta luôn
xác định vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng trong sự nghiệp cách mạng nước
ta. Đảng ta luôn nghiên cứu những đặc trưng, cơ bản của khu vực miền núi - nơi sinh
sống của phần lớn đồng bào dân tộc thiểu số nhằm đưa ra chủ trương chính sách phát
triển kinh tế - xã hội, xây dựng chính quyền cơ sở phù hợp đối với khu vực này.
Trong bài phát biểu tại Hội nghị cán bộ miền núi ngày 1-6-1962 Hồ Chí Minh
nhấn mạnh: "Miền núi đất rộng, người thưa, tình hình vùng này không giống tình hình
vùng khác. Vì vậy, áp dụng chủ trương chính sách phải sát với tình hình thực tế ở mỗi
nơi " [34, tr.608].
Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước về việc ưu tiên phát triển khu vực miền
núi, đời sống kinh tế - xã hội khu vực miền núi đã có những chuyển biến nhất định. Tuy
nhiên, những tiến bộ đó nhìn chung còn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của bản thân
các vùng miền núi và của cả nước. Có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân quan

trọng nhất là những đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của miền núi chưa được khai thác
đầy đủ.
Trong Nghị quyết số 22 - NQ/TW ngày 27-11-1989 của Bộ Chính trị về một số chủ
trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi xác định:
Phát triển kinh tế xã hội miền núi là một bộ phận hữu cơ của chiến lược
phát triển kinh tế quốc dân Việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện những chủ

trương chính sách chung ở miền núi phải tính đầy đủ đến những đặc điểm về
tự nhiên, lịch sử, kinh tế - xã hội, văn hóa, phong tục tập quán của miền núi
nói chung và của riêng từng vùng, từng dân tộc, trong việc này cần đặc biệt
nhấn mạnh vai trò năng động sáng tạo của địa phương và cơ sở [1, tr.1,2,5].
Để cụ thể hóa Nghị quyết số 22/NQTW ngày 27-11-1989 của Bộ Chính trị,
Chính phủ ra Công văn 7189/QĐ-CP ngày 14-12-1995 kèm theo Công văn số 845-
UB/TH ngày 6-12-1995 của ủy ban Dân tộc và miền núi công bố tiêu chí 3 khu vực
miền núi, vùng cao.
Trên cơ sở đó ngày 8-1-1996 ủy ban Dân tộc và miền núi ban hành Thông tư số
41/UB-TT quy định và hướng dẫn thực hiện tiêu chí từng khu vực ở vùng dân tộc -
miền núi.
Theo thông tư này các xã miền núi được hiểu như sau:
Đơn vị hành chính xã miền núi là toàn xã hoặc 70% số thôn, bản của xã đó là
miền núi. Đại bộ phận đất đai là đồi núi cao, dốc, có nơi rất dốc và cao nguyên, địa bàn
đa dạng phức tạp, có nhiều sông tạo thành độ chia cắt lớn, là nơi sinh sống chủ yếu của
các dân tộc thiểu số đó là miền núi.
Tiêu chí để xác định một xã là xã miền núi cụ thể như sau:
- Hai phần ba (2/3) diện tích đất đai của đơn vị có độ dốc 25
0
trở lên (là rừng và
đất rừng).
- Kinh tế - xã hội chậm phát triển so với đồng bằng.
- Đất đai sản xuất vừa có ruộng nước (thung lũng bằng, bậc thang) vừa có sản
xuất trên đất dốc.
- Đời sống có nhiều khó khăn, giao thông đi lại không thuận lợi như đồng bằng.
- Cư dân là dân tộc thiểu số và dân tộc đa số sống xen ghép hoặc các dân tộc
thiểu số sống ghép với nhau hoặc sống riêng từng dân tộc trên một địa bàn miền núi.

Do bị chi phối bởi yếu tố địa lý tự nhiên, kinh tế - xã hội đặc thù nên các xã
miền núi ở nước ta có những nét khác biệt so với các xã vùng đồng bằng và đô thị biểu

