Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Sử dụng tài liệu văn học nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh trong dạy học lịch sử việt nam từ năm 1919 đến 1945 lớp 9, trường trung học cơ sở tỉnh yên bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (523.77 KB, 16 trang )

Sử dụng tài liệu văn học nhằm tạo hứng thú
học tập cho học sinh trong dạy học Lịch sử
Việt Nam từ năm 1919 đến 1945 lớp 9, trường
trung học cơ sở tỉnh Yên Bái


Nguyễn Hải Yến


Trường Đại học Giáo dục
Luận văn ThS. ngành: Lý luận và phương pháp giảng dạy (Bộ môn Lịch sử)
Mã số: 60 14 10
Người hướng dẫn: PGS.TS. Trịnh Đình Tùng
Năm bảo vệ: 2012


Abstract. Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề sử dụng tài liệu tham khảo nói chung
và tài liệu văn học nói riêng trong dạy học lịch sử dân tộc. Khảo sát, đánh giá tình
hình thực tiễn việc sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử Việt Nam ở một số
trường Trung học cơ sở của tỉnh Yên Bái. Tìm hiểu chương trình, nội dung sách giáo
khoa lịch sử lớp 9 [phần lịch sử Việt Nam (1919-1945)] và tài liệu văn học thời kỳ
này để xác định những nội dung văn học có thể và cần sử dụng trong dạy học lịch sử
Việt Nam. Hệ thống hoá và đề xuất những biện pháp sư phạm có tính khả thi nhằm
tạo hứng thú học tập cho học sinh trong việc tổ chức dạy học trên lớp cũng như
ngoài giờ học. Qua thực nghiệm khẳng định hiệu quả sư phạm của các biện pháp đã
đề xuất, từ đó rút ra những kết luận về tính khả thi của các biện pháp được tiến hành.

Keywords. Phương pháp giảng dạy; Lịch sử; Hứng thú học tập; Lịch sử Việt Nam;
Tài liệu văn học; Yên Bái



Content
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lý luận dạy học đã chỉ ra rằng phải đa dạng hoá các nguồn thông tin bằng nhiều phương
tiện, phương pháp dạy học, trong đó tài liệu tham khảo là nguồn kiến thức không thể thiếu
được trong quá trình giảng dạy.
Có thể nói, lịch sử liên quan đến tất cả mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã
hội, văn hoá… Chúng ta có thể tìm thấy lịch sử trong hầu hết các môn khoa học. Nhưng gần
gũi nhất với lịch sử chính là ngành khoa học Xã hội - Nhân văn, trong đó nổi bật là bộ môn
Văn học.
Tài liệu văn học là một loại tài liệu lịch sử, là nguồn thông tin không thể thiếu trong dạy
học lịch sử, nhất là chương trình lịch sử dân tộc. Do đặc trưng của bộ môn, kiến thức lịch sử là
những kiến thức quá khứ, HS khó học, khó nhớ nên khi GV sử dụng tài liệu văn học trong dạy
học lịch sử sẽ giúp HS hứng thú hơn, có sự hình dung đa dạng về quá khứ, tạo được biểu tượng
sinh động, chính xác về các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Từ đó các em có thể dễ dàng lĩnh hội
các thuật ngữ, hình thành các khái niệm lịch sử, nắm được những kết luận khoa học mang tính
khái quát. Mặt khác, nó còn có tác dụng trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm đạo đức và hình
thành nhân cách cho HS.
Thực tiễn dạy học Lịch sử ở trường THCS trên địa bàn tỉnh Yên Bái hiện nay vẫn còn
nhiều hạn chế như: Tài liệu văn học nghèo nàn, GV chưa thực sự quan tâm, ít đầu tư thời
gian và công sức để sưu tầm, lựa chọn. Trong quá trình lên lớp, GV còn lúng túng trong xác
định mục tiêu, lựa chọn nội dung, thời lượng và mức độ vận dụng vào việc dạy học từng
phần, từng bài cụ thể. Chính vì vậy, HS cảm thấy giờ học nặng nề, không thích học. Hơn nữa
Yên Bái lại là một tỉnh miền núi, kinh tế nghèo nàn, địa hình phức tạp, số lượng HS là người
dân tộc thiểu số cao. Ngoài giờ lên lớp, hầu hết quỹ thời gian còn lại các em phải lao động
giúp gia đình. Bởi vậy, quá trình tự tìm tòi, nghiên cứu tài liệu tham khảo để khắc sâu kiến
thức ở các em rất hạn chế. Tất cả những vấn đề trên đã dẫn đến chất lượng giáo dục bộ môn
lịch sử ở trường THCS tỉnh Yên Bái chưa cao, chưa tạo ra mối gắn kết tình cảm và tinh thần
trách nhiệm của HS đối với quê hương, đất nước. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới việc hình
thành và phát triển nhân cách ở các em.

Với những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Sử dụng tài liệu Văn học nhằm tạo
hứng thú học tập cho HS trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945 lớp 9,
trường THCS tỉnh Yên Bái” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục,
chuyên ngành Lý luận và Phương pháp dạy học lịch sử.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Tài liệu nước ngoài
N.G.Đai ri trong cuốn “Chuẩn bị giờ học Lịch sử như thế nào” khi đề cập đến yêu cầu
đối với giờ học Lịch sử, ông đã khẳng định vai trò, tầm quan trọng của nguồn tài liệu tham
khảo. Ông cho rằng để có một giờ học đạt hiệu quả GV “phải sử dụng không ngừng và có hệ
thống tất cả mọi nguồn tư liệu muôn hình muôn vẻ: tác phẩm kinh điển, văn kiện của Đảng
và Nhà nước, sách chuyên khảo, SGK, sách báo tạp chí, tác phẩm hội hoạ, những cuộc tham
quan” [20, tr. 10].
I.F.Khalamốp trong cuốn “Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như thế nào?” đã
khẳng định: “Vấn đề sử dụng sách giáo khoa và tài liệu học tập… có lịch sử của nó mà theo
chúng tôi có những điều bổ ích đáng học hỏi…” bởi vì “… trong quá trình làm việc với sách
giáo khoa và tài liệu học tập, học sinh nắm vững và củng cố được kiến thức, đồng thời các
em tiếp thu được kỹ năng, kĩ xảo” [14, tr.37].
2.2. Tài liệu trong nước
Thái Duy Tuyên trong cuốn: “Những vấn đề cơ bản của giáo dục hiện đại” cho rằng
việc sử dụng các tư liệu trong dạy học là vô cùng cần thiết. Nó có tác dụng nâng cao
hiệu quả bài học, làm phong phú vốn kiến thức cho HS…
Trịnh Đình Tùng, trong cuốn: “Hệ thống các phương pháp dạy học lịch sử ở trường trung
học cơ sở” xuất bản năm 2006, đã viết: “Các tác phẩm văn học có vị trí, vai trò to lớn trong
việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông nói chung, trường THCS nói riêng…, các tác phẩm
văn học bằng hình tượng cụ thể, có tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm người đọc,
trình bày những nét đặc trưng, điển hình của đời sống xã hội. Giữa văn học và các khoa học
nói chung, Sử học nói riêng có mối quan hệ khăng khít… Sử dụng các tác phẩm văn học sẽ
có tác dụng làm cho bài giảng lịch sử thêm sinh động, hấp dẫn, nâng cao hứng thú học tập
của học sinh” [26, tr. 123].
3. Đối tƣợng nghiên cứu

