Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Chương 4 Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng công sản Việt Nam và nhà nước- Tiểu luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.72 KB, 17 trang )

HỌC VIỆN CƠNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THƠNG
---o0o---

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Giảng viên:
Nhóm sinh viên thực hiện:
Danh sách sinh viên:

Phạm Thị Khánh
Nhóm 2

Hà Nội

i


MỤC LỤC
Lời cảm ơn........................................................................................................2
I.

Tính tất yếu và vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.........3

1.1 Tính tất yếu..............................................................................................3
1.2. Vai trị......................................................................................................3
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối
với Cách mạng Việt Nam..............................................................................4
II.

Đảng phải trong sạch vững mạnh..........................................................6

2.1 Đảng là đạo đức, là văn minh.................................................................6


2.2 Những nguyên tắc trong sinh hoạt Đảng..............................................9
2.3 Xây dựng đội ngũ cán bộ, Đảng viên...................................................13
Tài liệu tham khảo.........................................................................................15

1 | Nhóm 2 – Tư tưởng Hồ Chí Minh


Lời cảm ơn
Để hồn thành bài tiểu luận này, Nhóm 2 chúng em xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến cô Phạm Thị Khánh – Giảng viên môn Tư tưởng Hồ Chí Minh đã giảng dạy
và truyền đạt kiến thức môn học một cách sâu sắc nhất. Cô đã giúp chúng em tích lũy
thêm nhiều kiến thức để có cái nhìn ý nghĩa trong cuộc sống. Từ những kiến thức mà
cô truyền tải, chúng em đã dần trả lời được những câu hỏi trong cuộc sống thông qua
những Tư tưởng, Đường lối Cách Mạng Hồ Chí Minh. Thơng qua bài tiểu luận này,
Nhóm 2 xin trình bày lại những gì mà nhóm đã tìm hiểu về vai trị lãnh đạo của Đảng,
tính tất yếu của Đảng trong cuộc sống
Do chưa có nhiều kinh nghiệm làm để tài cũng như những hạn chế về kiến thức,
trong bài tiểu luận chắc chắn sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận
được sự nhận xét, ý kiến đóng góp, phê bình từ phía cơ Phạm Thị Khánh để bài tiểu
luận được hồn thiện hơn.
Lời cuối cùng, em xin kính chúc cơ nhiều sức khỏe, thành cơng và hạnh phúc.

I.

Tính tất yếu và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

2 | Nhóm 2 – Tư tưởng Hồ Chí Minh


1.1 Tính tất yếu

Hồ Chí Minh đã khẳng định “Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động là rất to lớn, là vô cùng vô tận. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo
mới chắc chắn chiến thắng”
 Cách mạng Việt Nam muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô
sản, phải tập hợp, vận động, tổ chức được quần chúng nhân dân và có đường
lối đúng đắn để dẫn dắt soi đường. Trong cuốn Đường “Cách mệnh”, Bác đã
chỉ rõ “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? trước hết phải có Đảng cách
mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với
dân tộc bị áp bức mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng, cũng
như người cầm lái vững thì thuyền mới chạy”
 Để thực hiện được điều đó địi hỏi cần có một chính đảng ra đời, đó
là Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
là 1 sự tất yếu để dẫn đến sự thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân
tộc.
 Đảng Cộng sản Việt Nam có lợi ích gắn chặt với lợi ích của nhân dân
lao động và giai cấp công nhân và cả dân tộc nên Đảng lôi kéo, tập
hợp và tổ chức được nhiều tầng lớp cách mạng theo phương châm
đúng đắn của Đảng
 Sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào phong trào cơng nhân dẫn đến sự hình
thành chính đảng của giai cấp công nhân. V. I. Lênin chỉ ra rằng, Đảng Cộng
sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân.
 Phong trào của công nhân là cơ sở xã hội, là sức mạnh vật chất của
chủ nghĩa Mác, khi 2 lực lượng vật chất và tinh thần này kết hợp lại
sẽ xuất hiện tổ chức Cộng sản của phong trào công nhân
 Đảng Cộng sản ra đời đánh dấu sự phát triển nhảy vọt của phong trào công
nhân từ tự phát lên tự giác, cuộc đấu tranh vì lợi ích kinh tế trong giới hạn
của chủ nghĩa tư bản cho phép chuyển sang cuộc đấu tranh chính trị nhằm
lật đổ giai cấp tư sản, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản.
 Đây là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin về qui luật hình

thành Đảng Cộng sản, nó phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
1.2. Vai trò
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, lợi ích của Đảng gắn chặt với lợi ích của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc nên Đảng có khả năng lơi kéo, vận
động, tập hợp, tổ chức và đoàn kết các tầng lớp cách mạng theo một đường lối và
phương châm đúng. Với đường lối đúng đó Đảng lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu
tranh giành chính quyền và sử dụng chính quyền đó xây dựng đất nước. Bàn về vai trị
3 | Nhóm 2 – Tư tưởng Hồ Chí Minh


của Đảng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần chúng phải
có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối và định phương châm đúng.
Điều 4 của Hiến pháp Việt Nam 2013 khẳng định vai trò lãnh đạo tuyệt đối của
Đảng lên Nhà nước và xã hội:
“Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam,
đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc, theo chủ nghĩa Marx - Lenin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội.”
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền tại Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam và ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, xã hội, chính trị của nhà nước này, đảng
viên là những người nắm giữ các cương vị chủ chốt trong các cơ quan lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Trong di chúc của Hồ Chí Minh có viết:
“Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân.”
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Cách
mạng Việt Nam
Sau gần 10 năm bơn ba tìm đường cứu nước (1911-1920), lãnh tụ Nguyễn Ái