hiện qua các đặc điểm sau đây:
- Các xã miền núi được hình thành bởi cộng đồng dân cư đa sắc tộc. Trên phạm vi
địa bàn xã có nhiều dân tộc thiểu số cùng sinh sống. Điều đó cũng tác động đến cơ cấu đội
ngũ cán bộ trong chính quyền. Chính quyền cấp xã miền núi còn phải thường xuyên tiếp
nhận, giải quyết những vấn đề dân tộc .
- Các xã miền núi được phân bố trên địa bàn hết sức rộng lớn nhưng chủ yếu là
đồi núi, đất canh tác chiếm tỷ lệ thấp, lũ lụt, hạn hán cùng với nạn phá rừng đầu nguồn
làm đất đai bị xói mòn, kém màu mỡ, điều kiện tự nhiên rất phức tạp, thách thức lớn
cho chính quyền địa phương trong tổ chức, thực hiện phát triển kinh tế - xã hội.
- Các xã miền núi có đội ngũ cán bộ chính quyền tương đối ổn định và trình độ
hạn chế hơn so với các xã miền xuôi và đô thị, đa số chỉ có trình độ văn hóa cấp I và
cấp II, hầu hết cán bộ cấp xã chưa được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ.
Tuyệt đại đa số cán bộ xã ở những xã đặc biệt khó khăn ở vùng miền núi phía Bắc là người
dân tộc thiểu số và cán bộ nữ chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Điều đó dẫn đến nhiều hạn chế trong việc
nâng cao năng lực của mình.
- Các xã miền núi là những nơi có địa hình phức tạp, đồi núi hiểm trở, là những
nơi trọng yếu của công tác an ninh. Vì vậy chính quyền các xã miền núi phải rất chú
trọng đến vấn đề an ninh.
- Trình độ dân trí của nhân dân các xã miền núi thấp, kết cấu hạ tầng còn yếu
kém. Nhiều nơi từ huyện đến xã xa tới 70-80km vẫn phải đi bộ. Tỷ lệ mù chữ vẫn còn
rất cao, cơ sở khám chữa bệnh, học tập, số giáo viên phổ thông, cán bộ y tế và văn hóa
còn rất thiếu thốn. Vì vậy, việc triển khai đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, của chính quyền địa phương gặp rất nhiều khó khăn do trình độ dân trí thấp
và ảnh hưởng nặng của phong tục tập quán cổ truyền.
Tính đến hết năm 1999 nước ta có 4100 xã miền núi.
Trong suốt quá trình phát triển và trong mỗi bước đi của công cuộc đổi mới đất
nước, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, giải pháp xã hội đối với miền núi
và đồng bào các dân tộc thiểu số. Các cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp đã có nhiều
cố gắng trong tổ chức, chỉ đạo; đồng bào các dân tộc đã tích cực hưởng ứng và tích cực


thực hiện các chủ trương, chính sách đó, đã tạo được những kết quả đáng mừng. Vai trò
chính quyền các cấp nói chung, chính quyền cấp xã nói riêng ngày càng được phát huy
trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Tuy nhiên, do đặc điểm tự nhiên, điểm xuất phát kinh tế - xã hội của từng vùng
khác nhau, tác động của cơ chế thị trường đã tạo ra sự khác biệt không đồng đều giữa
các địa phương. Trên cơ sở đó Đảng, Nhà nước ta đã đưa ra tiêu chí phân định các xã
miền núi thành 3 khu vực theo trình độ phát triển để từ đó có những chính sách phát
triển kinh tế - xã hội phù hợp với từng vùng, từng bước rút ngắn khoảng cách phát triển
giữa miền núi và miền xuôi.
- Khu vực I: đó là khu vực bước đầu phát triển.
- Khu vực II: khu vực tạm ổn.
- Khu vực III: khu vục khó khăn.
Trong Báo cáo Chính trị Đại hội VIII của Đảng đã chỉ rõ:
Giành nguồn lực thích đáng cho việc giải quyết những nhu cầu cấp
bách, đặc biệt là vấn đề kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, để vùng còn kém
phát triển, nhất là vùng cao, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc ít
người, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng có bước tiến nhanh hơn, dần dần
giảm bớt sự chênh lệch quá lớn về trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa
các vùng, coi đây là một trọng tâm chỉ đạo của các ngành, các cấp [21, tr.90].
Từ những vấn đề trên đây là cơ sở lý luận và thực tiễn để chúng ta xây dựng tiêu
chí, xác định từng khu vực với những đặc trưng về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, từ đó
có chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với từng khu vực, đáp ứng
nhiệm vụ thời kỳ CNH, HĐH đất nước.
Tại Thông tư 41/UB-TT ngày 8-1-1996 của ủy ban Dân tộc miền núi quy định
và hướng dẫn thực hiện tiêu chí từng khu vực ở vùng dân tộc và miền núi dựa vào 5 tiêu
chí: điều kiện tự nhiên và địa bàn dân cư; cơ sở hạ tầng; các yếu tố xã hội, điều kiện sản
xuất; đời sống. Thông qua quá trình dân chủ, công khai bình chọn từ nhân dân, các địa
phương đã xác định vùng dân tộc, miền núi thành 3 khu vực theo trình độ phát triển
trong đó khu vực III là khu vực khó khăn nhất và được gọi là các xã MNĐBKK.
Các xã MNĐBKK là các xã có các điều kiện sau:


- Là các xã miền núi mà khoảng cách của các xã đến khu trục động lực phát
triển trên 20 km.
- Cơ sở hạ tầng chưa được xây dựng hoặc còn tạm bợ. Giao thông rất khó khăn,
không có đường ô tô vào xã, các công trình điện, thủy lợi, nước sạch, trường học, bệnh
xá, dịch vụ khác rất thấp kém hoặc không có.
- Các yếu tố xã hội chưa đạt mức tối thiểu, dân trí quá thấp, tỷ lệ mù chữ và thất
học trên 60%, bệnh tật nhiều, tập tục lạc hậu, không có thông tin
- Điều kiện sản xuất rất khó khăn, thiếu thốn. Sản xuất mang tính tự nhiên hái
lượm, chủ yếu phát rừng làm nương rẫy, du canh du cư.
- Số hộ đói nghèo trên 60% số hộ của xã: Đời sống thực sự khó khăn, nạn đói
thường xuyên xảy ra.
Theo số liệu điều tra của Viện Nghiên cứu Kinh tế và phát triển, tính đến hết
năm 1999 cả nước ta có 1715 xã/ 4100 xã được xếp vào các xã MNĐBKK [41, tr.3].
Các xã này đang tồn tại những khó khăn mang tính đặc thù sau:
- Kinh tế: Mang tính tự cấp, tự túc, chưa chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi,
rất ít sản phẩm hàng hóa, thiếu đất canh tác, không có nước sinh hoạt, khí hậu khắc
nghiệt. Đồng bào phải làm ăn sinh sống trong điều kiện rất nghiệt ngã để tồn tại.
- Đời sống: cực kỳ khó khăn, tỷ lệ đói nghèo cao nhất so với các vùng trong cả
nước. Hàng năm, các địa phương này vẫn phải giải quyết cứu đói cho một bộ phận dân
cư vào lúc giáp hạt, khi gặp thiên tai.
- Cơ sở hạ tầng mới sơ khai: còn gần 700 xã chưa có đường ô tô đến trung
tâm (tính đến hết 1999), hầu hết chưa có điện lưới, chưa dùng nước sạch, trường học,
trạm xá còn sơ sài, các cơ sở khuyến nông, khuyến lâm, thương nghiệp quốc doanh
chưa đáp ứng được yêu cầu cấp thiết về sản xuất và đời sống.
- Trình độ dân trí: thấm kém, số người mù chữ, thất học chiếm trên 60%, có nơi
80% đến 90%. Một số bệnh sốt rét biếu cổ vẫn chiếm tỷ lệ cao, đời sống văn hóa - xã hội
cộng đồng chậm được cải thiện, thông tin liên lạc, truyền thanh, truyền hình chưa đến được
với người dân, trình độ cán bộ cơ sở rất non yếu, đa số mới ở trình độ cấp I, cấp II. Một số
người chưa nói được tiếng phổ thông, ảnh hưởng lớn đến việc lãnh đạo, chỉ đạo mọi mặt

ở địa phương.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn đã được phân tích cho thấy Đảng, Nhà nước ta
cần tiếp tục xây dựng chương trình phát triển kinh tế - xã hội đối với các xã khu vực này

đồng thời có các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ
công chức chính quyền cấp xã nói riêng có đủ năng lực để triển khai đường lối, chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước vào trong thực tiễn cuộc sống, từng bước nâng cao đời
sống sinh hoạt cho đồng bào.
1.1.2. Khái niệm và vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức chính
quyền cấp xã
1.1.2.1. Khái niệm đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
- Nước ta khi bước vào thời kỳ mới vừa đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, vừa xây dựng và hoàn chỉnh Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vừa tiến
hành xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Chính vì vậy, chúng ta
cần phải xây dựng một đội ngũ cán bộ có chất lượng đồng bộ, phù hợp với những
yêu cầu mới đặt ra, đặc biệt là đội ngũ CBCC CQCX.
Để làm được điều đó trước hết chúng ta cần phải làm rõ khái niệm về đội ngũ
CBCC CQCX.
Thứ nhất: Quan niệm về CBCC CQCX
* Quan niệm về cán bộ: Từ "cán bộ" xuất hiện trong đời sống xã hội nước ta
khoảng mấy chục năm gần đây; được dùng phổ biến trong thời kỳ kháng chiến chống
Pháp. Từ đó đến nay từ "cán bộ" được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau: có nhiều
từ điển có khái niệm "cán bộ" nhưng tựu chung lại có thể quan niệm một cách chung
nhất: "Cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương vị nòng cốt
trong một tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ
trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng sự phát triển của tổ
chức" [39, tr.20].
* Quan niệm về công chức:
Nhiều quốc gia quan niệm công chức là những nhân viên công tác, được hưởng
lương ngân sách, bị quy định bởi quy chế hoặc luật công chức, là người làm việc trong

hệ thống chính quyền nhà nước.
Công chức là bộ phận rất quan trọng trong nền hành chính quốc gia. Tuy nhiên,
do đặc điểm cấu trúc của hệ thống chính trị nước ta nên quan niệm về công chức ở Việt
Nam cũng có đặc thù.

