MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Việc nhận thức rõ và xác định đúng thời đại có ý nghĩa cực kỳ quan trọng vì
nó giúp ta biết được những nấc thang phát triển của xã hội, nắm được yếu tố có tính
ổn định trong một thế giới đầy biến động.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người thường được đo bằng những thiên niên
kỷ, thế kỷ, thập kỷ, năm tháng, ngày giờ. Nhưng còn một cách đo khác sâu sắc hơn và
có ý nghĩa hơn nhiều là xác định sự phát triển xã hội bằng những chuyển biến, những
thay đổi có tính bước ngoặt được bắt đầu từ những sự kiện đặc biệt báo hiệu sự
chuyển hóa về chất của đời sống xã hội. Đó là cách phân định xã hội bằng thời đại, là
việc dựa vào những tiêu chí nhất định để phân kỳ lịch sử và đặt tên cho nó.
Việc nhận thức rõ và xác định đúng thời đại có ý nghĩa cực kỳ quan trọng vì
nó giúp ta biết được những nấc thang phát triển của xã hội, nắm được yếu tố có tính
ổn định trong một thế giới đầy biến động, tìm thấy xu hướng tất yếu trong vô vàn
những hiện tượng phức tạp mang tính ngẫu nhiên của đời sống xã hội.
Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, đặc biệt là mỗi Đảng Cộng sản Mác-xít Lê-ninnít rất cần phải biết mình đang sống ở thời đại lịch sử nào với những đặc điểm, tính
chất, nội dung, xu thế phát triển của nó ra sao. Biết được như vậy cũng là hiểu rõ ta
đang sống ở đâu và sẽ đi tới đâu, giúp ta nhìn xa trơng rộng, nắm bắt khuynh hướng
phát triển và quy luật xoay vần của nhân loại để vừa có thể lựa chọn được hướng đi
phù hợp với sự phát triển của lịch sử; vừa dự báo, và đoán định tới mức lường
trước được những thách đố phức tạp, tránh được những vấp váp sai lệch trên đường
đi, từ đó sẽ không bị chao đảo hoặc bị cuốn trôi trước phong ba bão táp của đời
sống chính trị quốc tế. Có như vậy, đất nước sẽ phát triển mạnh mẽ, thốt được khó
khăn nghèo đói; bình n cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân.
Ngày nay, khi tình hình thế giới và khu vực có những biến đổi hết sức phức
tạp, khi mà các thế lực thù địch ln tìm mọi cách phá hoại hệ thống các nước xã
hội chủ nghĩa trên thế giới, khi mà thế giới tồn tại hai hệ thống các nước, một bên
là hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa, một bên là hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa thì người ta ln đặt ra câu hỏi là thời đại ngày nay là thời đại nào, vì lẽ đó
việc tìm hiểu về thời đại và tiêu chí phân chia thời đại được đặt lên hơn bao giờ hết.
Đảng cộng sản Việt Nam từ khi ra đời đến nay đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam
đứng lên đấu tranh giành được rất nhiều thành tựu vơ cùng to lớn và có ý nghĩa
quan trọng. Ngày nay xu thế tồn cầu hóa, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học
công nghệ, sự vươn lên của các nước công nhiệp mới, của các cường quốc mới làm
1
cho cục diện thế giới có nhiều thay đổi. Trước u cầu đó địi hỏi Đảng ta phải có
nhận thức đúng đắn hơn về thời đại
Với mong muốn nghiên cứu tìm hiểu và nhận thức đầy đủ hơn về thời đại và
thời đại ngày nay tôi xin chọn vấn đề “Quan niệm của Đảng ta về thời đại ngày
nay” làm tiểu luận kết thúc học phần mơn Chính trị học nâng cao.
2. Tình hình nghiên cứu
Có thể nói rằng thời đại ngày nay là một vấn đề không phải là mới, liên quan
tới vấn đề thời đại ngày nay đã có rất nhiều bài viết, cơng trình nghiên cứu tiêu
biểu, nhìn chung các bài viết và các cơng trình nghiên cứu đã phân tích khá đầy đủ
về thời đại ngày nay, song trong phạm vi tiểu luận này tác giả chỉ xin trình bày
quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thời đại ngày nay.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Những quan niệm của Đảng cộng sản Việt Nam về thời đại ngày nay được đề
cập trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng
4. Mục tiêu nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của tiểu luận là những quan niệm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về thời đại ngày nay trên cơ sở đó rút ra ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề
này trong việc đưa ra những chủ trương chính sách của Đảng
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên thì tiểu luận có nhiệm vụ làm rõ một số vấn đề sau:
Khái niệm về thời đại
Khái niệm về thời đại ngày nay
Các giai đoạn phát triển của thời đại ngày nay
Nội dung và tính chất của thời đại ngày nay…
5. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử để giải quyết vấn đề, đồng thời cũng sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích
tổng hợp, logic - lịch sử để làm sáng tỏ vấn đề
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì tiểu luận có
kết cấu gồm 3 chương và 8 tiết.
2
NỘI DUNG
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỜI ĐẠI NGÀY NAY
1.1. Quan niệm về thời đại và cơ sở phân chia thời đại lịch sử
1.1.1. Quan niệm về thời đại
Thời đại là một khái niệm khoa học dùng để phân kỳ lịch sử xã hội, phân biệt
những nấc thang phát triển xã hội loài người. Các ngành khoa học khác nhau có
cách phân chia thời đại lịch sử khác nhau, ví dụ như:
Nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng Pháp là Phuriê (1772 - 1837) chia lịch sử
phát triển xã hội lồi người thành bốn giai đoạn: mơng muội, dã man, gia trưởng,
văn minh.
Nhà nhân chủng học Mỹ là Moócgan (1818 - 1881) lại phân chia thành ba
giai đoạn: mông muội, dã man và văn minh.
Nhà tương lai học người Mỹ, Anvin Tơpphlơ lại dựa vào trình độ phát triển
cơng cụ sản xuất, chia lịch sử phát triển nhân loại thành ba nền văn minh: văn minh
nông nghiệp, văn minh công nghiệp và văn minh hậu công nghiệp.