Quốc - Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin con đường cứu nước đúng
đắn - đưa cách mạng Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản, mở đường cho
cách mạng Việt Nam thoát khỏi cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước và phát triển
mạnh mẽ, gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới.
Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa và vận dụng sáng tạo luận điểm chủ nghĩa MácLênin: “Cách mạng vô sản chỉ có thể giành thắng lợi khi có Đảng Cộng sản, chính
đảng của giai cấp cơng nhân lãnh đạo”, ngay từ rất sớm, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã
khẳng định vai trị to lớn, có ý nghĩa quyết định bởi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam. Người nhấn mạnh: “Trước hết phải có đảng
cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với các dân
tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng,
cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Vấn đề này được Người tiếp tục
khẳng định: “Muốn thắng lợi, thì cách mạng phải có một đảng lãnh đạo. Đảng phải
làm cho quần chúng giác ngộ vì đâu mà họ bị áp bức bóc lột; phải dạy cho quần chúng
hiểu các quy luật phát triển của xã hội, để họ nhận rõ vì mục đích gì mà đấu tranh; chỉ
rõ con đường giải phóng cho quần chúng, cổ động cho quần chúng kiên quyết cách
mạng; làm cho quần chúng tin chắc cách mạng nhất định thắng lợi. Cách mạng là cuộc
đấu tranh rất phức tạp. Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần chúng phải có Đảng
lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối và định phương châm cho đúng. Trên thực tế,
4 | Nhóm 2 – Tư tưởng Hồ Chí Minh


sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 03/02/1930) là kết quả tất yếu của quá
trình chuẩn bị đầy đủ của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức. Người đã kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác-Lênin với phong
trào cơng nhân và phong trào u nước để hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vừa phù hợp với quy luật phát triển của thời đại, vừa
đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất, ngay từ đầu đảm đương sứ mệnh
lãnh đạo cách mạng Việt Nam và có đường lối cách mạng đúng đắn; là chính đảng của
giai cấp công nhân Việt Nam, đội tiền phong của giai cấp công nhân, vừa mang bản

chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc; có khả năng đoàn
kết, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân đứng lên đấu tranh làm cách mạng, hợp thành nhân
tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ:
“Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng
Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo
cách mạng”. Cũng từ đó, cách mạng Việt Nam trải qua nhiều thăng trầm, vượt qua bao
nhiêu sóng gió, ngày càng tỏ rõ là lực lượng lãnh đạo tiên phong của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Qua thực tế lãnh đạo các phong trào
cách mạng, Đảng càng tỏ rõ phẩm chất, năng lực, uy tín cầm quyền. Đó cũng là minh
chứng cho luận điểm vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cách mạng muốn thắng lợi thì
phải có một Đảng lãnh đạo. Như Người đã nhấn mạnh: “Đảng ta có cơ sở khắp cả
nước, Đảng đã thu hút những người cách mạng nhất, ưu tú nhất của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng có chính cương, đường lối đúng. Đảng
lãnh đạo toàn dân đoàn kết kháng chiến, tranh được nhiều thắng lợi”.
Dưới ánh sáng của đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn, Đảng ta đã vận
động, tổ chức và lãnh đạo quần chúng nhân dân tiến hành các cao trào cách mạng rộng
lớn, chuẩn bị thực lực cách mạng, nắm bắt thời cơ, chỉ đạo cuộc Tổng khởi nghĩa
Tháng Tám năm 1945 thành công, giành chính quyền trên phạm vi cả nước. Đây là
thành quả rực rỡ đầu tiên của cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân
dân ta đã lật đổ ách thống trị của đế quốc, phát xít cấu kết với giai cấp địa chủ phong
kiến, thiết lập chế độ cộng hòa dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đơng Nam Á, như Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của
các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng
thành cơng, đã nắm chính quyền tồn quốc”. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 là thắng lợi vẻ vang của hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, qua đó
vai trị lãnh đạo của Đảng ta tiếp tục được khẳng định rõ rệt hơn: “Đảng lãnh đạo tồn
dân kháng chiến suốt chín năm và đã thắng lợi. Hiệp định Giơnevơ năm 1954 công
nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam”.
Đặc biệt, bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc và
tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước trong bối cảnh quốc tế phức tạp, tình hình kinh

tế, xã hội nước ta cịn nhiều khó khăn. Song với sự trung thành và vận dụng sáng tạo
tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng với đường lối đổi mới đúng đắn,
5 | Nhóm 2 – Tư tưởng Hồ Chí Minh