Trong một số nghị quyết của Đảng cũng như một số văn bản pháp quy, mặc dù
chưa ra định nghĩa rõ ràng nhưng đã có đề cập đến khái niệm về công chức. Theo Pháp
lệnh cán bộ công chức 1998 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2000 và 2003) thì công
chức được hiểu là:
Công dân Việt Nam, trong biên chế do được Nhà nước tuyển dụng, bổ nhiệm
hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên, làm việc liên tục trong các cơ quan nhà nước,
trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội hoặc trong lực lượng vũ trang mà
không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng;
được xếp vào ngạch bậc và hưởng lương từ ngân sách nhà nước [48, Điều 1].
Qua gần 20 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và quan
trọng về kinh tế, xã hội, giữ vững ổn định về chính trị và hiện nay đang đứng trước yêu
cầu đổi mới của sự phát triển của tầm cao hơn trước. Đòi hỏi phải đổi mới và nâng cao
chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn cũng được đặt ra
Trên cơ sở đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa IX xác định: Đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị ở cơ sở có cán bộ chuyên trách
và cán bộ không chuyên trách.
Cán bộ chuyên trách là những cán bộ phải dành phần lớn thời gian lao động làm
việc công để thực hiện chức trách được giao, bao gồm: Cán bộ giữ chức vụ qua bầu cử
và cán bộ chuyên môn được ủy ban Nhân dân tuyển chọn; đội ngũ này có chế độ làm
việc và được hưởng chính sách về cơ bản như CBCC nhà nước. Cán bộ, công chức cơ
sở có đủ điều kiện được thi tuyển vào ngạch công chức ở cấp trên.
Tại Điểm g, h Khoản 1, Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của
Pháp lệnh CBCC ngày 26/2/1998 (được ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày
29/4/2003, quy định: Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ
trong Thường trực Hội đồng nhân dân, ủy ban Nhân dân; Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy;

người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội xã, phường, thị trấn, những người được tuyển
dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc ủy ban Nhân dân cấp xã
được gọi là CBCC trong biên chế nhà nước; được hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Trên cơ sở lý luận về chính quyền (HĐND, UBND); CBCC cũng như các quy
định về CBCC xã, phường, thị trấn thì cán bộ công chức chính quyền cấp xã hiện nay
bao gồm:

- Cán bộ chuyên trách có:
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND.
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND.
- Công chức cấp xã có:
+ Trưởng ban công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy).
+ Chỉ huy trưởng quân sự;
+ Văn phòng - thống kê;
+ Địa chính - xây dựng;
+ Tài chính - kế toán;
+ Tư pháp - hộ tịch;
+ Văn hóa - xã hội;
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm như sau: Cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã là công dân Việt Nam, trong biên chế, được hưởng lương từ ngân
sách nhà nước theo quy định của pháp luật, làm việc tại HĐND và UBND cấp xã do
được bầu để giữ chức vụ, hoặc được tuyển dụng giao giữ chức danh chuyên môn nghiệp
vụ thuộc UBND cấp xã.
Để nâng cao hiệu lực hoạt động của chính quyền cấp xã đội ngũ cán bộ công chức
chính quyền cấp xã không những cần phải có nhiệt tình cách mạng, có phẩm chất tốt, đạo
đức tốt mà còn cần phải có tri thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác để
hoàn thành nhiệm vụ. Đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ công chức chính quyền cấp xã ở
khu vực MNĐBKK.
1.1.2.2. Vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
Vốn quý nhất của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta là đội ngũ cán bộ. Cán bộ là

một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của sự
nghiệp cách mạng. Lênin chỉ rõ: "Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được
quyền thống trị nếu không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ
chính trị, người đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào [30,
tr.478]. Năm 1922, khi đã giành được chính quyền, Lênin khẳng định: "Nghiên cứu con
người, tìm ra những cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay đó là then chốt, nếu không thế thì tất
cả mệnh lệnh và quyết định chỉ là mớ giấy lộn" [31, tr.449].

Để xây dựng đất nước Việt Nam độc lập có chủ quyền với mục tiêu "dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định:
"Cán bộ là cái gốc của mọi công việc và công việc thành công hay thất bại đều do cán
bộ tốt hay kém" [33, tr.273].
Đảng ta luôn coi cán bộ có vai trò quyết định đối với sự nghiệp cách mạng.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VII) khẳng định trong công cuộc đổi mới đất
nước thì:
Cán bộ hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm tiến trình đổi mới. Cán bộ nói
chung có vai trò rất quan trọng, cán bộ cơ sở nói riêng có vị trí nền tảng cơ
sở. Cấp cơ sở là cấp trực tiếp tổ chức thực hiện mọi chủ trương đường lối của
Đảng và pháp luật của Nhà nước. Chất lượng và hiệu quả thực thi pháp luật
một phần được quyết định bởi sự triển khai ở cơ sở. Cấp cơ sở là cấp trực
tiếp gắn với quần chúng; tạo dựng phong trào cách mạng quần chúng. Cơ sở
xã, phường, thị trấn mạnh hay yếu một phần quan trọng phụ thuộc vào chất
lượng đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn [19, tr.21].
Đội ngũ CBCC CQCX có một ví trí vô cùng quan trọng trong hoạt động quản
lý điều hành ở cơ sở.
- Đội ngũ CBCC CQCX là người đại diện cho Nhà nước thực hiện chức năng
quản lý nhà nước theo đúng chính sách và thẩm quyền được giao.
Đối với chính quyền các xã MNĐBKK, đội ngũ CBCC còn có vai trò quan
trọng trong việc đưa chính sách dân tộc và miền núi của Đảng và Nhà nước vào đời
sống của đồng bào. Đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề. Thực trạng kinh tế - xã hội các