Như vậy, dựa trên những cơ sở khác nhau, có thể có sự phân chia thời đại
khác nhau. Đối với chủ nghĩa tư bản, V.I. Lênin cũng chia thành thời đại thứ nhất,
từ cuộc Đại cách mạng Pháp đến cuộc Chiến tranh Pháp - Phổ là thời đại giai cấp
tư sản đang phát triển mạnh. Thời đại thứ hai là thời đại giai cấp tư sản giành được
quyền thống trị hoàn toàn và đang bắt đầu đi xuống. Thời đại thứ ba giai cấp tư sản
đã trở thành như lãnh chúa, thời đại đế quốc chủ nghĩa.
Việc nghiên cứu thời đại lịch sử có một ý nghĩa to lớn. Có hiểu được thời đại
chúng ta đang sống là thời đại nào "thì chúng ta mới có thể định ra đúng đắn sách
lược của chúng ta; và chỉ trên cơ sở hiểu biết những đặc điểm cơ bản của thời đại,
chúng ta mới có thể tính đến những đặc điểm chi tiết của nước này hay nước nọ".
1.1.2. Cơ sở phân chia thời đại lịch sử
Theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, cơ sở thứ nhất để phân chia thời đại
lịch sử là các hình thái kinh tế - xã hội.
Theo Ph. Ăngghen, mọi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra, - cả hai cái đó tạo thành cơ sở
của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của mỗi thời đại1.
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin cho chúng ta cơ
sở khoa học để phân chia thời đại lịch sử, nó nói tới sự phát triển của lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng (bao gồm: các yếu
3
tố chính trị, tư tưởng, văn hố, khoa học, v.v.). Nó nêu lên lịch sử phát triển nhân
loại trong mỗi thời kỳ lịch sử một cách toàn diện.
Dựa vào sự thay đổi vị trí trung tâm của các giai cấp trong xã hội.
Sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế- xã hội
khác cao hơn, tiến bộ hơn, không diễn ra một cách tự phát mà phải thông qua hoạt
động của con người, hoạt động của giai cấp tiên tiến và những lực lượng cách
mạng.
Trong xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp, mỗi một hình thái kinh tế - xã
hội có một giai cấp giữ vai trị thống trị, đứng ở vị trí trung tâm của thời đại đó.
Giai cấp đứng ở vị trí trung tâm của thời đại phải là giai cấp tiên tiến, giai cấp đại
diện cho xu hướng vận động của lịch sử, có khả năng tập hợp các tầng lớp nhân dân
lao động khác vào cuộc đấu tranh xoá bỏ chế độ cũ, thiết lập chế độ xã hội mới.
Giai cấp tiên tiến đứng ở vị trí trung tâm của thời đại có vai trị quyết định xu
hướng vận động của lịch sử trong thời đại đó.
Trong chế độ phong kiến, giai cấp quý tộc phong kiến là người đại diện.
Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản là người đại diện.
Khi chủ nghĩa tư bản chuyển thành chủ nghĩa đế quốc, V.I. Lênin cho rằng đã
xuất hiện những điều kiện khách quan cho việc xố bỏ hình thái kinh tế - xã hội tư
bản chủ nghĩa, thiết lập hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Giai cấp cơng
nhân Nga, dưới sự lãnh đạo của Đảng Bơnsêvích đã lãnh đạo quần chúng nhân dân
lật đổ chế độ chuyên chế Nga hồng, xố bỏ thiết chế tư bản chủ nghĩa, mở ra một
thời đại lịch sử mới là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi thế
Như vậy, từ sau Cách mạng Tháng Mười, nội dung cơ bản của thời đại là quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới. Nhưng để
thực hiện được điều đó, giai cấp cơng nhân ở mỗi nước phải nhận thức được sứ
mệnh lịch sử của mình, tập hợp các tầng lớp nhân dân lao động tiến hành cuộc đấu
tranh kiên quyết lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, xố bỏ hình thái kinh tế - xã
hội tư bản chủ nghĩa thiết lập hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Tóm lại: Cơ sở khoa học để xác định thời đại lịch sử là những điều kiện vật
chất khách quan, hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội chỉ xã hội ở
một giai đoạn nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó,
phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng
tầng tương ứng về chính trị, đạo đức, pháp luật, được xây dựng trên quan hệ sản
4
xuất đó. Trong mỗi thời đại lịch sử lại có một giai cấp đại diện đứng ở vị trí trung
tâm, quyết định xu hướng vận động của lịch sử trong giai đoạn đó.
Hình thái kinh tế - xã hội tiên tiến mở đầu một thời đại, tạo nên nội dung của
thời đại. Nhưng khái niệm hình thái kinh tế - xã hội và thời đại lịch sử là không đồng
nhất. Trong một thời đại lịch sử đồng thời tồn tại nhiều hình thái kinh tế - xã hội, cả
hình thái kinh tế - xã hội tiên tiến và cả lạc hậu. Chúng đấu tranh với nhau một cách
quyết liệt, lâu dài. Thời đại là một thời kỳ lịch sử lâu dài có sự chuyển biến từ hình
thái kinh tế - xã hội thấp lên hình thái kinh tế - xã hội cao. Đặc trưng cho tính chất và
xu hướng vận động của thời đại là hình thái kinh tế - xã hội tiến bộ nhất.
1.2. Thời đại ngày nay và các giai đoạn chính của nó
1.2.1. Quan niệm về thời đại ngày nay
Cách mạng Tháng Mười đã mở đầu một thời đại mới trong lịch sử thế giới.
Một kỷ nguyên mới đã mở ra trong lịch sử thế giới. Nhân loại đang vứt bỏ hình
thức cuối cùng của chế độ nô lệ: chế độ nô lệ tư bản hay chế độ nơ lệ làm
th. Thốt khỏi được chế độ nơ lệ đó, lần đầu tiên nhân loại sẽ bước vào chế độ tự
do chân chính.