sáng tạo, Nhân dân ta đã giành được những thành tựu quan trọng, khắc phục được hậu
quả chiến tranh để lại, kinh tế - xã hội từng bước phát triển, đời sống Nhân dân từng
bước được cải thiện, quan hệ quốc tế khơng ngừng được mở rộng, quốc phịng, an ninh
được tăng cường, sức mạnh tổng hợp của đất nước tiếp tục được giữ vững và phát
triển, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Điều đó càng khẳng định
một cách sinh động và thuyết phục hơn sự đúng đắn trong thực tiễn của tư tưởng Hồ
Chí Minh về vai trị lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Qua 36 năm tiến hành đổi mới đất nước, chưa bao giờ thế và lực của cách mạng
Việt Nam, của đất nước ta lại lớn mạnh như ngày nay. Chưa bao giờ đại đa số Nhân
dân Việt Nam lại có được cuộc sống yên bình, ấm no, hạnh phúc như ngày nay. Những
thành tựu đạt được là “rất to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn
so với những năm trước đổi mới… Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực,
vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Đó là kết quả sự nỡ lực phấn đấu khơng ngừng
của tồn Đảng, tồn dân, tồn qn, trong đó yếu tố hết sức quan trọng là Đảng ta luôn
đặc biệt quan tâm đến việc tăng cường, củng cố vững chắc vai trò lãnh đạo của Đảng
theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, trong thời gian qua “một bộ phận không nhỏ” cán bộ, đảng viên, có
cả cán bộ cao cấp của Đảng sa vào chủ nghĩa cá nhân, suy thối tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống… điều này đã và đang đe dọa sự tồn vong của Đảng, làm lung lay vai trò
lãnh đạo của Đảng, vơ hình chung trở thành cái cớ để các thế lực thù địch ra sức tuyên
truyền tìm mọi cách xóa bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam bằng chiến
lược “diễn biến hịa bình” và thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Trong khi đó, tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, khó dự báo; yêu
cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế; âm mưu, thủ
đoạn chống phá của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn, nhất là thủ

đoạn dùng chiêu bài đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, hòng từng bước hạn chế, đi
đến xóa bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước, hệ thống
chính trị và tồn xã hội... Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, làm sâu sắc, cụ thể hóa và
vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với cách mạng Việt Nam, trên cơ sở đó xác định rõ những vấn đề đặt ra trong tình hình
mới có ý nghĩa rất quan trọng và cấp thiết.

II.

Đảng phải trong sạch vững mạnh

2.1 Đảng là đạo đức, là văn minh
Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln nhất
qn rằng: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Ngay từ khi bước chân lên tàu ở bến
cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước, trong dịng máu Anh Ba tràn đầy nhiệt
huyết của văn hóa con Lạc, cháu Hồng. Vì thế trong bài nói tại lễ kỷ niệm 30 năm
ngày thành lập Đảng (năm 1960),Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: “Đảng ta là đạo
đức, là văn minh”. Hồ Chí Minh coi đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng
6 | Nhóm 2 – Tư tưởng Hồ Chí Minh


Trong suốt 30 năm hoạt động ở nước ngoài (1911-1941), Nguyễn Ái Quốc đã
tranh thủ mọi thời gian, điều kiện, hoàn cảnh để tiếp nhận những điều cần thiết cho sự
nghiệp cách mạng của dân tộc mình. Người đến với phương Tây, sớm am hiểu và có
cảm tình với nền văn hóa này, trước hết là lý tưởng cách mạng dân chủ, tự do, tiến bộ,
văn minh. Thông qua những lần tiếp xúc, gặp gỡ với các nhà văn, nhà báo, nhà hoạt
động chính trị - xã hội tiến bộ thời bấy giờ; những buổi tham gia sinh hoạt văn học,
triết học, chính trị, kinh tế tại các câu lạc bộ; những chuyến tham quan nhà máy, bảo
tàng, danh lam thắng cảnh; những buổi miệt mài đọc sách trong thư viện và nhất là
cuộc sống hòa nhập với thợ thuyền lao khổ ở các nước châu Âu... đã đem lại cho

Nguyễn Ái Quốc sự hiểu biết, tích lũy những giá trị văn hóa văn minh của nhân loại.
Từ những đúc kết trên Bác cho rằng, đạo đức của Đảng thể hiện trên những quan điểm
sau đây:
 Mục đích hoạt động của Đảng là lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Đó là sự nghiệp
cách mạng theo chủ nghĩa Mác – Lênin, làm cho dân tộc được độc lập, nhân
dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc thật sự, đoàn kết hữu nghị với các
dân tộc trên thế giới.
 Cương lĩnh, đường lối, chủ trương và mọi hoạt động thực tiễn của Đảng đều
phải nhằm mục đích đó. Đảng phải ln ln trung thành với lợi ích tồn
dân tộc vì Đảng khơng có lợi ích riêng; sự ra đời và phát triển của Đảng đều
vì mục đích làm cho đất nước hùng cường đi lên chủ nghĩa xã hội, đưa lại
quyền lợi cho dân.
 Đội ngũ đảng viên phải luôn luôn thấm nhuần đạo đức cách mạng, ra sức tu
dưỡng, rèn luyện, suốt đời phấn đấu cho lợi ích của dân, của nước. Do vậy,
một trong những biểu hiện rõ nhất của Hồ Chí Minh về rèn luyện Đảng
Cộng sản Việt Nam để cho Đảng trở thành Đảng của đạo đức, của văn minh
là Người “rèn” đạo đức cán bộ, đảng viên.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đảng viên càng phải là những người có lịng nhân ái,
“phải có tình đồng chí thương u lẫnnhau”; trung với Đảng, trung với nước, hiếu với
dân; có bốn đức: Cần, Kiệm,Liêm, Chính và ln ln Chí cơng vơ tư; có tinh thần
quốc tế trong sáng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Đảng “là Đảng của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc
kiên quyết nhất, trong sạch nhất, tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân.
Những người mà:
“Giàu sang khơng thể quyến rũ
Nghèo khó khơng thể chuyển lay
Uy vũ khơng thể khuất phục”
Bên cạnh đó trong tác phẩm “Đường Cách Mệnh”, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ một
trong những tư cách của người cách mạng là “ít lịng ham muốn về vật chất”, cái hữu