Quá trình sử dụng tài liệu văn học nhằm tạo hứng thú học tập cho HS trong dạy học lịch sử
Việt Nam từ 1919 đến 1945 lớp 9, trường THCS Yên Bái.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu việc sử dụng tài liệu văn học nhằm tạo hứng thú học tập cho
HS trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945, lớp 9 ở 3 trường THCS trên địa
bàn tỉnh Yên Bái là THCS Thị trấn Cổ Phúc, THCS Xuân Ái, THCS Kiên Thành.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu để xác định các loại tài liệu văn học có thể sử dụng và đề xuất các biện pháp
sử dụng góp phần nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn lịch sử ở trường THCS tỉnh Yên Bái.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề sử dụng tài liệu tham khảo nói chung và tài liệu
văn học nói riêng trong dạy học lịch sử dân tộc.
- Khảo sát, đánh giá tình hình thực tiễn việc sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch
sử Việt Nam ở một số trường THCS của tỉnh Yên Bái.
- Xác định những nội dung văn học có thể và cần sử dụng trong dạy học lịch sử Việt
Nam từ 1919 đến 1945.
- Hệ thống hoá và đề xuất những biện pháp sử dụng tài liệu văn học.
- Rút ra những kết luận về tính khả thi của các biện pháp được tiến hành.
6. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở phương pháp luận
- Dựa trên lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường
lối của Đảng và Nhà nước về giáo dục phổ thông nói chung và giáo dục lịch sử nói riêng.
- Lý luận về tâm lý, giáo dục học, phương pháp dạy học lịch sử của các nhà giáo dục,
giáo dục lịch sử.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu các tài liệu giáo dục học, giáo dục lịch sử,
chương trình nội dung SGK lịch sử lớp 9, tài liệu văn học liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp điều tra

+ Phương pháp thực nghiệm
+ Phương pháp thống kê toán học
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh
7. Giả thuyết khoa học
Nếu GV vận dụng các biện pháp sử dụng tài liệu văn học theo yêu cầu mà luận văn
đưa ra thì sẽ góp phần tạo hứng thú học tập cho HS và nâng cao chất lượng dạy học lịch sử ở
trường THCS tỉnh Yên Bái.
8. Ý nghĩa và đóng góp của đề tài
8.1. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa khoa học:
Làm phong phú thêm lý luận về việc sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử
Việt Nam.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Giúp GV giảng dạy lịch sử nắm chắc nội dung tài liệu văn học cần thiết và các yêu
cầu, biện pháp sử dụng chúng để tạo hứng thú học tập cho HS trong quá trình dạy học lịch
sử Việt Nam từ 1919 đến 1945 lớp 9 ở trường THCS trên địa bàn tỉnh Yên Bái.
8.2. Đóng góp của đề tài
- Xác định được những tài liệu văn học có liên quan đến nội dung lịch sử Việt Nam
giai từ 1919 đến 1945 (ở lớp 9), sự cần thiết và mức độ sử dụng nó trong các bài giảng.
- Khẳng định rõ vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch
sử và đề xuất các biện pháp sử dụng mang tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng dạy học
bộ môn lịch sử ở tỉnh Yên Bái.
- Góp phần hoàn chỉnh thêm hệ thống cơ sở lý luận cho việc sử dụng tài liệu văn học
trong dạy học lịch sử Việt Nam.
9. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục, nôi dung
chính luận văn được trình bày trong 2 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng tài liệu văn học nhằm tạo
hứng thú học tập cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam ở trường Trung học cơ sở.
Chƣơng 2: Các biện pháp sử dụng tài liệu văn học nhằm tạo hứng thú học tập cho

học sinh trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945 lớp 9, trường THCS tỉnh Yên
Bái. Thực nghiệm sư phạm.

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG TÀI LIỆU
VĂN HỌC NHẰM TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM
Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Mục tiêu của bộ môn Lịch sử ở trường trung học phổ thông
“Môn Lịch sử ở trường phổ thông nhằm giúp cho học sinh có được những kiến thức cơ
bản, cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới; góp phần hình thành ở học sinh thế giới
quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, truyền thống dân tộc, cách mạng, bồi
dưỡng năng lực tư duy, hành động, thái độ ứng xử đúng đắn trong đời sống xã hội” [6, tr 3].
1.1.2. Đặc trưng của bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông
Kiến thức lịch sử mang những đặc điểm cơ bản như sau:
_ Kiến thức lịch sử mang tính tương đối.
_ Kiến thức lịch sử mang tính quá khứ.
_ Kiến thức lịch sử mang tính không lặp lại.
_ Kiến thức lịch sử mang tính cụ thể.
_ Kiến thức lịch sử mang tính hệ thống (tính lôgic lịch sử).
_ Kiến thức lịch sử có sự thống nhất giữa sử và luận.
1.1.3. Đặc điểm tâm lý và quá trình nhận thức của học sinh trung học cơ sở
1.1.3.1. Đặc điểm tâm lý
HS THCS luôn có xu hướng tìm hiểu, khám phá các môn khoa học với tinh thần thái độ
tích cực, tính ham hiểu biết, ham tìm tòi cái mới; tính tò mò muốn làm rõ những gì mình hoài
nghi.
Tuy nhiên, sự phát triển tâm lý ở lứa tuổi này diễn ra không đồng đều về mọi mặt, tính
kiên trì, độc lập trong các em chưa cao.
1.1.3.2. Đặc điểm nhận thức

Quá trình nhận thức của HS được diễn ra theo con đường “từ trực quan sinh động đến tư
duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của nhận
thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan” [7, tr 114].
HS có khả năng thu được những phản ánh khách quan về nội dung và chủ quan về hình
thức.
HS không phải là người tìm ra cái mới lạ mà chỉ là người tìm hiểu những tri thức khoa
học đã được khẳng định một cách gián tiếp thông qua người thầy và các phương tiện thông
tin khác.
HS ở lứa tuổi này thích tiếp xúc, khám phá khoa học.
1.1.4. Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông
Hiện nay, vẫn còn một bộ phận không nhỏ GV nặng về cách dạy, cách học cũ, nhiều GV
chưa nhận thức được vai trò của việc kết hợp các phương pháp dạy học để phát huy tính tích cực,
độc lập nhận thức của HS trong học tập. Bên cạnh đó, SGK lịch sử đã được biên soạn theo tinh
thần đổi mới nhưng phương pháp dạy học của GV lại chưa theo kịp được nội dung của sách. Đặc
biệt, nhiều GV khi dạy chỉ truyền đạt lượng kiến thức giống hệt như trong SGK mà không sử
dụng thêm tài liệu tham khảo hay có sử dụng thì chỉ mang tính chất minh họa dẫn đến HS không
nắm được kiến thức cơ bản hoặc sa đà vào những câu chuyện không nhằm mục đích cụ thể hóa
và khắc sâu kiến thức….
Chính vì vậy, đổi mới phương pháp dạy học lịch sử trở thành một yêu cầu quan trọng,
góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Việc sử dụng tài liệu văn học trong dạy học
lịch sử sẽ góp phần không nhỏ cho GV trong việc thực hiện hướng đổi mới này.
1.1.5. Quan niệm về tài liệu văn học và mối quan hệ giữa văn học với lịch sử
1.1.5.1. Quan niệm về tài liệu văn học
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” của các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi thì tác phẩm văn học là công trình nghệ thuật ngôn từ, do cá nhân hoặc tập thể sáng
tạo, phản ánh bằng hình tượng cuộc sống con người, biểu hiện tâm sự, tình cảm, thái độ của
chủ thể trước thực tại.
1.1.5.2. Các loại tài liệu văn học
Trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, GV có thể sử dụng các loại tài liệu văn học
chủ yếu sau:

_ Các tác phẩm văn học dân gian
_ Các tác phẩm văn học xuất hiện vào thời kì diễn ra các sự kiện lịch sử và phản ánh sự
kiện ấy bằng hình tượng văn học
_ Tiểu thuyết lịch sử, truyện thơ lịch sử, kịch lịch sử:
_ Kí sự, hồi kí của các nhân vật hoặc nhân chứng lịch sử:
1.1.5.3. Mối quan hệ giữa kiến thức văn học với kiến thức lịch sử
Chúng ta đều biết, đối tượng nghiên cứu của Văn học cũng như Sử học đều là Con
người, những vấn đề xã hội…. Văn học ngợi ca vẻ đẹp của non sông, đất nước, ca ngợi
những con người mang những phẩm chất tốt đẹp, cao quý cũng như đả kích, lên án cái xấu
của họ thì Lịch sử cũng ghi nhận công lao, đóng góp của những con người ấy (Nhân vật Lịch
sử) và phán xét nghiêm minh đối với những người có tội với dân, với nước.
Bất cứ một nền văn học nào cũng không thể đứng ngoài cuộc đấu tranh chính trị, đấu
tranh kinh tế của xã hội mà nó còn phục vụ cho một đường lối chính trị, kinh tế nhất định.
Tóm lại, kiến thức văn học không chỉ là tài liệu để minh hoạ cho kiến thức lịch sử, làm cho
bài học lịch sử thêm sinh động mà nó còn có tác dụng giáo dưỡng, giáo dục, phát triển góp phần
nâng cao chất lượng dạy – học lịch sử.
1.1.6. Quan niệm về hứng thú trong dạy học
_ Quan niệm về hứng thú:
Theo nhà tâm lí học người Nga A.G Côvaliốp trong cuốn “Tâm lí học cá nhân” thì “Hứng thú
là một thái độ đặc thù của cá nhân đối với đối tượng nào đó, do ý nghĩa của nó trong đời sống và do
sự hấp dẫn về tình cảm của nó” [2, tr 228].
Theo tác giả Trần Trọng Thủy thì hứng thú là thể hiện xúc cảm của những nhu cầu nhận
thức ở người.
Như vậy, theo chúng tôi: hứng thú là một trạng thái tâm lý phức tạp, phản ánh nhiều
giai đoạn từ đơn lẻ tới tổ hợp nhiều quá trình tâm lý của con người. Hứng thú là một thái độ
đặc biệt của cá nhân đối với một đối tượng nào đó vừa có ý nghĩa trong cuộc sống lại vừa có
khả năng mang lại cho nó một khoái cảm.
_ Quan niệm về hứng thú học tập:
Hứng thú học tập là loại hứng thú gắn với các môn học trong nhà trường, nó là thái độ
đặc biệt của HS với môn học mà HS thấy có ý nghĩa và có khả năng đem lại khoái cảm trong

quá trình học tập bộ môn.
+ Quan niệm về hứng thú học tập lịch sử:
Trong cuốn “Từ điển Tiếng Việt thông dụng” do tác giả Nguyễn Như Ý chủ biên có đưa
ra khái niệm như sau: “Hứng thú học tập lịch sử là một thái độ say mê tự giác tích cực đặc
biệt của cá nhân đối với nội dung lịch sử cụ thể” [30, tr16].
1.1.7. Ý nghĩa của việc sử dụng tài liệu văn học nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh
trong dạy học lịch sử Việt Nam
- Về mặt kiến thức: Nó góp phần cụ thể hóa kiến thức lịch sử trong SGK mà HS cần thu
nhận.
- Về thái độ, tình cảm:
Định hướng lập trường tư tưởng chính trị cho HS.
Giáo dục thẩm mĩ cho HS.
Rèn luyện cho HS tinh thần chuyên cần, hăng say, chủ động, tích cực làm việc.
- Về kĩ năng:
Phát triển các thao tác tư duy cho HS: quan sát, tri giác, vận động trí tưởng tượng, nhận
xét, đánh giá khách, tư duy lôgic, tạo biểu tượng, hình thành khái niệm, tìm ra quy luật, rút ra
bài học lịch sử.
Phát triển kỹ năng phân tích, phán đoán, so sánh, đối chiếu…
Giúp HS nhận thức đúng đắn tri thức lịch sử, bản chất của sự vật, hiện tượng, nắm vững
quy luật và sự vận động của lịch sử, có cái nhìn biện chứng về các vấn đề lịch sử quá khứ,
hiện tại, tương lai.
Kĩ năng đọc sách, đánh dấu và ghi nhớ tài liệu, kỹ năng diễn đạt, lối hành văn của các em
sẽ dần trở nên thuần thục hơn.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực tiễn việc dạy học lịch sử ở trường trung học cơ sở tỉnh Yên Bái
Qua tìm hiểu ban đầu, chúng tôi nhận thấy thực trạng của việc dạy và học môn lịch sử ở
tỉnh Yên Bái hiện nay đã quá chú tâm vào tính thuộc bài, theo kiểu học vẹt, thiếu không gian
tư duy. Hơn nữa, môn Lịch sử lâu nay vẫn được xem là môn phụ, thường được thay thế
cho môn ngoại ngữ đối với HS vùng nông thôn, miền núi nên cách dạy của các GV lại vẫn
theo điệp khúc: thầy đọc, trò chép. Tình trạng "học chay" và "dạy chay" diễn ra đều đặn. Các

GV chưa bố trí được cho HS xem phim về lịch sử, hướng dẫn các em tìm đến những cổng
thông tin chứa tư liệu tham khảo, cũng chưa thực sự quan tâm tổ chức cho HS tham gia các
hoạt động ngoại khóa như các buổi dạ hội lịch sử, kể chuyện lịch sử, tham quan bảo tàng, các
địa danh lịch sử Ngay cả môn lịch sử địa phương đã quy định trong chương trình cũng
không mấy trường thực hiện được.
Về phía HS, do xác định là môn phụ, môn thay thế nên có xu hướng coi nhẹ môn Lịch sử.
Các em không quan tâm, không ham, không say mê, thiếu đầu tư cả về thời gian và công sức
học tập. Ngoài SGK ra, các em không có thêm một tài liệu tham khảo hoặc nếu có được GV
giới thiệu nguồn thì các em cũng không có tiền mua hoặc không chịu mua.
1.2.2. Thực tiễn việc sử dụng tài liệu văn học nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh
trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 đến 1945 lớp 9, trường trung học cơ sở
tỉnh Yên Bái
Trong quá trình dạy – học lịch sử, GV và HS cũng đã có sử dụng tài liệu văn học nhưng
việc làm đó chưa thường xuyên, còn lúng túng trong các khâu sưu tầm, lựa chọn, phương
pháp sử dụng. Mà nếu có sử dụng thì GV chỉ sử dụng tài liệu văn học trong giờ nội khóa và
chỉ dừng ở mức độ minh họa chứ chưa xem đây là nguồn nhận thức. Bên cạnh đó, đa số GV
còn chưa chú trọng đầu tư thời gian, công sức cho việc sưu tầm, lựa chọn; chưa chú ý tới việc
hướng dẫn HS làm việc với nguồn tài liệu văn học một cách có hiệu quả.
Tài liệu tham khảo phục vụ cho việc dạy – học môn lịch sử trong các nhà trường còn
thiếu. GV mới chỉ dừng ở việc sử dụng SGK, SGV.
Đa số HS chưa thực sự hứng thú với việc học tập bộ môn lịch sử, điều này do nhiều
nguyên nhân đưa lại, trong đó có nguyên nhân từ việc sử dụng tài liệu văn học trong dạy học
lịch sử của GV còn sơ sài, chiếu lệ, thiếu hấp dẫn, tài liệu học tập ít; các em không có điều
kiện tiếp cận với nguồn tài liệu ngoài SGK hoặc nếu có điều kiện thì lại lúng túng, không biết
tiếp cận theo hướng nào, sử dụng bằng phương pháp nào để có kết quả học tập tốt nhất.
Quá trình học ở nhà, đa số HS chỉ học thuộc lòng những điều đã được thầy cô cho ghi
chép ở trên lớp, lại ít được GV hướng dẫn sưu tầm, tìm hiểu tài liệu văn học thông qua hệ
thống bài tập, các hoạt động ngoại khóa… nên các em thiếu hứng thú, động cơ, thái độ học
tập môn lịch sử dẫn đến kết quả học tập chưa cao.