Sự thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười là cột mốc đánh dấu sự mở đầu
một thời đại lịch sử mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản vì cuộc cách mạng này đã làm sụp đổ trật tự xã hội cũ - xã
hội tư bản chủ nghĩa, tổ chức xây dựng một xã hội mới do nhân dân lao động làm
chủ. Sau Cách mạng Tháng Mười, nhân dân Nga (sau này là Liên Xô) đã là những
người làm chủ bộ máy nhà nước, làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã
hội. Nhân dân Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xơ, đã lao động
qn mình, nhanh chóng biến nước Nga lạc hậu thành một nước xã hội chủ nghĩa
có nền kinh tế phát triển, nhiều ngành khoa học tiên tiến, có một xã hội ln ln
quan tâm tới đời sống của quần chúng nhân dân lao động.
Với thành quả của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, với niềm tin vào lý
tưởng cộng sản đã giúp cho nhân dân Liên Xô cùng với những lực lượng dân chủ
tiến bộ trên thế giới đập tan chủ nghĩa phátxít, cứu nhân loại khỏi họa diệt chủng,
giải phóng hàng loạt nước Đông Âu, tạo điều kiện cho các nước này đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội với tính ưu việt của nó đã cổ vũ hàng loạt các nước đứng
lên đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, dân chủ cho nhân dân, xố bỏ tàn tích của
chế độ thực dân phong kiến. Nhiều nước trong số đó đã lựa chọn con đường lên
chủ nghĩa xã hội hoặc định hướng lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội đã vượt
5
khỏi phạm vi một nước trở thành hệ thống trên thế giới đối lập với thế giới tư bản
chủ nghĩa.
Sau Cách mạng Tháng Mười, nhất là từ khi nước Cộng hoà nhân dân Trung
Hoa ra đời, sự vận động của tình hình thế giới có lợi cho lực lượng hồ bình, dân
chủ và tiến bộ trên thế giới.
Tóm lại, Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở đầu thời đại mới - thời đại quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới vì:
Thứ nhất, sau Cách mạng Tháng Mười Nga chủ nghĩa xã hội đã từ lý luận trở
thành thực tiễn, đã xuất hiện hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, là cái đối
lập, phủ định hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, chiều hướng phát triển chủ yếu, trục xuyên suốt của sự vận động
lịch sử từ sau Cách mạng Tháng Mười là đấu tranh xoá bỏ trật tự tư bản chủ nghĩa,
thiết lập và từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới.
Thứ ba, từ sau Cách mạng Tháng Mười, các nước xã hội chủ nghĩa, phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế trở thành lực lượng nịng cốt, đi đầu trong cuộc
đấu tranh vì hồ bình, dân chủ và tiến bộ trên phạm vi tồn thế giới.
Thứ tư, sau Cách mạng Tháng Mười, cách mạng giải phóng dân tộc nằm
trong phạm trù cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhiều nước sau khi giành được độc lập
dân tộc đã đi lên con đường chủ nghĩa xã hội.
Sự vận động của lịch sử là quanh co và phức tạp khi tiến, khi lùi. Do vậy,
hiện nay mặc dù tình hình quốc tế đang cịn diễn ra vơ cùng phức tạp, nhưng Đảng
ta vẫn khẳng định: "Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử thách.
Lịch sử thế giới hiện trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng
nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hố của lịch sử"
1.2.2. Những giai đoạn chính của thời đại ngày nay
Thời đại ngày nay được mở đầu bằng cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ
đại, là thời đại đấu tranh cho hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã
hội, là thời đại đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ nhằm chuẩn bị
những tiền đề vật chất chín muồi cho sự xuất hiện chủ nghĩa xã hội.
Như V.I. Lênin khẳng định, tính phức tạp trong sự vận động của lịch sử nhân
loại, song có thể chia thời đại của chúng ta từ Cách mạng Tháng Mười tới nay
thành bốn giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất: Từ sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917 tới kết thúc
Chiến tranh thế giới lần thứ hai năm 1945.
6
Giai đoạn này là giai đoạn chủ nghĩa xã hội mới hình thành trên phạm vi một
số nước như Liên Xô, Mông Cổ. Cuộc Cách mạng Tháng Mười là cuộc cách mạng
đầu tiên trong lịch sử đưa nhân dân lao động từ những người nô lệ, làm thuê trở
thành những người làm chủ đất nước. Sức mạnh của chế độ mới đã giúp nhân dân
lao động Nga đứng vững trong cuộc nội chiến, đập tan âm mưu can thiệp của chủ
nghĩa đế quốc. Với khí thế lao động của những con người được giải phóng, thơng
qua chính sách kinh tế mới, thơng qua con đường hợp tác hố trong nơng nghiệp,
cơng nghiệp hố đất nước, sau 20 năm Liên Xơ đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ
trong nền kinh tế. Đó là những nguyên nhân giúp cho nhân dân Liên Xơ đánh bại
chủ nghĩa phátxít trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, cứu nhân loại khỏi thảm
họa của chủ nghĩa phátxít.
Giai đoạn thứ hai: Từ sau năm 1945 tới đầu những năm 1970.
Đây là giai đoạn chủ nghĩa xã hội phát triển thành hệ thống xã hội chủ nghĩa
thế giới.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa ra
đời, nhất là từ sau khi nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa xuất hiện, cùng với
những thành tựu to lớn của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa về kinh tế, xã hội,
văn hoá, khoa học kỹ thuật, v.v., hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã trở thành chỗ
dựa vững chắc cho phong trào đấu tranh vì hồ bình, tiến bộ trên thế giới, đẩy lùi
nguy cơ chiến tranh của những thế lực phản động quốc tế.
Những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa
đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội trong
các nước tư bản chủ nghĩa, đã động viên nhân dân các nước thuộc địa đứng lên đấu
tranh giải phóng dân tộc. Trong những năm 60 thế kỷ XX, khoảng 100 quốc gia
giành được độc lập dân tộc với những mức độ khác nhau.