hạn của giá trị vật chất so với cái vô hạn của giá trị tinh thần: Ai chẳng muốn no cơm,
7 | Nhóm 2 – Tư tưởng Hồ Chí Minh


áo ấm. Nhưng sinh hoạt vật chất hết đời người ta hết, còn tiếng tăm xấu hay tốt vẫn lan
truyền đến ngàn đời về sau. Vì vậy, người cách mạng chớ để cho ham muốn vật chất
tầm thường làm cho mình sa ngã.
Hồ Chí Minh khơng chỉ đề ra một hệ thống chuẩn mực đạo đức cách mạng cho
các thế hệ học tập mà bản thân Người đã suốt đời gương mẫu thực hiện. Trước khi từ
biệt chúng ta, Người căn dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán
bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, vững mạnh, phải xứng đáng là người
lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thành một Đảng văn minh. Điều này thể
hiện ở những nội dung sau:
(1) Đảng văn minh là một Đảng tiêu biểu cho lương tâm, trí tuệ và danh dự của
dân tộc.
(2) Đảng ra đời là một tất yếu, phù hợp với quy luật văn minh tiến bộ của dân
tộc và của nhân loại. Mọi hoạt động của Đảng đều xuất phát từ yêu cầu phát triển của
dân tộc, lấy lợi ích tối cao của dân tộc làm trọng, mọi lợi ích giai cấp đều phải đặt dưới
sự phát triển của dân tộc; mọi hoạt động của Đảng đều phải phù hợp với quy luật vận
động của xã hội Việt Nam.
(3) Đảng phải luôn luôn trong sạch, vững mạnh, làm tròn sứ mệnh lịch sử do
nhân dân, dân tộc giao phó là lãnh đạo giành độc lập cho Tổ quốc và đưa lại tự do, ấm
no, hạnh phúc cho nhân dân. Trong giai đoạn Đảng cầm quyền, HồChí Minh càng chú
trọng hơn việc phịng và chống các tiêu cực trong Đảng.
(4) Xây dựng Đảng văn minh còn thể hiện trong giai đoạn cầm quyền,Đảng
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, Đảng không phải là tổchức đứng
trên dân tộc.
(5) Xây dựng Đảng văn minh còn là ở chỗ đội ngũ đảng viên, từ những đảng

viên giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong bộ máy Đảng, Nhà nước, các đoàn thể quần
chúng, nhất là những đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý chủ chốt, cho đến đảng
viên không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý phải là những chiến sĩ tiên phong, gương
mẫu trong công tác và cuộc sống hàng ngày.
(6) Đảng văn minh phải là Đảng có quan hệ quốc tế trong sáng, hoạt động
khơng những vì lợi ích dân tộc Việt Nam mà cịn vì độc lập, chủ quyền, thống nhất và
tồn vẹn lãnh thổ của các quốc gia khác; vì hịa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển
của các dân tộc trên thế giới.
Hồ Chí Minh đã cảnh báo: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày
hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, khơng nhất định ngày hôm nay và ngày mai vẫn
được mọi người u mến và ca ngợi, nếu lịng dạ khơng trongsáng nữa, nếu sa vào chủ
nghĩa cá nhân”. Như vậy, xây dựng Đảng để choĐảng xứng đáng là Đảng đạo đức, văn
minh là một nội dung đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt
Nam, là bước sáng tạo của Người so với lý luận của V.I. Lênin về đảng kiểu mới của
8 | Nhóm 2 – Tư tưởng Hồ Chí Minh


giai cấp vô sản .
Xu hướng phát triển tất yếu của thời đại
Trong những năm qua, việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh góp phần làm cho Đảng ta ngày càng “là đạo đức, là văn minh”. Trong Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã nhấn mạnh đến cơng tác xây
dựng văn hóa trong các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội,
trong đó có rèn luyện phẩm chất đạo đức, tính tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng
viên, nhất là người đứng đầu. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đặc biệt là cơng tác
phịng, chống tham nhũng được coi là bước đột phá và được chỉ đạo thực hiện một
cách quyết liệt, đạt nhiều kết quả rõ rệt, để lại dấu ấn, được Nhân dân đồng tình, ủng
hộ; các tổ chức quốc tế ghi nhận, đánh giá tích cực. Đến nay, có thể khẳng định rằng,
tham nhũng đang từng bước được kiềm chế và có chiều hướng thuyên giảm, góp phần
giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin của Nhân dân