tỉnh, huyện, xã thuộc khu vực miền núi, đặc biệt là vùng MNĐBKK những năm gần đây
đã được Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị nhận định: "Nhìn chung, trình độ phát triển
kinh tế - xã hội ở miền núi còn rất thấp".
Thực trạng cũng có nguyên nhân về khả năng vận dụng, tổ chức thực hiện của
đội ngũ CBCC CQCX của các xã thuộc khu vực này.
Trong thực tế mấy chục năm qua, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho các xã thuộc
khu vực dân tộc, miền núi vẫn được tiến hành thường xuyên, liên tục, nhưng kết quả mang
lại chưa cao. Chính sách đào tạo, sử dụng cán bộ đối với chính quyền cấp xã miền núi chưa
được nghiên cứu đầy đủ, thực hiện tùy nghi, thiếu nhất quán. Vì vậy, cho đến nay vẫn chưa
hình thành được đội ngũ CBCC có năng lực phù hợp, am hiểu sâu sắc thực tế và tâm huyết

với sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở các xã miền núi nói chung và MNĐBKK
nói riêng.
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là những người hàng ngày trực tiếp tiếp
xúc với dân, đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
vào cuộc sống và biến thành hành động cách mạng của quần chúng.
Đối với các xã MNĐBKK - do trình độ dân trí rất thấp, để đưa được đường lối
của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào thực tế cuộc sống thì đội ngũ CBCC CQCX phải
làm tốt công tác tuyên truyền, động viên, tổ chức cho đồng bào các dân tộc thực hiện
đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước.
Công tác tuyên truyền, động viên, tổ chức cho đồng bào dân tộc phải đạt mục
tiêu: không ngừng củng cố khối Đoàn kết dân tộc. Bác Hồ kính yêu căn dặn: "Đoàn kết,
đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công". Lời dạy của Bác vẫn
giữ nguyên giá trị trong cách mạng XHCN ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số trong
giai đoạn mới.
Thực hiện tư tưởng của Hồ Chí Minh, việc xây dựng đội ngũ CBCC miền núi,
vùng dân tộc thiểu số luôn gắn bó chặt chẽ giữa công tác cán bộ với công tác tuyên
truyền, động viên quần chúng các dân tộc, coi đây là điều kiện để mỗi cán bộ hoàn
thành được nhiệm vụ của mình. Điểm quan trọng nhất của công tác tuyên truyền, động
viên quần chúng ở vùng núi, vùng dân tộc thiểu số là phải chiếm được lòng tin của đồng

bào. Một khi cán bộ tạo được lòng tin đối với đồng bào, thì mọi việc sẽ được đồng bào
nghe theo và thực hiện một cách nghiêm chỉnh. Song trái lại với điều đó, có thể chỉ vì
một hành vi nhỏ sẽ làm mất đi hoàn toàn niềm tin đối với họ và họ có thể chuyển từ
chỗ là lực lượng ủng hộ trở thành người đối lập với cán bộ. Cho nên người cán bộ phải
tích cực tìm hiểu phong tục tập quán nét văn hóa và nếp sinh hoạt của từng vùng dân tộc
trên địa bàn thì mới có thể thành công trong công tác tuyên truyền, vận động quần
chúng
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là cầu nối giữa Đảng - Nhà nước với nhân
dân. Thông qua đội ngũ này, Đảng, Nhà nước ta đánh giá được tính đúng đắn của đường lối,
chính sách, kịp thời phát hiện được những thiếu sót của bản thân chính sách và những nhu
cầu mới phát sinh từ thực tế khách quan để bổ sung và hoàn thiện chính sách. Thực tế cho

thấy, những yếu tố bất hợp lý không được khắc phục đã trở thành nguyên nhân bao trùm
gây nên tình trạng kinh tế - xã hội trì trệ, lạc hậu ở các xã thuộc khu vực miền núi. Với vai
trò là cầu nối; và đây cũng là cơ sở để nâng cao chất lượng đào tạo, xây dựng đội ngũ
CBCC CQCX miền núi nhằm từng bước khắc phục những thiếu sót trong quá trình thực
hiện chính sách dân tộc và miền núi của Đảng và Nhà nước ta; đưa vùng dân tộc và miền
núi phát triển theo hướng đổi mới chung của cả nước.
Đội ngũ CBCC CQCX nói chung và CBCC CQCX MNĐBKK nói riêng có vai
trò quan trọng như vậy nhưng không phải tự nhiên mà có.
Chất lượng và số lượng tùy thuộc vào quá trình tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng và tự rèn luyện một cách chủ động, sáng tạo của từng cá nhân và các cấp bộ Đảng,
chính quyền, Đoàn thể. Quan điểm này được thể hiện rõ trong các nghị quyết của Đảng;
đặc biệt gần đây nhất Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) nhấn mạnh: "Tích cực trẻ hóa và
từng bước chuẩn hóa đội ngũ CBCC cơ sở. Phấn đấu từ nay đến năm 2005 có khoảng 70-
80% cán bộ chuyên trách giữ chức vụ qua bầu cử được đào tạo, bồi dưỡng đạt tiêu chuẩn
quy định".
Trên thực tế CBCC CQCX miền núi trong đó có MNĐBKK hàng ngày cọ sát
với thực tiễn rất phức tạp thuộc nhiều lĩnh vực nên họ cần phải có bản lĩnh, có bề dày
kinh nghiệm và hiểu biết. Song họ lại ít được đào tạo, bồi dưỡng lý luận, nghiệp vụ và