Bên cạnh những kết quả đó, trong giai đoạn này, trong phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế đã có những bất hồ. Trong Di chúc của Hồ Chí Minh, phần
về phong trào cộng sản thế giới, Người viết: "... tôi càng tự hào với sự lớn mạnh
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tơi càng đau lịng bấy
nhiêu vì sự bất hoà hiện nay giữa các đảng anh em!"1.
Giai đoạn thứ ba: Từ cuối những năm 1970 đến cuối những năm 1980.
Trong giai đoạn này ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa không chú ý tới công tác
xây dựng đảng, nhiều kẻ cơ hội chui vào hàng ngũ đảng cộng sản. Một số người
mắc vào tệ sùng bái cá nhân, khơng ít người mắc bệnh kiêu ngạo cộng sản, khơng
nhìn thấy và khơng đánh giá đúng những thay đổi trong chính sách của chủ nghĩa
7
tư bản. ở khơng ít nước xã hội chủ nghĩa, bộ máy nhà nước trở nên quan liêu, vi
phạm những quyền dân chủ của nhân dân. Trong xây dựng kinh tế chủ quan nóng
vội, khơng tn thủ những quy luật kinh tế khách quan, chậm đưa tiến bộ khoa học
- công nghệ vào sản xuất. Trong lĩnh vực xã hội thực hiện bao cấp tràn lan, khơng
kích thích được tính tích cực cá nhân, do vậy khơng tạo ra được động lực thúc đẩy
xã hội phát triển.
Những sai lầm trên kéo dài, chậm được phát hiện và khắc phục triệt để đã
hạn chế tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của các nước, dẫn tới tình trạng khủng
hoảng kinh tế - xã hội ở nhiều nước, buộc các nước phải cải cách đổi mới.
Trong quá trình cải cách đổi mới, nhiều đảng cộng sản mắc những sai lầm
mang tính chất ngun tắc. Lợi dụng tình hình đó, những thế lực thù địch với chủ
nghĩa xã hội ở bên ngoài, kết hợp với những kẻ phản bội ở bên trong, thậm chí cả
những người đứng đầu cơ quan đảng và nhà nước đã tấn công làm sụp đổ chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô.
Như vậy sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đơng Âu và Liên Xơ có
ngun nhân sâu xa là những sai lầm của các đảng cộng sản, các nhà nước xã hội
chủ nghĩa, sự chống phá quyết liệt của kẻ thù và sự phản bội của một số người cộng
sản, chứ hồn tồn khơng phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội và lý luận khoa
học về chủ nghĩa xã hội như một số người vẫn đang rêu rao.
Đây cũng là bài học kinh nghiệm trong quá trình đổi mới của các nước xã
hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
Giai đoạn thứ tư: Giai đoạn từ đầu những năm 1990 tới nay.
Giai đoạn hiện nay, chủ nghĩa xã hội thế giới tạm thời lâm vào thoái trào.
Cùng với sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, nhiều đảng
cộng sản và công nhân bị tan rã, nhiều đảng viên xin ra khỏi đảng. Nhiều nước dân
tộc chủ nghĩa đã định hướng lên chủ nghĩa xã hội, nhưng giờ đây mất chỗ dựa về
vật chất và tinh thần, các lực lượng phản động giành lại chính quyền đưa đất nước
theo con đường khác. ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới
giảm đi nghiêm trọng.
Những thế lực phản động quốc tế đang dùng trăm phương, nghìn kế bằng
nhiều luận điệu khác nhau để xố bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin và phá hoại sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, nhằm xác lập sự
thống trị tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản trên thế giới.
Lịch sử đang đặt ra những thử thách to lớn cho chủ nghĩa xã hội, phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế.
8
Để vượt qua những thử thách đó, các nước xã hội chủ nghĩa phải tự đổi mới,
phải khắc phục những yếu kém, nhược điểm hạn chế trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội, tranh thủ những điều kiện thuận lợi do cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ tạo ra, không ngừng nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống
nhân dân, để nâng cao sức mạnh mọi mặt của đất nước.
Trải qua những thăng trầm của lịch sử, những người cộng sản ở các nước thuộc
Liên Xô trước đây và các nước Đông Âu hiện nay đã nhận rõ bộ mặt kẻ thù, đang ra
sức tập hợp lực lượng, tiến hành cuộc đấu tranh bền bỉ nhằm khôi phục những giá trị
của chủ nghĩa xã hội để đưa đất nước trở lại con đường xã hội chủ nghĩa.
Từ thực tế những năm vừa qua giúp cho giai cấp công nhân, nhân dân tiến bộ
trên thế giới thấy được bộ mặt thật và tính chất nguy hiểm của chủ nghĩa tư bản
hiện đại, từ đó mà đồn kết nhau lại để đấu tranh xoá bỏ chủ nghĩa tư bản, đưa đất
nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Trong thời đại ngày nay: "Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học
thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có
điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch
sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội".
1.3. Những đặc điểm cơ bản và xu thế vận động của thời đại ngày nay
1.3.1. Những đặc điểm cơ bản của thời đại ngày nay
- Đấu tranh giai cấp và dân tộc diễn ra gay gắt trên phạm vi thế giới.
Cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản vẫn diễn ra
quyết liệt trên thế giới. Chủ nghĩa xã hội vẫn là đối trọng chính của chủ nghĩa tư bản.
Do vậy, sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, các nước tư
bản chủ nghĩa tìm mọi cách xố bỏ chủ nghĩa xã hội cả trên lý luận và trên thực tế.
Giai cấp tư sản tìm nhiều biện pháp để chia rẽ, phá hoại phong trào công nhân, bằng
cách dành đặc quyền đặc lợi cho đội ngũ cơng nhân có trình độ cao: "cơng nhân cổ
cồn, công nhân áo trắng".
Nguy cơ chiến tranh thế giới đã bị đẩy lùi, nhưng xung đột sắc tộc, tôn giáo
xảy ra gay go, quyết liệt và diễn biến phức tạp trên thế giới. Chạy đua vũ trang, chủ
nghĩa khủng bố đang gây ra hậu quả rất lớn làm tổn thất về người và của cho nhiều
dân tộc.