đối với Đảng và Nhà nước.
Cơng tác phịng, chống tham nhũng của Đảng ta tiếp tục được đẩy mạnh theo
tinh thần khơng có vùng cấm, khơng có ngoại lệ, bất kể người đó là ai. Tính từ đầu Đại
hội XII của Đảng đến tháng 6/2019, Đảng ta đã xử lý kỷ luật 70 cán bộ thuộc diện
Trung ương quản lý, trong đó có 19 Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung
ương Đảng; 20 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng Công an, Quân đội; một Ủy viên Bộ
Chính trị. Đó là những con số chưa từng có trong suốt 90 năm kể từ khi Đảng ta ra đời.
Từ nay đến hết nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng sẽ còn những vụ án tham nhũng lớn
tiếp tục được đưa ra ánh sáng. Với tình hình, xu thế khơng thể lùi của cơng tác phịng,
chống tham nhũng nói riêng và cơng tác xây dựng Đảng nói chung, Đảng ta đã, đang
và sẽ tiếp tục là hình ảnh tiêu biểu của đạo đức, văn minh mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
- Hồ Chí Minh là một biểu tượng sáng ngời.
2.2 Những nguyên tắc trong sinh hoạt Đảng
Để huy động được sức mạnh toàn dân thực hiện mục tiêu cách mạng: trước hết
phải có Đảng cách mệnh. Muốn vậy, Đảng phải vững, muốn vững phải có chủ nghĩa
làm cớt.
Tuy lấy Chủ nghĩa Mác Lênin làm cốt cho Đảng Cộng Sản Việt Nam nhưng Hồ
Chí Minh lưu ý, khi tiếp nhận và vận dựng Chủ nghĩa Mác -Lênin không nên giáo điều
theo câu chữ mà phải cách tân, sáng tạo. Phải lưu ý:
Một là, học tập, nghiên cứu, tuyên truyền nâng cao trình độ về Chủ nghĩa Mác
Lênin phải ln ln phù hợp với hoàn cảnh và phù hợp với từng đối tượng.
Hai là, vận dụng Chủ nghĩa Mác Lênin phải ln ln phù hợp với từng hồn
cảnh cụ thể.
Ba là, Đảng Cộng Sản Việt Nam phải chú ý học tập, kế thừa kinh nghiệm của
9 | Nhóm 2 – Tư tưởng Hồ Chí Minh


các Đảng anh em, tổng kết kinh nghiệm của mình bổ sung vào Chủ nghĩa Mác -Lênin.
Bốn là, Đảng Cộng Sản Việt Nam phải tăng cường đấu tranh bảo vệ sự trong
sáng của Chủ nghĩa Mác- Lênin. Đó là chống lại các luận điểm sai trái xuyên tạc Chủ

nghĩa Mác- Lênin, chống lại giáo điều, cơ hội, xét lại, phủ nhận Chủ nghĩa Mác Lênin.
5 nguyên tắc sinh hoạt Đảng
(1) Nguyên tắc tập trung dân chủ
Tập trung và dân chủ là hai mặt của nguyên tắc, có quan hệ khăng khít: Tập
trung trên nền tảng dân chủ, dân chủ dưới sự chỉ đạo của tập trung.
 Thống nhất về tư tưởng, tổ chức hành động.
 Thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên.
 Mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng.
 Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp
phần tìm ra chân lý.
 Đó là một quyền lợi, mà cũng là một nghĩa vụ đối với mọi người.
Nguyên tắc tập trung dân chủ có vị trí quan trọng hàng đầu trong tổng thể các
nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng. Việc thực hiện đúng hay không đúng nguyên
tắc tập trung dân chủ sẽ chi phối đến chất lượng của việc thực hiện các nguyên tắc tổ
chức, hoạt động khác của Đảng, như: tự phê bình và phê bình, đồn kết thống nhất...
(2) Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
Phải có tâp thể lãnh đạo vì: Một người dù xuất sắc đến đâu cũng không thể thấy
hết mọi mặt của một vấn đề. Nhiều người mới có thể thấy một cách tồn diện của vấn
đề.
Phải có cá nhân phụ trách vì: nếu có người phụ trách thì cơng việc mới chạy,
tránh dựa dẫm, công việc mới thực hiện nhanh chóng.
(3) Ngun tắc tự phê bình và phê bình
Đây là nguyên tắc do Lênin nêu ra, đó là nguyên tắc sinh hoạt Đảng. Hồ Chí
Minh gọi là luật phát triển của Đảng.
Nội dung: là góp ý giúp đồng chí, đồng nghiệp và tự bản thân kiểm điểm lại
xem cái gì làm được và chưa làm được, làm hay hoặc còn thiếu sót, sai lầm và từ đó
phát huy cái tốt.
Yêu cầu:
 Có tinh thần, dũng cảm, trung thực và cầu tiến.
 Có thái độ chân thành, cảm thơng, chia sẻ đúng nơi, đúng lúc, đúng

việc.
 Phê bình việc làm chứ khơng phê bình người.
10 | Nhóm 2 – Tư tưởng Hồ Chí Minh