Kết luận chƣơng 1
Tóm lại, trong nghiên cứu và dạy học lịch sử ở trường phổ thông, việc lựa chọn, sử dụng
tài liệu văn học có ý nghĩa và vai trò quan trọng để hiểu sâu sắc hơn về lịch sử dân tộc. Việc
nghiên cứu, sử dụng tài liệu văn học không chỉ giúp làm phong phú kiến thức, cụ thể hoá kiến
thức lịch sử đang học; nhằm tạo cho HS có biểu tượng rõ ràng, cụ thể; tăng thêm tính sinh
động, gợi cảm của bài giảng và tạo hứng thú cho việc học tập của các em mà còn góp phần
bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và phát triển năng lực tư duy cho HS.
Từ việc nghiên cứu những vấn đề lý luận, chúng tôi tiếp tục tìm hiểu thực tiễn của việc
sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử dân tộc. Trên tinh thần khách quan, khoa học,
trung thực, chúng tôi ghi nhận những mặt tích cực, tiến bộ đã đạt được và cũng chỉ ra những
mặt còn hạn chế, thiếu sót cần khắc phục. Qua đó, chúng tôi nhận thấy việc sử dụng tài liệu
văn học trong dạy học lịch sử ở tỉnh Yên Bái hiện nay còn hạn chế, mang tính hình thức. GV
chưa lựa chọn, xác định được nguồn tài liệu, khi sử dụng thì chủ yếu dùng để minh hoạ bài
giảng chứ chưa xem đây là nguồn cung cấp kiến thức, khắc sâu kiến thức cho HS. Vì vậy, cần
thiết phải lựa chọn được nguồn tài liệu văn học, tìm ra các nguyên tắc và biện pháp sử dụng
chúng nhằm tạo ra hứng thú học tập cho HS, góp phần nâng cao chất lượng bộ môn.
Vấn đề này sẽ được chúng tôi giải quyết ở chương 2


CHƢƠNG 2
CÁC BIỆN PHÁP SỬ DỤNG TÀI LIỆU VĂN HỌC
NHẰM TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1919 ĐẾN 1945
LỚP 9, TRƢỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ TỈNH YÊN BÁI.
THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM

2.1. Mục tiêu và nội dung cơ bản của lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945 ở trƣờng trung
học cơ sở
2.1.1. Mục tiêu
Nội dung phần lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945 là những sự kiện lịch sử tiêu biểu

phác họa các bước phát triển chủ yếu của lịch sử dân tộc qua các thời kì. Bởi vậy, trong quá
trình học tập, HS phải nắm được mối liên hệ giữa lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới; nhận
thức rõ vai trò quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử; nêu rõ nguyên nhân, động lực
tạo ra các chuyển biến lịch sử, quy luật vận động của lịch sử… Qua đó mà hình thành cho HS
những kỹ năng học tập cần thiết như biết xem xét các sự kiện lịch sử trong các quan hệ không
gian, thời gian; biết cách làm việc với SGK, các nguồn sử liệu; phát triển các thao tác tư duy
cần thiết đối với việc học tập lịch sử như: so sánh, tổng hợp, phân tích, vận dụng kiến thức để
đặt vấn đề, để vận dụng kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống và tiếp thu kiến thức mới…
Mặt khác, thông qua việc dạy học khóa trình lịch sử này, GV bồi dưỡng cho HS tình cảm, tư
tưởng, thái độ đúng đắn như tình yêu quê hương đất nước, niềm tự hào dân tộc, biết trân
trọng quá khứ và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, tin vào
chủ nghĩa xã hội và sự thắng lợi trong công cuộc đổi mới đất nước; xây đắp những phẩm chất
cần thiết cho công dân như thái độ, trách nhiệm đối với cộng đồng, tôn trọng pháp luật, đoàn
kết dân tộc, đoàn kết quốc tế…
2.1.2. Nội dung kiến thức cơ bản
Phần lịch sử Việt Nam (1919 – 1945) trong sách giáo khoa lịch sử lớp 9 được trình bày
trong 3 chương với 10 bài. Cụ thể:
Chương I: Việt Nam trong những năm 1919 – 1930
Chương II: Việt Nam trong những năm 1930 – 1939
Chương III: Cuộc vận động tiến tới cách mạng tháng Tám năm 1945
Giai đoạn lịch sử 1919 – 1930:
- Chính sách khai thác, bóc lột thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam sau chiến tranh
thế giới thứ nhất và tình hình phân hoá giai cấp trong xã hội Việt Nam.
- Ảnh hưởng của tình hình thế giới đối với cách mạng Việt Nam.
- Bước ngoặt trong hoạt động tìm đường cứu nước và việc chuẩn bị về tư tưởng chính trị,
tổ chức cho sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
- Bước phát triển mới của phong trào cách mạng Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản ra
đời.
Giai đoạn lịch sử 1930 – 1939:
- Đứng trước yêu cầu cấp thiết của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã

thống nhất ba tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam (2/1930) và tháng 10/1930
đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Đây là một sự kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn đối
với cách mạng nước ta.
Phong trào cách mạng đầu tiên dưới sự lãnh đạo của Đảng – phong trào cách mạng 1930
– 1931, với đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh và cuộc đấu tranh để phục hồi phong trào (1932
– 1935).
- Khi tình hình thế giới và trong nước có nhiều thay đổi, tiếp thu đường lối của Quốc tế
Cộng sản, Đảng ta đã phát động quần chúng tiến hành cuộc vận động dân chủ (1936 – 1939)
sôi nổi, rộng khắp. Cuộc đấu tranh này đã có ý nghĩa và để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý
báu cho Cách mạng tháng Tám sau này.
Giai đoạn lịch sử 1939 – 1945:
- Những biến chuyển của tình hình thế giới và Đông Dương nói chung, Việt Nam nói
riêng từ khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Một số cuộc nổi dậy mở đầu thời kì đấu
tranh mới (khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kì, binh biến Đô Lương).
- Mặt trận Việt Minh ra đời và công tác chuẩn bị lực lượng cách mạng của Đảng. Cao trào
kháng Nhật cứu nước tiến tới tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945.
- Cách mạng tháng Tám: thời cơ, diễn biến, nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử.
2.2. Các tài liệu văn học có thể khai thác sử dụng trong dạy học lịch sử Việt Nam từ
1919 đến 1945 lớp 9, trƣờng trung học cơ sở
Bảng 2.1. Thống kê những tài liệu văn học
BÀI HỌC LỊCH SỬ
NHỮNG TÁC PHẨM VĂN HỌC CÓ THỂ KHAI THÁC
Bài 14: Việt Nam sau chiến
tranh thế giới thứ nhất.
- Dân ca thời Pháp thuộc.
- Tác phẩm: “ Á tế Á ca”
- Phan Bội Châu: Hải ngoại huyết thư
- Nguyễn Ái Quốc: Bản án chế độ Thực dân Pháp.
Bài 15: Phong trào cách
mạng Việt Nam sau chiến