9
- Cách mạng khoa học và công nghệ đang gây ra những thay đổi to lớn trên
thế giới.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tạo ra điều kiện nhanh chóng phát triển
lực lượng sản xuất trên thế giới. Trung bình 10 - 15 năm của cải nhân loại tăng gấp
đơi, do vậy, nhìn chung mức sống của con người không ngừng được nâng cao.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang tạo ra những thay đổi trong
nhiều quan niệm của đời sống xã hội từ kinh tế tới chính trị, văn hố, v.v., địi hỏi
chúng ta phải nghiên cứu, nắm vững và thích ứng.
Cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ đang tạo ra xu hướng tồn cầu hoá
trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế tới chính trị, văn hố, v.v.. Sự
phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng gia tăng; khoảng cách sự phân hoá
giàu nghèo giữa các nước ngày càng lớn.
- Những vấn đề tồn cầu địi hỏi sự hợp tác giải quyết của các quốc gia.
Hiện nay, cộng đồng quốc tế đang đứng trước những vấn đề có tính tồn cầu,
địi hỏi các quốc gia, các tổ chức quốc tế phải cùng nhau giải quyết, không phân
biệt chế độ xã hội, biên giới như: khoảng cách chênh lệch giữa các nhóm nước giàu
và nước nghèo ngày càng tăng; sự gia tăng dân số cùng với các luồng dân di cư;
tình trạng khan hiếm nguồn năng lượng, cạn kiệt tài ngun; mơi trường sinh thái
bị huỷ hoại; khí hậu trái đất diễn biến ngày càng xấu, thay đổi thất thường kèm theo
những thiên tai khủng khiếp; các bệnh dịch lớn, các tội phạm xuyên quốc gia có
chiều hướng phát triển. Tất cả những điều đó địi hỏi phải có sự hợp tác, liên kết
giữa các quốc gia cùng nhau giải quyết .
- Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đang là khu vực phát triển năng động,
khả năng phát triển với tốc độ cao, đồng thời cũng đang tiềm ẩn một số nhân tố có
nguy cơ gây mất ổn định.
Khu vực này có khả năng phát triển với tốc độ cao, vì tài nguyên của khu
vực chưa bị khai thác nhiều, giá lao động rẻ tạo điều kiện cho các nước trong khu
vực thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngồi; thế mạnh nơng nghiệp nhiệt đới giúp cho
các nước mở rộng giao lưu quốc tế, tranh thủ công nghệ hiện đại. Song, trong khu
vực luôn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định như những tranh chấp về ảnh
hưởng và quyền lực, về biên giới, lãnh thổ, biển đảo, tài nguyên giữa các nước;
những bất ổn về kinh tế, chính trị, xã hội ở từng nước.
Tóm lại, tình hình thế giới hiện nay đang đan xen những yếu tố phức tạp,
phát triển và suy thoái, hợp tác và đấu tranh, ổn định và mất ổn định. Tuy rằng, hiện
10
nay sự vận động của thế giới diễn ra phức tạp như vậy, nhưng chúng ta cần phải
thấy được những xu thế chủ yếu, trên cơ sở đó mà đề ra những đường lối chính
sách cho đúng nhằm tranh thủ những thuận lợi, vượt qua những thách thức để
nhanh chóng đưa đất nước ta phát triển lâu bền.
1.3.2. Những xu thế chủ yếu của thế giới hiện nay
- Toàn cầu hố .
Cách mạng khoa học và cơng nghệ là một động lực xuyên quốc gia, nó đang
tạo cơ sở vật chất cho q trình tồn cầu hố, thúc đẩy sự chuyển dịch kinh tế, cơ
cấu kinh tế, làm thay đổi nhiều quan niệm cũ về nhiều lĩnh vực trên phạm vi quốc
gia và quốc tế. Tồn cầu hố là một xu thế khách quan, vừa có mặt tích cực vừa có
mặt tiêu cực đang bị các quốc gia phát triển và các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia
chi phối. Tồn cầu hố buộc các quốc gia chủ động xác định lộ trình hội nhập vào
mọi mặt đời sống nhất là lĩnh vực kinh tế của thế giới.
- Hồ bình, ổn định để cùng phát triển .
Từ những hậu quả các cuộc chiến tranh trên thế giới, các quốc gia đều nhận thấy được
tầm quan trọng của hồ bình, ổn định để phát triển. Trong thực tế không một nước nào
có thể phát triển được trong hồn cảnh có chiến tranh, do vậy, hồ bình đã trở thành
nhu cầu bức xúc của các dân tộc trên thế giới. Có hồ bình mới có điều kiện thu hút
nguồn vốn đầu tư nước ngoài, mới huy động được sức người, sức của trong nhân dân
để phát triển đất nước. Một khi kinh tế phát triển mới có điều kiện nâng cao mức sống
nhân dân, mới có điều kiện chăm lo tới y tế, giáo dục từ đó mới có sự ổn định và
phát triển đất nước.
Phần lớn các nước trên thế giới đã dành những ưu tiên cho phát triển kinh tế,
thông qua đó mà phát triển tiềm lực của mình, tạo điều kiện giữ gìn hồ bình trong
nước và trên thế giới.
- Gia tăng xu hướng liên kết, hợp tác giữa các quốc gia .
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ,
tạo ra xu hướng tồn cầu hố trong các lĩnh vực. Khơng một quốc gia nào có thể
phát triển được nếu khơng có sự hợp tác khu vực, hợp tác quốc tế. Do vậy, hợp tác
là xu hướng tất yếu trên thế giới hiện nay.
Hình thức hợp tác quốc tế hiện nay rất đa dạng: hợp tác song phương, hợp tác khu
vực, hợp tác quốc tế. Các tổ chức quốc tế như: Liên hợp quốc, Quỹ tiền tệ quốc tế,
Tổ chức thương mại thế giới, v.v. ngày càng tham gia nhiều vào đời sống kinh tế,
đời sống chính trị của các nước.