Mục đích của tự phê bình và phê bình là làm cho phần tốt trong con người nảy
nở như hoa mùa xuân, phần xấu bị mất dần đi để hướng tới giá trị chân, thiện, mỹ.
Sở dĩ phải thực hiện nguyên tắc này vì Đảng từ trong dân lập nên, Đảng bao
gồm những người ưu tú nhất, kiên quyết nhất, tiên tiến nhất nhưng trong Đảng cũng
không tránh khỏi khuyết điểm, khơng phải mọi cá nhân đều hồn thiện mà đều có cái
thiện cái ác. Mặc khác những căn bệnh ngoài xã hội cũng ngấm vào Đảng. Do vậy
phải thường xuyên tự phê bình và phê bình.
Phương pháp phê bình – tự phê bình: Phải được tiến hành thường xuyên, phải
kiên quyết, thẳng thắn, không nể nang, phải trung thực, thành khẩn, phải có tình đồng
chí thương u lẫn nhau; phê phán hiện tượng bao che, lảng tránh khuyết điểm hoặc dĩ
hịa vi q hoặc lợi dụng phê bình để nói xấu, vùi dập người khác. Người thường đặt
‘tự phê bình’ lên trước ‘phê bình’vì Người cho rằng mỡi Đảng viên trước hết phải biết
tự phê bình, tự mình phải thấy rõ mình, để phát huy uuw điểm, khắc phục nhược điểm,
cũng giống như phải biết tự soi gương rửa mặt hằng ngày. Phải tự phê bình tốt thì mới
phê bình người khác tốt được.

(4) Nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh, tự giác.
Sức mạnh vô địch của Đảng là tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức nghiêm minh
của cán bộ, đảng viên.
Nghiêm minh là thuộc về tổ chức Đảng vì: đó là kỷ luật đối với mọi cán bộ,
đảng viên, không phân biệt cán bộ lãnh đạo cao hay thấp, hay là cán bộ, đảng viên
thường…tất cả đều phải bình đẳng trước kỷ luật của Đảng, Pháp luận nhà nước.
Tự giác là thuộc về mỗi cán bộ, đảng viên: tuân thủ kỷ luật Đảng cũng phải tự
giác, tự giác về nhiệm vụ của họ đối với Đảng.
Yêu cầu cao nhất của kỷ luật Đảng là chấp hành các chủ trương, chính sách của

Đảng, các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt của Đảng. Mỗi đảng viên phải trở
thành kiểu mẫu về chấp hành kỷ luật Đảng, kỷ luật của đồn thể và cơ quan chính
quyền nhà nước, có như vậy uy tín của Đảng mới cao, sức mạnh của Đảng mới được
tăng cường.
(5) Nguyên tắc đoàn kết, thớng nhất trong Đảng.
Đồn kết thống nhất trong Đảng khơng những tăng cường sức mạnh của Đảng
mà còn là cơ sở đoàn kết thống nhất trong toàn dân. Đoàn kết trong Đảng dựa trên cơ
sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, cương lĩnh đường lối, quan điểm và điều lệ Đảng,
nghị quyết của tổ chức Đảng các cấp. Đoàn kết thống nhất trong Đảng còn trên cơ sở
các nguyên tắc xây dựng Đảng: Mở rộng dân chủ, tập trung, tự phê bình. Trong Di
chúc, Người viết: “Đồn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân
ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ phải giữ gìn sự đồn kết nhất trí của
Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Ngày nay,tình hình thế giới và trong nước phát triển phức tạp,nhiệm vụ của
Đảng ngày càng nặng nề, thực tế này đòi hỏi Đảng phải củng cố và tăng cường sự
đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng, nhất là đối với các cán bộ lãnh đạo có ảnh hưởng
11 | Nhóm 2 – Tư tưởng Hồ Chí Minh


đến sự thống nhất của nhiều cán bộ đảng viên, đến toàn Đảng.Để xây dựng sự đoàn
kết, thống nhất trong Đảng, phải thực hiện và mở rộng dân chủ nội bộ để cán bộ, đảng
viên có thể tham gia bàn bạc đến nơi đến chốn những vấn đề hệ trọng của Đảng, phải
thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình với tinh thần trung thực, thẳng
thắn;thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân và các biểu
hiện tiêu cực khác,phải sống với nhau có tình có nghĩa…
(6) Đoàn kết q́c tế
Đồn kết quốc tế của Đảng xuất phát từ bản chất quốc tế của giai cấp cơng
nhân. Hồ Chí Minh đã đặt cách mạng Việt Nam là một bộ phân của cách mạng thế
giới. Người có quan niệm Tứ hải giai huynh đệ- bốn phương vơ sản đều là anh em. Hồ
Chí Minh chỉ rõ do điều kiện lịch sử, văn hóa khác nhau nhưng các Đảng Cộng sản