tranh thế giới thứ nhất
(1919 - 1925)
- Thơ văn của đội ngũ trí thức cách mạng
- Tác phẩm của Tố Hữu: Phạm Hồng Thái
- Tác phẩm “Cuộc đời và sự nghiệp Bác Tôn”
Bài 16: Hoạt động của
Nguyễn Ái Quốc ở nước
ngoài trong những năm
1919 – 1925
- Nguyễn Ái Quốc: Bản án chế độ Thực dân Pháp
- Chế Lan Viên: Người đi tìm hình của nước.
Bài 17: Cách mạng Việt
Nam trước khi Đảng Cộng
sản ra đời
- Nguyễn Ái Quốc: Bản án chế độ thực dân Pháp
- Phan Bội Châu: Văn tế Nguyễn Thái Học
Bài 18: Đảng cộng sản Việt
Nam ra đời
- Nguyễn Ái Quốc: Đường cách mệnh
- Chế Lan Viên: Kết nạp Đảng trên quê mẹ.
- Tố Hữu: Ba mươi năm đời ta có Đảng.
Bài 19: Phong trào cách
mạng trong những năm
1930 – 1935
- Nguyễn Thế Vỹ: Nhìn lại phong trào Xô viết – Nghệ Tĩnh.
Bài 20: Cuộc vận động dân
chủ trong những năm 1936
– 1939
- Ngô Tất Tố: Tắt đèn.
- Tố Hữu: Hãy đứng dậy


Bài 21: Việt Nam trong
những năm 1939 – 1945
- Ca dao dân ca thời Pháp – Nhật thuộc
- Ngô Tất Tố: Làm no, Họ vẫn ăn vào cái xác chết.
- Nam Cao: Chí Phèo.
- Tố Hữu: Đói đói.
Bài 22: Cao trào cách mạng
tiến tới tổng khởi nghĩa
tháng Tám năm 1945
- Kim Lân: Vợ nhặt
- Tố Hữu: Bà má Hậu Giang, Quyết hy sinh,
- Hồ Chí Minh: Nhật kí trong tù
Bài 23: Tổng khởi nghĩa
tháng Tám năm 1945 và sự
thành lập nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà
- Tố Hữu: Hồ Chí Minh, Giết giặc, Sáng mùng 2 tháng 9.
- Hồ Chí Minh: Tuyên ngôn độc lập
2.3. Những yêu cầu khi sử dụng tài liệu văn học nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh
trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945 lớp 9, trƣờng trung học cơ sở tỉnh Yên
Bái
2.3.1. Đáp ứng mục tiêu dạy học
2.3.2. Đảm bảo nguyên tắc liên môn
2.3.3. Tạo được hứng thú học tập cho HS trong quá trình học tập
2.3.4. Kết hợp nhuần nhuyễn các con đường, biện pháp, thao tác sư phạm
2.4. Các biện pháp sử dụng tài liệu văn học nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh
trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945 lớp 9, trƣờng trung học cơ sở tỉnh Yên
Bái
2.4.1. Trong giờ nội khóa

2.4.1.1. Dùng tài liệu văn học để minh hoạ cho bài giảng
Với phương pháp này, GV đưa vào bài giảng một đoạn văn, đoạn thơ ngắn nhằm minh
họa cho những sự kiện đang học, làm cho nội dung bài học thêm phong phú, giờ học trở nên
sinh động, lôi cuốn, hấp dẫn HS. Từ đó khơi dậy niềm đam mê, hứng thú học tập trong các
em, góp phần làm cho hiệu quả dạy – học được nâng cao.
2.4.1.2. Dùng tài liệu văn học để cụ thể hoá sự kiện, nêu kết luận khái quát
Trong dạy học lịch sử có những sự kiện, hiện tượng phức tạp, nếu GV dùng lí luận để giải
thích thì HS sẽ khó tiếp thu. Trong trường hợp này, GV có thể dùng một đoạn văn, đoạn thơ
ngắn, súc tích để giúp các em nhận thức sự kiện đó một cách cụ thể.
2.4.1.3. Sử dụng tài liệu văn học kết hợp với đồ dùng trực quan
- Sử dụng tài liệu văn học kết hợp với tranh ảnh, chân dung nhân vật, phim.
- Sử dụng tài liệu văn học kết hợp với mô hình công cụ lao động, vũ khí.
- Sử dụng tài liệu văn học kết hợp với bản đồ, lược đồ, sơ đồ.
2.4.1.4. Sử dụng tài liệu văn học để tổ chức cho HS thảo luận
Trong dạy học lịch sử, việc sử dụng tài liệu văn học để tổ chức thảo luận mang ý nghĩa
thúc đẩy sự quan tâm lẫn nhau trong học tập, tạo động cơ và kích thích thái độ học tập của
mỗi cá nhân và tập thể, giúp HS hiểu và tự đánh giá bản thân. Quá trình thảo luận đạt hiệu
quả cao hay thấp còn phụ thuộc vào khả năng tổ chức lớp học linh hoạt, sáng tạo từ phía GV.
Có thể tổ chức thảo luận bằng cách chia lớp thành các nhóm, cung cấp cho HS đoạn tài liệu
văn học và câu hỏi thảo luận. Dựa vào đó, các thành viên trong các nhóm thảo luận để thống
nhất ý kiến, ghi vào giấy nộp cho GV hoặc trình bày trước lớp.
2.4.1.5. Sử dụng tài liệu văn học để xây dựng các bài tập nhận thức cho HS
Đối với giờ học lịch sử nội khóa, việc đặt ra câu hỏi, bài tập trên cơ sở tài liệu văn học có
thể nêu ra vào đầu giờ học hoặc trước mỗi mục nhằm tập trung sự chú ý của học sinh, hoặc ra
bài tập về nhà. Câu hỏi phải mang tính chất là một bài tập nhận thức, tập trung vào những nội
dung cơ bản của bài học.
2.4.1.6. Sử dụng tài liệu văn học trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS
Sử dụng tài liệu văn học trong kiểm tra, đánh giá về kiến thức lịch sử có thể tiến hành
bằng hai hình thức:
- Kiểm tra miệng:

- Kiểm tra viết
Kiểm tra, đánh giá thường được tiến hành dưới dạng câu hỏi tự luận hoặc trắc nghiệm
khách quan. Mỗi hình thức kiểm tra đều có ưu điểm và nhược điểm riêng nên GV phải kết
hợp chúng với tỷ lệ hợp lý trong một bài kiểm tra, đặc biệt là kiểm tra một tiết và kiểm tra
học kì.
2.4.1.7. Hướng dẫn học sinh tự đọc tài liệu văn học ở nhà
Sau khi hướng dẫn HS tìm được nguồn tài liệu, GV tiếp tục hướng dẫn cụ thể những nội
dung cần đọc, cần khoanh vùng. Đối với phần này, ta có thể chia HS ra thành các nhóm nhỏ,
mỗi nhóm sẽ được giao một nhiệm vụ cụ thể trong thời gian nhất định. Các em sẽ đọc các tài
liệu và tóm tắt, chắt lọc rồi ghi chép lại dưới dạng một tiểu luận. Sau đó GV phải sát sao kiểm
tra, đánh giá và động viên kịp thời để HS tích cực hoàn thành nhiệm vụ.
2.4.2. Sử dụng tài liệu văn học trong các hình thức hoạt động ngoại khoá
2.4.2.1. Sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử thông qua hình thức kể chuyện
Đây là hình thức ngoại khóa hấp dẫn, dễ tiến hành (có thể tiến hành trên lớp hoặc trong hoạt
động ngoại khóa) và có tác dụng giáo dục cao. Khi kể chuyện, GV cần lưu ý lựa chọn chuyện
đúng với chủ đề bài học, không sa đà vào các chi tiết hư cấu, giật gân, đảm bảo đúng quan điểm,
có tác dụng giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. Sau khi cho HS nghe câu chuyện, GV nên hướng
dẫn các em trao đổi, thảo luận, trình bày ý kiến riêng của mình về các vấn đề, nhân vật lịch sử
vừa tìm hiểu, từ đó rút ra kết luận và bài học lịch sử.
2.4.2.2. Sử dụng tài liệu văn học để tổ chức các trò chơi lịch sử
+ Trò chơi ô chữ:
Trò chơi ô chữ là hình thức người tổ chức đưa ra những ô vuông để trống, yêu cầu người
chơi phải điền cho đúng những chữ mà người tổ chức đã gợi ý cho mỗi ô chữ bằng một “chìa
khóa”. Căn cứ vào “chìa khóa” và năng lực của người chơi có thể hoàn thành ô chữ. Khi thiết
kế ô chữ GV cần phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản: phù hợp với chương trình SGK, phù hợp
đối tượng, tiện lợi, hữu dụng, thẩm mĩ, ngôn từ chính xác và có lồng ghép kiến thức văn học
liên quan.
+Trò chơi “Đoán ý đồng đội”:
Hình thức tổ chức mô phỏng theo chương trình “Hành trình văn hoá” trên kênh VTV3,
đài truyền hình Việt Nam. GV có thể chia HS thành 4 đội chơi, chuẩn bị 4 bộ câu hỏi, mỗi bộ

khoảng 6 câu (Tuỳ theo thời lượng tổ chức để chuẩn bị số lượng câu hỏi). Khi chơi, ở mỗi
lượt, một đội được chọn ra 2 thành viên, thành viên số 1 được nhìn bảng hay màn hình trình
chiếu. Thành viên thứ 2 không được nhìn. Sau thời gian quan sát 1 phút, thành viên số 1 bắt
đầu gợi ý để thành viên số 2 trả lời các đáp án trong khoảng thời gian ban tổ chức quy định (1
phút, 2 phút, 3 phút… tương ứng với số câu hỏi đưa ra). Câu nào không biết gợi ý cũng như
không trả lời được thì người chơi có quyền bỏ qua. Nếu câu gợi ý có từ nào trùng với đáp án,
có ý nghĩa tương đương đáp án là phạm quy, không được tính điểm. Nếu trả lời đúng 1 câu
được tính 10 điểm.
2.4.2.3. Sử dụng tài liệu văn học để tổ chức dạ hội lịch sử
Dạ hội lịch sử là một hoạt động ngoại khoá có tính chất tổng hợp thu hút tất cả
HS tronmg lớp, trong trường tham dự. Nó có tác dụng củng cố làm sâu sắc thêm nhiều
tri thức khoa học và nghệ thuật, gợi dậy những cảm xúc làm cơ sở giáo dục tình cảm,
bồi dưỡng óc thẩm mĩ, gây hứng thú học tập bộ môn.
Muốn tổ chức một buổi dạ hội lịch sử có hiệu quả, yêu cầu GV phải chú ý một vài
điểm sau:
- Chọn chủ đề về văn học phải sát với lịch sử dân tộc.
- Lựa chọn nội dung văn học phải đảm bảo yêu cầu giáo dưỡng, giáo dục và phát
triển HS, phải phù hợp với yêu cầu chương trình dạy học và phù hợp với đặc điểm tâm
sinh lý HS.
- Lựa chọn hình thức tổ chức phải phong phú, đa dạng, tạo được khí thế của một
đêm lễ hội theo đúng nghĩa, cần thu hút sự tham gia của đông đảo HS vào các hoạt
động để phát huy tính chủ động sáng tạo, tinh thần tập thể cho các em.
- Cần có kế hoạch chuẩn bị công phu, chu đáo (về thời gian, địa điểm, nội dung,
hình thức, kinh phí thực hiện, khách mời…).
Có nhiều chủ đề cho dạ hội lịch sử như “Theo bước chân cha anh”, “Hồ Chí Minh
đẹp nhất tên Người”…
2.5. Thực nghiệm sƣ phạm
2.5.1. Mục đích của việc thực nghiệm sư phạm
- Vận dụng cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc sử dụng tài liệu văn học để dạy học lịch
sử Việt Nam giai đoạn 1919 – 1945. Qua đó để xác nhận cơ sở trên là đúng, GV cần phải

thực hiện trong dạy học lịch sử ở trường THCS.
- Bổ sung, làm phong phú, cụ thể hơn nhận thức về lý luận, phát huy kết quả và kinh
nghiệm từ thực tiễn dạy học lịch sử ở trường THCS. Đồng thời, góp phần khắc phục những
thiếu sót của quá trình sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử Việt Nam ở trường
THCS tỉnh Yên Bái hiện nay.
- Làm cơ sở để xem xét lại nguyên tắc xây dựng các biện pháp sử dụng tài liệu văn học
trong dạy học lịch sử Việt Nam đã nêu.
- Làm cơ sở cho việc khái quát – lý luận mang tính khả thi, đáp ứng được yêu cầu thực
tiễn của việc sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử Việt Nam ở trường THPT nói
chung.
2.5.2. Nhiệm vụ của thực nghiệm sư phạm
- Tổ chức dạy học thực nghiệm có so sánh đối chứng kết quả.
- Đánh giá tính khả thi của tiến trình dạy học các bài thực nghiệm làm cơ sở để sửa đổi,
bổ sung hoàn thiện đề tài nghiên cứu, góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn lịch sử
cho tỉnh Yên Bái.
- Đánh giá hiệu quả của việc sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử
2.5.3.Đối tượng, địa bàn trường học và giáo viên thực nghiệm sư phạm
Do phạm vi mà đề tài giới hạn nên chúng tôi tiến hành thực nghiệm sư phạm ở ba trường
thuộc ba khu vực có mức chênh lệch cả về trình độ kinh tế - văn hóa – xã hội. Trọng tâm thực
nghiệm là thực nghiệm với bài học nội khóa trên lớp.
2.5.3.1. Đối tượng thực nghiệm
HS lớp 9, năm học 2012 – 2013. Thời gian thực nghiệm là tháng 11 năm 2012.
2.5.3.2. Địa bàn các trường THCS chúng tôi lựa chọn để thực nghiệm sư phạm
Trường THCS Thị trấn Cổ Phúc, trường THCS Xuân Ái, trường THCS Kiên Thành.
2.5.3.3. Các giáo viên tham gia thực nghiệm sư phạm
 Cô giáo Hà Thị Duyệt (sinh năm 1961), trường THCS Kiên Thành.
 Cô giáo Đỗ Thị Minh Nguyệt (sinh năm 1980), trường THCS Thị Trấn Cổ Phúc.
 Cô giáo Phạm Thị Tuyết Lan (sinh năm 1979), trường THCS Xuân Ái.
2.5.4. Nội dung và phương pháp tiến hành thực nghiệm
2.5.4.1. Nội dung thực nghiệm