thông tin về chính sách pháp luật. Việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần đối với họ
cũng chưa tương xứng. Thực tế này là một trong những nguyên nhân làm hạn chế năng
lực trình độ quản lý điều hành của đội ngũ CBCC chính quyền ở cơ sở.
1.2. Khái niệm, tiêu chí đánh giá và những yếu tố tác động đến chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
1.2.1. Khái niệm chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
Theo Từ điển tiếng Việt thì "chất lượng" hiểu ở nghĩa chung nhất là "cái tạo nên
phẩm chất, giá trị của một con người, sự vật, sự việc" [36, tr.44].
Đối với một con người sống trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chất
lượng của cá nhân đó được hiểu là tổng hợp những phẩm chất nhất định về sức khỏe, trí
tụê khoa học, chuyên môn nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, ý chí, niềm tin, năng lực;
luôn gắn bó với tập thể, với cộng đồng và tham gia một cách tích cực vào quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước yêu cầu chất lượng đối với mỗi người trong xã hội nói chung vốn đã cao
thì yêu cầu đối với chất lượng CBCC càng cao hơn - đòi hỏi người CBCC có những
trình độ phẩm chất theo yêu cầu như nêu ở trên thì người cán bộ phải gương mẫu, đi
tiên phong về lý luận và thực tiễn, chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; giữ vững tiêu chuẩn và tư cách của người cán bộ.
Mỗi cán bộ công chức không tồn tại một cách biệt lập mà phải được đặt trong
một chỉnh thể thống nhất của đội ngũ CBCC. Vì vậy, quan niệm về chất lượng đội ngũ
CBCC phải được đặt trong mối quan hệ biện chứng giữa chất lượng của từng cán bộ với
chất lượng của cả đội ngũ. Chất lượng của cả đội ngũ không phải là sự tập hợp giản đơn
số lượng mà là sự tổng hợp sức mạnh của toàn bộ đội ngũ. Sức mạnh này bắt nguồn từ
phẩm chất vốn có bên trong của mỗi cán bộ và nó được tăng lên gấp bội bởi tính thống
nhất của tổ chức; của sự giáo dục, đào tạo, phân công, quản lý, của kỷ luật.
Như vậy có thể nói chất lượng đội ngũ CBCC bao gồm:
- Chất lượng của từng cán bộ; cụ thể là phẩm chất chính trị, đạo đức; trình độ
năng lực và khả năng hoàn thành nhiệm vụ. Chất lượng của từng cán bộ là yếu tố cơ bản
tạo nên chất lượng của cả đội ngũ.

- Chất lượng của cả đội ngũ với tính cách là một chỉnh thể, thể hiện ở cơ cấu đội
ngũ được tổ chức khoa học, có tỷ lệ cân đối, hợp lý vì số lượng và độ tuổi bình quân
được phân bố trên cơ sở các địa phương, đơn vị và lĩnh vực hoạt động của đời sống xã
hội.
Như vậy, các yếu tố cấu thành chất lượng đội ngũ CBCC không chỉ bao gồm
một mặt, một khía cạnh nào đó, mà nó bao gồm cả một hệ thống, được kết cấu như một
chỉnh thể toàn diện từ chất lượng của từng cán bộ (đây là yếu tố cơ bản nhất, tiên quyết
nhất) cho đến cơ cấu số lượng nam nữ, độ tuổi, thành phần của đội ngũ cùng với việc
bồi dưỡng, giáo dục, phân công, quản lý kiểm tra giám sát và thực hiện nghiêm các
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền nhân dân.
Để nâng cao chất lượng của đội ngũ CBCC, cần phải giải quyết tốt mối quan hệ
giữa chất lượng với số lượng CBCC. Chỉ khi nào hai mặt này quan hệ hài hòa, tác động
hữu cơ với nhau thì mới tạo nên sức mạnh đồng bộ của cả đội ngũ. Trong thực tế chúng