đều có mục đích chung, kẻ thù chung, chung nền tảng tư tưởng, do vậy phải gạt bỏ
những khác biệt để hướng vào mục tiêu chung của cách mạng thế giới.
(7) Đảng phải liên hệ mật thiết với nhân dân
Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh
quan niệm Đảng từ xã hội mà ra, Đảng do dân lập nên, nhưng Đảng là đội tiên phong,
bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp cơng nhân- giai cấp có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo
nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mối quan hệ
giữa Đảng với giai cấp và dân tộc là mối quan hệ khăng khít, gắn bó thống nhất hữu cơ
với nhau. Trong Di chúc, Người có mong muốn cuối cùng là: Xây dựng một nước Việt
Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào
sự nghiệp cách mạng thế giới.
Người cho rằng: không phải cứ dán lên trán hai chữ Đảng viên là được dân tin,
dân yêu, dân phục, mà mỗi đảng viên trong mỗi công việc phải gần dân, học dân, giữ
chữ Tín với nhân dân. Liên hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân, “học hỏi quần chúng
nhưng không theo đuôi quần chúng”, 3 phải chú ý nâng cao nhận thức cho nhân dân, đó
là yêu cầu của Hồ Chí Minh.
(8) Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn
Quyền lực của Đảng do giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tồn dân tộc
giao phó. Nhiệm vụ của cách mạng ở mỡi giai đoạn địi hỏi Đảng phải vững mạnh cả
về chính trị - tư tưởng - tổ chức. Hồ Chí Minh đã căn dặn những việc phải làm đối với
Đảng ngay sau khi nước nhà thống nhất, non sông về một mối: “Việc cần phải làm
trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, đồn viên, mỡi chi bộ đều ra
sức làm trịn nhiệm vụ đảng giao phó cho mình, tồn tâm tồn ý phục vụ nhân dân.
Làm được như vậy, thì dù cơng việc có to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất
định thắng lợi”. Những nội dung trên vừa là yêu cầu, vừa là mong muốn của Hồ Chí
Minh đối với việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
 Thực tế lịch sử đã chứng minh, Đảng lãnh đạo thành cơng cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc, Đảng chủ trương, hoạch định chính sách xây
dựng và phát triển đất nước vì vậy, vai trị của Đảng Cộng sản vơ cùng
12 | Nhóm 2 – Tư tưởng Hồ Chí Minh



quan trọng trong cả thời chiến và thời chiến và thời bình. Để làm được
điều đó, khơng phải chỉ trong q trình làm cách mạng giải phóng dân
tộc, mà cho đến ngày nay, đất nước hoàn toàn thống nhất, trải qua 80 năm
hoàn thiện và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam chưa khi nào rời xa
các nguyên tắc hoạt động và tổ chức Đảng. Có thể nói khi nào cịn chủ
nghĩa xã hội,cịn Đảng Cộng sản lãnh đạo thì khi đó 5 nguyên tắc trên vẫn
là kim chỉ nam dẫn dắt quá trình hoạt động và tổ chức của Đảng.
2.3 Xây dựng đội ngũ cán bộ, Đảng viên
Đảng muốn vững mạnh, đảng phải có đội ngũ cán bộ, đảng viên đơng về số
lượng, mạnh về chất lượng. Hồ Chí Minh đề cập rất nhiều đến việc phải xây dựng đội
ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài, trong sạch, vững mạnh. Từ vai trò của đội ngũ
cán bộ, đảng viên đối với sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh đã đã đề cập tới những
yêu cầu chủ yếu sau đây đối với đội ngũ cán bộ, đảng vên:
(1) Phải tụt đới trung thành với Đảng
Là cán bộ thì phải ln ln có lịng trung thành với Đảng, với Tổ quốc. Trong
bất kỳ khó khăn, gian khổ, phức tạp nào người cán bộ cũng phải có tinh thần vượt khó
khăn, hồn thành tốt nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao phó.
Đảng ta là đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân. Mỗi
cán bộ, đảng viên phải tuyệt đối trung thành với Đảng, suốt đời phấn đấu hy sinh vì lợi
ích cách mạng, mục tiêu lý tưởng của Đảng
Để tạo nên sự thống nhất về ý chí, hành động trong đảng mỡi cán bộ đảng viên
phải là những người “đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, trước hết, vì lợi ích của Đảng,
tức là lợi ích dân tộc, của Tổ quốc
Trung thành với cách mạng là phải hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục
vụ nhân dân, là việc gì có lợi cho dân, dù nhỏ, cũng cố gắng sức làm, nếu khi gặp lợi
ích chung của Đảng mâu thuân với lợi ích riêng của cá nhân, thì phải kiên quyết hy
sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích của Đảng
(2) Phải là những người nghiêm chỉnh thực hiện cương lĩnh, đường lối, quan

điểm, chủ trương, nghị quyết của Đảng và các nguyên tắc xây dựng Đảng.
Xây dựng Đảng về chính trị địi hỏi rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị của
Đảng, của từng cán bộ, đảng viên. Đó là tinh thần độc lập, tự chủ, ý chí tự lực, tự
cường; là sự kiên định lý tưởng, mục tiêu cách mạng; là chủ động, kiên cường đương
đầu và vượt qua khó khăn, thách thức; là tinh thần tự phê bình, phê bình thẳng thắn,
trung thực, mang tính xây dựng; là dũng cảm thừa nhận sai lầm, khuyết điểm, yếu kém
và quyết tâm sửa chữa; là linh hoạt thích ứng theo phương châm “dĩ bất biến ứng vạn
biến”.
(3) Phải luôn luôn tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng
Về công tác cán bộ, Người luôn quan tâm xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ,
đảng viên có đức, có tài. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vị trí, vai trị của người cán bộ
13 | Nhóm 2 – Tư tưởng Hồ Chí Minh