11
Lĩnh vực hợp tác giữa các nước ngày càng đa dạng: hợp tác kinh tế, khoa học kỹ
thuật, hợp tác thương mại, hợp tác nghiên cứu chinh phục vũ trụ và cả hợp tác
chính trị.
- Các dân tộc ngày càng nâng cao ý thức độc lập, tự chủ, tự cường.
Với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, của phong trào
cách mạng trên thế giới, của phương tiện thông tin, các dân tộc ngày càng ý thức
được những quyền lợi dân tộc cơ bản của mình như: quyền độc lập dân tộc, quyền
tự quyết chế độ chính trị, quyền lựa chọn con đường phát triển, v.v.. Mặt khác, các
nước lớn, các nước giàu thường ỷ lại vào những thế mạnh về kinh tế, quân sự để
chi phối các nước nhỏ, các nước nghèo bằng cách áp đặt quan điểm chính trị, dùng
thủ đoạn bóc lột về kinh tế thông qua quan hệ trao đổi mua bán khơng bình đẳng,
thậm chí tiến hành cả những cuộc chiến tranh xâm lược, lật đổ. Điều đó đã dẫn tới
những cuộc đấu tranh của các nước dân tộc chủ nghĩa địi quyền bình đẳng, địi tơn
trọng lợi ích quốc gia dân tộc của họ.
- Các nước xã hội chủ nghĩa, các đảng cộng sản và cơng nhân kiên trì đấu
tranh vì hồ bình, tiến bộ và phát triển.
Tình hình quốc tế hiện nay có những diễn biến phức tạp, nhưng phấn đấu cho hồ
bình, ổn định, tiến bộ và phát triển vẫn là xu thế chung của nhân loại. Hiện nay, tuy
rằng chủ nghĩa xã hội đang gặp khó khăn rất lớn, đang phải đấu tranh chống lại
những âm mưu phá hoại của kẻ thù, nhưng các nước xã hội chủ nghĩa, cùng với các
đảng cộng sản và công nhân quốc tế vẫn là lực lượng đi đầu, là nòng cốt trong cuộc
đấu tranh chống lại những thế lực gây chiến, bảo vệ hồ bình thế giới, phấn đấu cho
sự phát triển và tiến bộ của nhân loại.
- Các nước có chế độ chính trị khác nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh cùng
tồn tại trong hồ bình.
Các nước xã hội chủ nghĩa là những nước có nền kinh tế phát triển thấp,
trình độ khoa học - cơng nghệ chưa phát triển, do vậy, cần tranh thủ khoa học - kỹ
thuật, công nghệ tiên tiến của các nước tư bản phát triển để phát triển sản xuất,
nâng cao đời sống nhân dân, tăng năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hố.
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là lợi nhuận. Các nước tư bản chủ
nghĩa thấy được những tiềm năng to lớn về đầu tư, mở rộng buôn bán trong các
nước xã hội chủ nghĩa. Cho nên, sự hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa và các
nước tư bản chủ nghĩa là tất yếu.
12
Song, sự đối lập về hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và giai cấp tư sản
không hề giảm. Mâu thuẫn về lợi ích giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân vẫn
là mâu thuẫn cơ bản nhất. Cho nên, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội vừa
hợp tác vừa đấu tranh là tất yếu.
Thế giới hiện nay đang đồng thời tồn tại cả những thời cơ và thách thức,
những thuận lợi và khó khăn, những người cộng sản phải đi sâu nghiên cứu nắm
bắt thời cơ, tranh thủ những thuận lợi để vượt qua những khó khăn, thách thức đưa
cách mạng tiến lên.
Cuộc đấu tranh này vơ cùng gay go phức tạp, địi hỏi các đảng cộng sản, các
nhà nước xã hội chủ nghĩa phải tự đổi mới, phải tiếp tục bổ sung, phát triển về mặt
lý luận, đấu tranh khắc phục tình trạng yếu kém trong quản lý kinh tế, quản lý xã
hội, quản lý nhà nước để đưa cách mạng tiến lên.
Các đảng cộng sản, các nước xã hội chủ nghĩa phải nhanh chóng tập hợp lực
lượng, khắc phục những bất đồng trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
kịp thời ngăn chặn những âm mưu hiếu chiến của những thế lực phản động quốc tế,
thơng qua đó mà phát huy ảnh hưởng trong quần chúng nhân dân, đấu tranh cho
dân sinh, dân chủ và thực hiện thắng lợi mục tiêu của chủ nghĩa cộng sản.
Muốn thực hiện được điều đó, các đảng cộng sản phải có đường lối cách mạng,
có chiến lược, sách lược đúng đắn, phải tìm ra nhiều hình thức đấu tranh, phải tiếp tục
bổ sung phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin cho phù hợp với thời đại ngày nay.
13
CHƯƠNG II
QUAN NIỆM CỦA ĐẢNG TA VỀ THỜI ĐẠI NGÀY NGAY
2.1. Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về những vấn đề trong
thời đại ngày nay
2.1.1. Về những vấn đề trong thời đại ngày nay
Vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào
khủng hoảng toàn diện và nghiêm trọng, cuối cùng đi đến sụp đổ trên một bộ phận
lớn đã làm thay đổi cơ bản quan hệ chính trị thế giới. Bên cạnh đó cuộc cách mạng
khoa học - cơng nghệ hiện đại đã và đang tác động đến tất cả các quốc gia dân tộc
với mức độ khác nhau. Chủ nghĩa tư bản sử dụng những thành tựu của cách mạng
khoa học - cơng nghệ nên thích nghi và tiếp tục phát triển. Các quốc gia trong cộng
đồng thế giới đều điều chỉnh chính sách đối ngoại để phù hợp với tình hình mới.