Chúng tôi tiến hành thực nghiệm tiết 16 bài 14: “Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ
nhất.
2.5.4.2. Phương pháp thực nghiệm
- Tiến hành thực nghiệm theo đúng phân phối chương trình và thời gian biểu do nhà
trường đề ra trong năm học 2012 – 2013, phù hợp với kế hoạch của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Trao đổi, phỏng vấn với các cán bộ quản lý nhà trường, GV và HS, dùng phiếu trắc nghiệm,
kiểm tra, thăm quan cơ sở vật chất trường học…, trao đổi với GV thực nghiệm về mục đích, nội
dung, phương pháp tiến hành thực nghiệm.
- Kiểm tra kiến thức HS bằng cách cho HS hai lớp đối chứng và thực nghiệm làm bài
kiểm tra 15 phút theo dạng trắc nghiệm khách quan kết hợp tự luận dưới dạng trả lời ngắn.
- Sau mỗi tiết dạy, chúng tôi đều trao đổi với GV cộng tác để cùng nhau rút kinh
nghiệm, đồng thời điều chỉnh giáo án cho phù hợp với thực tế.
2.5.5. Kết quả thực nghiệm
2.5.5.1. Đánh giá kết quả thực nghiệm sư phạm
Bảng 2.2. Tổng hợp điểm kiểm tra
Nhóm
Xi
Ni
Điểm
2
Điểm
3
Điểm
4
Điểm
5
Điểm
6
Điểm
7

Điểm
8
Điểm
9
Điểm
10
I
n=37
Tn
0
0
1
5
12
10
5
2
2
Đc
0
1
3
8
13
9
3
0
0
II
n=33

Tn
0
0
3
5
9
10
5
1
0
Đc
0
2
5
7
11
6
2
0
0
III
Tn
0
5
3
8
8
6
3
0

0
n=33
Đc
3
6
5
9
7
3
0
0
0

Trên cơ sở số liệu kết quả thu được, chúng tôi xử lý theo công thức toán học thống kê
(công thức 1, 2, 3 phụ lục 3) để tính ra điểm trung bình cộng cho các nhóm (mỗi nhóm có lớp
đối chứng và lớp thực nghiệm), tính ra độ lệch chuẩn. Chúng tôi thu được điểm trung bình
cộng và lệch chuẩn của nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng như sau:
Bảng 2.3. Tổng hợp kết quả thực nghiệm toàn phần
Nhóm
I
II
III
TN
X

S
6.7
(1.39)
6.4
(1.27)

5.5
(1.52)
DC
X

S
6.0
(1.18)
5.6
(1.30)
4.6
(1.48)
TN
X
-
DC
X

0.7
0.8
0.9

Phân tích bảng thống kê trên, chúng tôi nhận thấy: Ở lớp thực nghiệm kết quả đạt được
cao hơn lớp đối chứng, nhóm có độ lệch chuẩn trung bình cộng cao nhất là 0.9 và nhóm thấp
nhất là 0.7. Như vậy, rõ ràng có sự khác biệt đáng kể giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng.

Để khẳng định tính hiệu quả các biện pháp sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử
Việt Nam giai đoạn 1919 - 1945, chúng tôi tính phương sai, tham số (t) của nhóm đối chứng
và nhóm thực nghiệm. Kết quả thu được như sau:
Bảng 2.4. Giá trị t và tα của nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng

Nhóm
I
II
III
t
2.35
2.53
2.44

2.01 - 2.02
2.01 - 2.02
2.01- 2.02

Như vậy, so sánh giữa t và α trong 3 nhóm, chúng ta thấy rằng t luôn lớn hơn tα. Điều đó
chứng tỏ về phương diện thống kê, sự khác biệt giữa nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng
là có ý nghĩa, đã tạo ra được sự chuyển biến về nhận thức của học sinh. Nó cũng chứng tỏ các
biện pháp sư phạm mà luận văn đề xuất sau đây là đúng, có tính khả thi, phổ biến; GV lịch sử
nào cũng có thể làm được, phải làm trong dạy học lịch sử Việt Nam và có thể áp dụng rộng
rãi trong dạy học lịch sử hiện nay ở trường THCS trên địa bàn tỉnh Yên Bái.
2.5.5.2. Tổng hợp ý kiến GV thực nghiệm
- Các GV thực nghiệm đều khẳng định tài liệu văn học đưa vào bài thực nghiệm là vừa
đủ, không ôm đồm, không dàn trải, không làm nặng nề giờ học. Các biện pháp sư phạm thể
hiện trong thực nghiệm đã thật sự tạo ra được sự hứng thú học tập, bài giảng chẳng những
không nặng nề mà trái lại làm cho HS hết sức thoải mái khi tiếp cận với nguồn tài liệu liên
quan trực tiếp đến nội dung bài học. Vì vậy, các em rất tích cực chủ động trong lĩnh hội kiến
thức.
- Các ý kiến của GV cũng cho rằng, tài liệu văn học sử dụng trong dạy học lịch sử Việt
Nam có tác dụng rõ rệt đối với học sinh trên cả 3 mặt: giáo dưỡng, giáo dục, phát triển. Tuy
nhiên, để có nguồn tài liệu văn học sử dụng trong giảng dạy đòi hỏi GV phải đầu tư thời gian,
nghiêm túc từ khâu sưu tầm, lựa chọn và biết sử dụng chúng trong bài học nội khóa cũng như

hoạt động ngoại khóa, phải tránh tư tưởng sử dụng tài liệu một cách dàn trải cho từng sự
kiện…

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ của đề tài, kết quả nghiên cứu lý luận và thực nghiệm sư
phạm, chúng tôi rút ra kết luận như sau:
- Sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử sẽ cung cấp cho HS những hiểu biết sinh
động, cụ thể về lịch sử dân tộc; giúp các em hiểu được mối quan hệ qua lại mật thiết giữa văn
học với lịch sử; làm cho bài giảng lịch sử trở nên gần gũi, có sức hấp dẫn, thuyết phục, gây
hứng thú và kích thích sự yêu thích của các em đối với môn học. Từ sự yêu thích đó, HS sẽ
tích cực tìm tòi những kiến thức lịch sử mà các em chưa biết, GV sẽ khơi dậy được khả năng
tư duy độc lập sáng tạo, sự phát triển năng lực nhận thức và niềm say mê học tập ở các em.
Đây cũng là con đường ngắn nhất để tạo biểu tượng lịch sử, dẫn đến hình thành khái niệm và
rút ra những bài học kinh nghiệm cho thực tiễn. Qua đó, bồi dưỡng cho HS niềm tự hào về
quá khứ hào hùng của cha ông, về truyền thống quý báu của dân tộc trong quá trình dựng
nước và giữ nước. Giáo dục cho các em tình yêu quê hương, biết kính trọng nhân dân lao
động qua nhiều thế hệ. Đồng thời giúp các em nhận thức đầy đủ hơn về ý thức trách nhiệm
trong việc gìn giữ những giá trị truyền thống quý báu mà cha ông để lại.
Tuy nhiên, người GV phải hết sức lưu ý khi sử dụng nguồn tài liệu này bởi tài liệu văn
học vô cùng phong phú, đa dạng. Trong một tiết học ta có thể tìm thấy rất nhiều những áng
thơ văn có liên quan đến nội dung bài học. Thế nhưng thời lượng tiết học lại có hạn. Chính vì
vậy, người GV phải nắm chắc mục tiêu bài học, vận dụng “sơ đồ Đai ri” để lựa chọn tài liệu
văn học sao cho phù hợp với mục tiêu bài giảng. và thời gian quy định trong chương trình,
không làm loãng kiến thức lịch sử dân tộc, không “biến giờ sử thành giờ ngữ văn” góp phần
nâng cao chất lượng bộ môn. Để thực hiện được điều này, người GV nên đưa ra và trả lời các
câu hỏi: “Sử dụng tài liệu để làm gì?”, “Sử dụng cho đơn vị kiến thức nào?”, “Vì sao phải sử
dụng?”, “hình thức sử dụng như thế nào?”… Đây là cách làm thể hiện tính khoa học và cũng
là thể hiện ý thức trách nhiệm của GV khi giảng dạy lịch sử dân tộc.
- Qua nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, chúng tôi đã bước đầu đưa ra 6 biện pháp sử

dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử nhằm tạo hứng thú cho HS trong dạy học lịch sử,
từ đó nâng cao chất lượng bộ môn. GV có thể dùng tài liệu văn học trong hoạt động nội khoá
như để minh hoạ bài giảng, cụ thể hoá sự kiện, dùng kết hợp với đồ dùng trực quan, cho HS
thảo luận…và sử dụng trong hoạt động ngoại khoá như kể chuyện lịch sử, trò chơi lịch sử, dạ
hội lịch sử… Mỗi biện pháp này có một ưu thế riêng nhưng cũng ẩn chứa những hạn chế nhất
định. Do đó, người GV phải thể hiện được nghệ thuật sư phạm trong việc lựa chọn, kết hợp
khéo léo các biện pháp này trong bài giảng của mình để đạt hiệu quả dạy học tốt nhất
- Kết quả thực nghiệm sư phạm của luận văn đã chứng minh rằng những biện pháp sư
phạm mà chúng tôi đề xuất là đúng đắn, hợp lý và có tính khả thi.
2. Khuyến nghị
Từ kết quả đạt được bước đầu trong luận văn và từ thực tiễn dạy học hiện nay, chúng tôi
xin đề xuất một vài khuyến nghị sau :
Một là, phải thay đổi mặt nhận thức của GV về vai trò, tác dụng của tài liệu văn học
trong dạy học lịch sử, cải tiến phương pháp dạy học lịch sử thông qua các buổi tập huấn, học
tập chuyên đề của nhà trường, các cụm trường…
Hai là, bản thân người GV phải chịu khó đầu tư thời gian, công sức để sưu tầm tài liệu,
sắp xếp thành hệ thống theo từng tiết học, từng chương, từng phần phù hợp với nội dung và
kiến thức cơ bản trong SGK. Mỗi đoạn tài liệu nên xác định luôn biện pháp sử dụng cho tiện
lợi.
Ba là, GV cần đưa ra những yêu cầu cụ thể đối với HS trong quá trình dạy học như
sưu tầm tài liệu trước ở nhà theo định hướng của GV.
Cuối cùng, các cấp quản lý phải thực sự quan tâm, tạo điều kiện, động viên khuyến khích
GV sử dụng loại tài liệu này; tổ chức các buổi hội thảo, tập trung những GV giỏi, có kinh
nghiệm và tâm huyết với nghề để chung tay sưu tầm, chỉnh lý và biên soạn thành hệ thống tài
liệu cần thiết cho cả chương trình và kèm theo các phương pháp sử dụng cho từng đoạn tài
liệu một. Do điều kiện, thời gian và khả năng nghiên cứu có hạn, việc thực nghiệm của chúng
tôi mới chỉ dừng lại ở 3 trường THCS trên địa bàn tỉnh Yên Bái mà chưa có điều kiện thực
nghiệm trên diện rộng và ở các tỉnh khác để đối chứng. Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ tiếp
tục nghiên cứu và thực nghiệm trên một số địa bàn nữa để khẳng định tính khả thi và đảm
bảo tính khách quan hơn của đề tài.



References
1. A.A.Vaghin (1972), Phương pháp giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông trung học.
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. A.G Côvaliốp (1971), Tâm lí học cá nhân, (tập 1). Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. Hoài Anh (2001), Quê hương và cách mạng. Nxb Thuận Hoá, Huế.
4. Bình Trị Thiên tháng 8 - 1945 (1985). Nxb Thuận Hoá, Huế.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Hướng dẫn thực hiện chương trình sách giáo khoa
lớp 12 môn lịch sử. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Bộ Giáo dục & Đào tạo (2006), Chương trình giáo dục phổ thông môn Lịch sử. Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Giáo trình những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa
Mác – Lênin. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Ngữ văn 9, tập 1. Nxb Giáo dục, Việt Nam.
9. Nam Cao (truyện ngắn chọn lọc), (1986). Nxb Văn học, Hà Nội.
10. Nguyễn Thị Côi (2007), “Làm thế nào để học sinh nắm vững kiến thức trong dạy học
lịch sử ở trường phổ thông”, Tạp chí Giáo dục, (172), tr. 25.
11. Phan Cự Đệ (2000), Văn học Việt Nam (1900-1945). Nxb Giáo dục, Hà Nội.
12. Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng (2008), Tâm lý học lứa tuổi và
tâm lý học sư phạm. Nxb Thế giới, Hà Nội.
13. Tố Hữu (1998), Từ ấy. Nxb Văn học, Hà Nội .
14. I.F Kharlamốp (1979), Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như thế nào, (tập
2). Nxb Giáo dục, Hà Nội.
15. Phan Ngọc Liên (2003), Phương pháp luận sử học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
16. Phan Ngọc Liên (2005), Đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử ở trường phổ thông.
Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
17. Phan Ngọc Liên, Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng (2010), Phương pháp dạy học
Lịch sử, (tập 2). Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
18. Luật Giáo dục (2005). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

19. Hồ Chí Minh (toàn tập), (2002), tập 1. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20. N.G Đairi (1978), Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
21. Vũ Ngọc Phan (2007), Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam. Nxb Văn học.
22. Nguyễn Ái Quốc (1975), Bản án chế độ thực dân Pháp. Nxb Sự thật, Hà Nội.
23. Phạm Xuân Thạch (2003), Thơ Tản Đà. Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
24. Ngô Tất Tố (1977), tập 1. Nxb Văn học.
25. Nguyễn Minh Tuệ (1981), Hứng thú học tập tâm lý học và biện pháp hình thành.
Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
26. Trịnh Đình Tùng (chủ biên), Trần Viết Thụ, Đặng Văn Hồ, Trần Văn Cƣờng,
(2006), Hệ thống các phương pháp dạy học lịch sử ở trường THCS. Nxb Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
27. Trần Vĩnh Tƣờng (2003), Hệ thống bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử ở trường
trung học phổ thông. Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
28. Lê Văn (1996), Thơ Tố Hữu chọn lọc. Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
29. Văn học hiện thực đầu thế kỉ XX (1980). Nxb Văn học, Việt Nam.
30. Nguyễn Nhƣ Ý (2002), Từ điển tiếng Việt thông dụng. Nxb Giáo dục, Hà Nội.






×