ta cần phải chống hai khuynh hướng, khuynh hướng thứ nhất là chạy theo số lượng, ít
chú trọng đến chất lượng dẫn đến cán bộ nhiều về số lượng nhưng hoạt động không hiệu
quả.
Khuynh hướng thứ hai, cầu toàn về chất lượng nhưng không quan tâm đến số
lượng. Khuynh hướng này là một nguyên nhân quan trọng làm cho tuổi đời bình quân
của đội ngũ CBCC ngày càng cao, hẫng hụt về thế hệ.
Trong giai đoạn hiện nay thì cần hơn hết là phải coi trọng chất lượng của CBCC
trên cơ sở bảo đảm số lượng hợp lý.
Từ những đặc điểm trên có thể khái niệm: Chất lượng đội ngũ CBCC CQCX là
một hệ thống những phẩm chất, giá trị được kết cấu như một chỉnh thể toàn diện được
thể hiện qua phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ năng lực, khả năng hoàn
thành nhiệm vụ của mỗi CBCC và cơ cấu, số lượng, độ tuổi, thành phần của cả đội ngũ
CBCC CQCX.
2.2.2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chính
quyền cấp xã
- Về phẩm chất chính trị:

Đây là tiêu chuẩn đầu tiên, là điều kiện đối với mỗi người cán bộ. Để trở thành
những nhà tổ chức, những người cán bộ có năng lực trước hết phải là người có phẩm
chất chính trị.
Phẩm chất chính trị của đội ngũ CBCC CQCX được biểu hiện trước hết là sự tin
tưởng tuyệt đối đối với lý tưởng cách mạng, kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và
CNXH, đó là con đường mà Bác Hồ và Đảng ta đã lựa chọn, kiên quyết đấu tranh bảo vệ
quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, không dao động trước những
khó khăn thử thách. Đồng thời phải có biện pháp để đường lối đó đi vào thực tiễn cuộc
sống của nhân dân địa phương.
Người cán bộ có phẩm chất chính trị tốt không chỉ bằng những lời tuyên bố,
hứa hẹn mà quan trọng hơn là việc nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chỉ thị, nghị
quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước, kiên quyết chống lại mọi lệch lạc, biểu hiện
sai trái trong đời sống xã hội đi trái ngược với đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước.

Phẩm chất chính trị của người CBCC CQCX còn biểu hiện thông qua thái độ
phục vụ nhân dân, tinh thần gương mẫu trong công tác, tinh thần trách nhiệm đối với
đời sống của đồng bào nhân dân tại địa phương. Người cán bộ có phẩm chất chính trị tốt
phải là người luôn trăn trở trước những khó khăn ở địa phương; phải có quyết tâm đưa
địa phương cơ sở nơi mình công tác ngày càng phát triển về mọi mặt, thực hiện công
bằng, dân chủ, văn minh.
- Về phẩm chất đạo đức:
Đây là phẩm chất rất quan trọng đối với đội ngũ CBCC CQCX, nó là cái "gốc"
của người cán bộ. Người cán bộ phải có đầy đủ đạo đức cách mạng thì mới có đủ điều
kiện để phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, phục vụ Đảng. Nếu thiếu hoặc yếu kém
đạo đức cách mạng sẽ không thể làm tốt công việc được giao và nó là nguyên nhân của
tệ quan liêu, tham nhũng tạo nên nguy cơ đe dọa đến sự tồn vong của Đảng, sự sống còn
của chế độ. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh rất coi trọng đạo đức cách mạng. Người viết:
"Cũng như sông thì có nguồn, mới có nước, không có nguồn thì cạn, cây phải có gốc,
không có gốc thì cây héo; người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù

tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" [33, tr.252-253].
Người cán bộ có tinh thần đạo đức cách mạng phải là người cán bộ hội tụ đủ 5
đức tính, đó là Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm. Những đức tính tốt đẹp đó phải thể hiện
ra bên ngoài trong công việc hàng ngày của người cán bộ.
Luôn luôn gương mẫu, có lối sống lành mạnh, thực hiện cần kiệm, liêm chính,
chí công vô tư; không tham nhũng, vụ lợi cá nhân, sinh hoạt bê tha, có tinh thần đấu
tranh chống tham nhũng, quan hệ mật thiết với quần chúng nhân dân, sâu sát với công
việc, không quan liêu cửa quyền, gây phiền hà cho dân, tác phong làm việc khoa học,
dân chủ, không chạy theo vụ lợi, nói đi đôi với làm, làm nhiều hơn nói - đó là những
tiêu chí đánh giá đạo đức của người cán bộ.
Người cán bộ phải luôn có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần tập thể, khiêm tốn,
giản dị, trung thực, không cơ hội, có nếp sống văn minh, nêu gương cho quần chúng.
Như vậy mới tạo được lòng tin từ phía nhân dân, thuyết phục được nhân dân tin vào sự
lãnh đạo của Đảng, trung thành với sự nghiệp cách mạng.
* Về trình độ năng lực:

Năng lực cũng là yếu tố rất quan trọng đối với người cán bộ. Chính năng lực
quyết định hiệu quả công việc của người cán bộ.
Năng lực của chủ thể bao gồm nhiều yếu tố nhưng trong đó có hai yếu tố quan
trọng cơ bản tạo thành hai điều kiện cần và đủ cho chủ thể: đó là năng lực pháp luật và
năng lực hành vi. Năng lực chủ thể chỉ xuất hiện và tồn tại ở con người và phát triển dần
theo lứa tuổi, đồng thời nó phụ thuộc vào sức khỏe, kỹ năng điều khiển của hành vi,
trình độ văn hóa, nhận thức và trình độ giao tiếp của mỗi người, mỗi tập thể con người,
tự mình tạo lập và thực hiện các hành vi xử sự của mình đồng thời trực tiếp tham gia
vào các quan hệ theo mục tiêu do mình đề ra nhằm đáp ứng các yêu cầu về vật chất và
tinh thần của bản thân và của cả cộng đồng.
Năng lực thường có quan hệ mật thiết với quyền lực, hiệu lực và hiệu quả.
Quyền lực chỉ là tiền đề cho năng lực, năng lực là thước đo hoặc là chuẩn mực biểu thị
quyền lực của bộ máy nhà nước trong thực tiễn đời sống xã hội. Nếu một cá nhân hay
một tổ chức nào đó có một khối quyền hạn to lớn do cơ quan nhà nước có thẩm quyền

trao cho nhưng bản thân họ không có năng lực hoặc năng lực yếu kém thì họ không thể
biến khối thẩm quyền đó thành hiện thực nghĩa là không thể thực hiện được quyền lực
của mình.
Lênin rất đề cao trình độ năng lực của người cán bộ. Người viết: " chỉ dựa vào
tinh thần xung kích phấn khởi và nhiệt tình không thôi, thì không thể làm được gì cả"
[31, tr.253].
Đồng thời, theo Người "lòng trung thành được kết hợp với năng lực hiểu biết về
con người, về năng lực giải quyết những vấn đề về tổ chức thì chỉ có lòng trung thành
đó mới có thể rèn luyện ra tổ chức lớn" [32, tr.509].
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người không chỉ đề cao đạo đức cách mạng mà
yêu cầu mọi cán bộ đảng viên phải luôn học tập, rèn luyện nâng cao trình độ năng lực.
người phê phán bệnh lười biếng, lười học là: "khuyết điểm rất to, khác nào người thầy
thuốc đi chữa bệnh cho người khác mà bệnh nặng trong mình thì quên chữa, do đó "phải
chữa cái bệnh kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông" [33, tr.234].
Nhưng đồng thời lý luận phải đi đôi với thực tiễn, học phải đi đôi với hành, nếu
không thì đó cũng chỉ là lý luận suông mà thôi. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Năng lực

của con người không phải hoàn toàn tự nhiên mà có, mà phần lớn do công tác, do luyện
tập mà có" [33, tr.40].
Năng lực theo Người nó là kết quả của quá trình học tập, rèn luyện, hoạt động
thực tiễn của con người không phải tự nhiên mà có; năng lực được phát triển trong quá
trình hoạt động thực tiễn. Người lười biếng, trốn tránh lao động thì năng lực không thể
phát triển được.
Đối với bộ máy chính quyền cấp xã bao gồm hai thiết chế là HĐND và UBND.
Mặc dù cùng là cấp cơ sở nhưng với vị trí pháp lý khác nhau; chức năng, nhiệm vụ
quyền hạn cũng khác nhau cho nên yêu cầu về năng lực trình độ đối với CBCC cơ quan
này không hoàn toàn giống nhau. Ngoài những yêu cầu chung như phẩm chất đạo đức
lối sống, bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn có những yêu cầu khác.
+ Đối với CBCC của HĐND (Chủ tịch HĐND, phó Chủ tịch HĐND) với tư
cách là đại biểu, là vị trí chủ chốt của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương do

nhân dân địa phương tín nhiệm bầu ra, họ có trách nhiệm lớn với nhân dân địa phương;
phải liên hệ chặt chẽ với cử tri trong hoạt động của HĐND; có trách nhiệm vận động
nhân dân tham gia hoạt động quản lý nhà nước, thực hiện tốt đường lối chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước, thực hiện quyền giám sát của mình với cơ quan nhà
nước, thực hiện quyền chất vấn đối với thành viên của UBND; tham gia thảo luận, biểu
quyết những vấn đề quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, tổ chức và
điều hành tốt hoạt động của HĐND trong các kỳ họp của nhiệm kỳ. Với vị trí, vai trò
hết sức quan trọng như vậy, năng lực của Chủ tịch HĐND, phó Chủ tịch HĐND được
đánh giá từ các khía cạnh khác nhau, đó là:
- Năng lực đánh giá khái quát tình hình thực tế đang diễn ra trên địa bàn lãnh
thổ; khả năng tiếp thu ý kiến của cử tri, tìm ra những vấn đề cốt lõi để phản ánh tại kỳ
họp HĐND; khả năng đáp ứng các vấn đề do cử tri đề xuất trong các buổi tiếp xúc cử tri;
khả năng đóng góp ý kiến để đưa ra quyết định đúng đắn của HĐND về các vấn đề kinh
tế - xã hội, khả năng giám sát các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân trên địa
bàn trong việc chấp hành pháp luật; khả năng tổ chức, điều hành đối với hoạt động của
HĐND.

×