trong sự nghiệp cách mạng. Theo Người: “Cán bộ là những người đem chính sách của
Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời, đem
tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt ra chính
sách đúng. Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi cơng việc. Vì vậy, huấn luyện cán bộ là
cơng việc gốc của Đảng”.
Là cán bộ thì phải có ý thức học tập để nâng cao trình độ. hiểu biết về mọi mặt.
Muốn và để nâng cao dân trí thì phải nâng cao “đảng trí” tức là cán bộ, đảng viên phải
là những người nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước. “Đảng trí” khơng thể tụt hậu so với dân trí. Người cán bộ chuyên mơn phải
có chính trị, cán bộ chính trị phải có chun mơn. Khơng có lý luận chính trị, chun
mơn, nghiệp vụ thì khơng thể lãnh đạo và hướng dẫn nhân dân thực hiện tốt chủ
trương, đường lối của Đảng và Nhà nước.
(4) Phải có mới liên hệ mật thiết với nhân dân
Đảng viên phải là người không bao giờ thụ động trước hồn cảnh, năng động
tìm tịi phương pháp giải quyết khó khăn, “thắng khơng kiêu bại khơng nản”, ln
sáng tạo, hăng hía, nêu cao trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân.

Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải “thân dân", gần dân, không được lên mặt
"quan cách mạng" với dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiếm soát của dân
Đặc biệt, phải chống bệnh tham ơ, lãng phí, quan liêu, phải ln ln gần dân,
hiểu dân và vì dân. Cán bộ, công chức xa dân, quan liêu, hách dịch, cửa quyền... đối
với nhân dân đều dẫn đến nguy cơ làm suy yếu Nhà nước, thậm chí làm biến chất Nhà
nước vì đã vi phạm một điều có tính chất cốt yếu của cấu tạo quyền lực nhà nước là tất
cả mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
Người cán bộ phải có mối quan hệ mật thiết, máu thịt với nhân dân mà quan
trọng hàng đầu là học hỏi dân hiểu dân. Nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý, chăm lo
dân quyền, dân sinh, dân trí, dân chủ. Là cán bộ thì phải lo trước thiên hạ. vui sau
thiên hạ: giàu sang khơng quyến rũ, nghèo khó khơng chuyển lay, uy vũ khơng khuất
phục. Chỉ có như vậy thì cán bộ mới được dân tin, dân phục, dân yêu.
(5) Phải luôn luôn chịu trách nhiệm, năng động, sáng tạo.
Đảng viên phải là người không bao giờ thụ động trước hồn cảnh, năng động
tìm tịi phương pháp giải quyết khó khăn, “thắng khơng kiêu bại khơng nản”, ln
sáng tạo, hăng hía, nêu cao trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân.
Tinh thần, ý thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên đối với quá trình thực hiện
nhiệm vụ được giao thể hiện trước hết ở tinh thần chủ động, tự giác, tích cực thực hiện
chức trách, nhiệm vụ, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; nói đi đơi với làm,
đã nói thì phải làm. Tinh thần trách nhiệm với cơng việc của cán bộ, đảng viên cịn thể
hiện ở sự tích cực tìm tịi, sáng tạo các cách thức để thực hiện nhiệm vụ được giao một
cách hiệu quả, có khả năng ứng xử linh hoạt trong các tình huống bất ngờ. Cán bộ,
đảng viên có tinh thần trách nhiệm với công việc là những người luôn năng động, sáng
tạo, chủ động thực hiện nhiệm vụ phù hợp với tình hình, hồn cảnh cụ thể nhưng vẫn
14 | Nhóm 2 – Tư tưởng Hồ Chí Minh


giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương.
(6) Phải là những người ln ln phịng và chớng tiêu cực
Hồ Chí Minh quan niệm: trong quá trình cách mạng, bên cạnh việc phát huy

tính tích cực gương mẫu của đảng viên phải ln phịng và chống các căn bệnh tham
ơ, lãng phí, quan liêu, đó là kẻ địch bên trong, là giặc nội xâm. Người cho rằng “mỗi
kẻ địch bên trong là một bạn đồng hành của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngồi khơng
đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra”.
Hồ Chí Minh đưa ra yêu cầu: phải hiểu và đánh giá đúng cán bộ; phải chú trọng
huấn luyện một cách thiết thực, hiệu quả; phải sắp xếp cán bộ đúng, sử dụng cán bộ
phù hợp, đề bạt đúng cán bộ; phải kết hợp cán bộ cấp trên phái xuống và cán bộ địa
phương; phải kết hợp cán bộ trẻ với cán bộ cũ, phải chống bệnh địa phương cục bộ;
phải phòng, chống các tiêu cực trong công tác cán bộ, giúp đõ cán bộ, kiểm tra công
tác cán bộ thường xuyên.

Tài liệu tham khảo
1. Th.S Đỡ Minh Sơn, Giáo trình Tư Tưởng Hồ Chí Minh, Học viện Cơng nghệ
Bưu chính Viễn thơng
2. Nguyễn Hồng Thiêm (2016), Quan điểm Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng tác
cán bộ < >

15 | Nhóm 2 – Tư tưởng Hồ Chí Minh


16 | Nhóm 2 – Tư tưởng Hồ Chí Minh



×