Tại Đại Hội Đại Biểu Tồn Quốc lần thứ VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam
diễn ra từ ngày 15 đến 18 tháng 12 – 1986 tại Hà Nội, Đảng ta chỉ rõ : Sau khi hoàn
thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, Đảng ta đã lãnh đạo nhân
dân cả nước thực hiện nhiệm vụ xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc trong hoàn
cảnh hết sức đặc biệt : tiếng súng ở Miền Nam vừa chấm dứt, chiến tranh lại diễn ra
ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Mỹ và các nước tư bản đã bao vậy, cấm
vận, cô lập Việt Nam, làm cho Việt Nam rơi vào thế bị bao vậy về kinh tế, chủ yếu
ta ta chỉ có quan hệ với Liên Xơ và các nước Đơng Âu.
Chúng ta tiến hành xây dựng CNXH với một điểm xuất phát, từ một nền
kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, nông nghiệp là chủ yếu, hậu quả chiến tranh tàn
phá nặng nề trên phạm vị cả nước chưa khắc phục được. Cùng lúc đó ta lại mắc
phải sai lầm chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan : bố trí cơ cấu kinh
tế chưa hợp lý, cơ chế quản lý kinh tế theo lối tập trung quan liêu bao cấp, nóng vội
trong cải tạo XHCN, chỉ chú trọng cơng hữu hóa tư liệ sản xuất. Hậu quả là người
lao động bị kìm hãm, sức lao động không được phát triển. Kinh tế phát triển chậm,
sản xuất trì trệ, cung khơng đủ cầu. Nền kinh tế quốc dân khơng có dự trữ, khủng
hoảng trầm trọng, phải nhập khẩu gạo trong khi nạn thất nghiệp tràn lan, ruộng đất
bị bỏ hoang, phân phối, lưu thông ách tắc.
Trên thực tế, những năm 1976 – 1980, ta đã đẩy mạnh cơng nghiệp hóa trong
khi chưa có đủ tiền đề cần thiết. Về cơ cấu, nền kinh tế không kết hợp chặt chẽ
ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lý, chưa coi trọng,
14
phát triển đúng vị trí của nơng nghiệp, trong nền kinh tế quốc dân, những chỉ tiêu
đặt quá cao về xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất, không coi trọng đúng mức
việc khôi phục và sắp xếp lại các ngành kinh tế, thiên về xây dựng công nghiệp và
những cơng trình có quy mơ lớn. Kết quả đầu tư nhiều nhưng hiệu quả rất thấp, dẫn
đến tình trạng khủng hoảng kinh tế, đời sống khó khăn, hàng hóa thiếu, giá cả tăng
nhanh, lạm phát leo thang. Có một số chủ trương sai lầm trong việc cải cách giá cả
và tiền lương, công tác tư tưởng và tổ chức ván bộ phạm nhiều khuyết điểm, dẫn
đến trong nhận thức và hành động chưa đúng.
Bên cạnh những khó khăn trong nước, tình hình quốc tế diễn biến cũng hết
sức phức tạp, khủng hoảng dẫn đến tan rã chế độ XHCN ở một số nước Đơng Âu và
Liên Xơ. Từ đó cho thấy mơ hình CNXH kiểu cũ khơng cịn thích hợp, cần có sự
thay đổi cho phù hợp với nhu cầu khách quan, nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật. Đại hội nhận định năn
năm qua là một chặng đường đầy thử thách đối với Đảng và nhân dân ta. Cách
mạng nước ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những thuận lợi cơ
bản nhưng cũng có nhiều mặt phức tạp, khó khăn.
Từ thực tiễn cách mạng đó, Đại Hội VI nêu ra những bài học kinh nghiệm :
Một là, trong hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tuwownge lấy dân
làm gốc, xây dựng và phát huy quyền làm chủ cuat nhân dân lao động.
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo
quy luật khách quan.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại trong
điều kiện mới.
Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng
cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng XHCN.
Trong dự thảo NQ HN TƯ 7/ Tháng 8 – 1989, Đảng ta đánh giá quan hệ chính
trị trên thế giới : Trên thế giới, vài năm gần đây, hình thức đối thoại, đàm phán ngàu
càng mở rộng. Nhiều cuộc họp cấp cao Xô – Mỹ để bàn về các vấn đề giảm vũ khí hạt
nhân và nhiều vấn đề khác. Nhiều cuộc gặp gỡ giữa các nguyên thủ của Liên Xô với
các nguyên thủ nhiều nước phương Tây. Hoặc ở một số nước, số khu vực, có những
cuộc đàm phán để giải quyết các xung đột. Đó là sự thật, nhưng từ đó có một số Đảng
đi tới nhận định khái quát : ngày nay thế giới đã chuyển từ đối đầu sang đối thoại.
Trong Đảng ta, cũng có người nhận định như vậy. Đảng ta cho rằng quan điểm đó
khơng đúng, bởi vì trên thế giới, cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai hệ thống
XHCN và TBCN đang diễn ra rất phức tạp và quyết liệt. Bọn đế quốc chưa bao giờ từ
15
bỏ mưu đồ chống phá và tiêu diệt CNXH, chống phá phong trào giải phóng dân tộc và
độc lập xã hội, chống phá phong trào dân chủ và hịa bình. Chúng vẫn và đang tiến
hành chiến tranh cục bộ qua các tay sai, dùng bạo lực lật đổ, phá hoại về chính trị,
kinh tê, tư tưởng, văn hóa ở nước này hay nước khác. Các dân tộc bị áp bức, lệ thuộc,
GCCN các nước tư bản đang đấu tranh chống CNĐQ, chống giai cấp tư sản, giành và
bảo vệ độc lập dân tộc, dân chủ,CNXH và bảo vệ hịa bình thế giới bằng nhiều hình
thức đấu tranh, một biểu hiện, xu hướng trong quan hệ chính trị giữa một số nước. Và
thực chất của đối thoại cũng là đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp. Cho nên không thể
quy kết trạng thái thế giới hiện nay thành công thức : ngày nay thế giới chuyển từ đối
đầu sang đối thoại. Nói như vậy sẽ gây mơ hồ, thấy bản chất đấu tranh giai cấp. Sử
dụng đối thoại, đàm phán như một hình thức đấu tranh trong những ddiwwuff kiện
nhất định là cần thiết và nên dùng, nhưng khái quát đối thoại thành một xu hướng
chính trị chủ yếu trong quan hệ với CNĐQ là không đúng, gây mơ hồ về cuộc đấu
tranh giữa hai hệ thống.
Tiếp đó, tại Hội Nghị TW lần thứ 7 tháng 8 – 1989, Đảng ta đã đưa ra nghị
quyết về một số vấn đề cấp bách trước tình hình trong nước và quốc tế hiện nay :
Những diễn biến lớn trên thế giới và trong công cuộc đổi mới của nước ta đã tác
động nhiều đến tư tưởng trong Đảng và nhân dân.
Trên thế giới, cuộc đấu tranh cho hồ bình, ngăn ngừa chiến tranh ht
nhõn do Liên Xô và Trờn th gii, cuc đấu tranh cho hồ bình, ngăn ngừa chiến
tranh hạt nhân do Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đề xướng ngày càng tập
hợp được đông đảo nhân dân thế giới chống bọn đế quốc hiếu chiến đứng đầu là đế
quốc Mỹ. Phong trào bảo vệ độc lập dân tộc và giải phóng dân tộc tiếp tục phát
triển. Cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động trong các nước tư bản chủ nghĩa vẫn tiếp diễn. Sự kiện nổi lên hiện nay là tình
hình cải tổ, cải cách, đổi mới ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa và những âm mưu,
hành động của chủ nghĩa đế quốc chống phá chủ nghĩa xã hội.
Công cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới ở một số nước xó hội chủ nghĩa đó thu
được một số thành tựu, nhưng một số nước gặp khó khăn gay gắt, các nước CNXH
đang đứng trước thử thách lớn. Các nước xã hội chủ nghĩa đề xướng ngày càng tập
hợp được đông đảo nhân dân thế giới chống bọn đế quốc hiếu chiến đứng đầu là đế
quốc Mỹ. Phong trào bảo vệ độc lập dân tộc và giải phóng dân tộc tiếp tục phát
triển. Cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao
động trong các nước tư bản chủ nghĩa vẫn tiếp diễn. Sự kiện nổi lên hiện nay là tình
16
hình cải tổ, cải cách, đổi mới ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa và những âm mưu,
hành động của chủ nghĩa đế quốc chống phá chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị TW lần thứ 8 khóa VI ngày 27 – 3 – 1990 về tình hình các nước xã
hội chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng
ta đã nhấn mạnh : Các nước XHCN đang lâm vào khủng hoảng toàn diện và
nghiêm trọng nhất từ trước tới nay. Ở một số nước, lực lượng chống chủ nghĩa xã
hội đã nắm được chính quyền, đang đưa các nước đó đi theo con đường tư bản chủ
nghĩa. Đảng Cộng sản và công nhân bị suy yếu nghiêm trọng, đã trở thành phe
thiểu số đối lập; có đảng tan rã trong một thời gian rất ngắn, có đảng bị phân liệt,
có đảng chuyển sang khuynh hướng xã hội dân chủ. Ở một số nước xã hội chủ
nghĩa khác, các đảng cộng sản và công nhân vẫn nắm được chính quyền, nhưng
đang gặp nhiều khó khăn với mức độ khác nhau: có nước khủng hoảng diễn ra rất
nghiêm trọng, nhiều tổ chức, đảng phái chống chủ nghĩa xã hội ra đời và đang ráo
riết hoạt động, tình hình xã hội rối ren, các cuộc xung đột dân tộc, biểu tình, bãi
cơng diễn ra liên tiếp; có nước, tuy chưa diễn ra những rối ren lớn về chính trị,
nhưng có nhiều nhân tố khơng ổn định; có nước vẫn giữ được sự ổn định về chính
trị, thu được những thành tựu quan trọng trong đổi mới, nhưng vẫn chưa ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Cuộc khủng hoảng hiện nay ở các nước xã hội chủ nghĩa đang tác động tiêu
cực tới phong trào cách mạng thế giới, làm cho so sánh lực lượng trên thế giới về
nhiều mặt, trong đó có thế cân bằng chiến lược về quân sự, thay đổi bất lợi cho
cách mạng.
Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc lần thứ VII của Đảng Lao Động Việt Nam diễn
ra từ ngày 24 đến 27 tháng 6 năm 1991 :
Đại hội tiến hành trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những diễn biến
phức tạp. Đó là sự khủng hoảng trầm trọng của chế độ CNXH ở Liên Xô và Đông
Âu, sự chống phá nhiều phía vào CNXH, chủ nghĩa Mác – Lênin và Đảng Cộng
Sản, những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch quốc tế hịng xóa bỏ
CNXH hiện thực và sự hoang mang, dao động của một bộ phận những người cộng
sản trên thế giới đã tác động đến tư tưởng và tình cảm của một bộ phận cán bộ,
đảng viên và nhân dân Việt Nam.
Đại hội lần thứ VII của Đảng cũng đánh dấu mốc mới của Đảng Cộng Sản
Việt Nam, đó là sự ra đời của Cương Lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ.
Trong cương lĩnh, đánh giá về bối cảnh tình hình thế giới lúc đó, Đảng ta vẫn kiên
17
định lập trường CNXH và quyết tâm xây dựng đất nước tiến theo con đường
XHCN mà chúng ta đã và đang chọn.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong một hồn cảnh quốc tế có những
biến đổi to lớn:
Sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, chủ nghĩa xã hội đã trở thành một
hệ thống thế giới. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã đạt được những thành
tựu to lớn về phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá, khoa học - kỹ thuật, nâng cao mức
sống của nhân dân. Sự lớn mạnh của các nước xã hội chủ nghĩa đã từng là chỗ dựa
vững chắc thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc và phong trào dân chủ của giai
cấp công nhân và nhân dân các nước tư bản chủ nghĩa, là lực lượng chủ yếu bảo vệ
hồ bình, đẩy lùi nguy cơ của một cuộc chiến tranh huỷ diệt, góp phần quan trọng
vào cuộc đấu tranh vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Nhưng, những sai lầm và mâu thuẫn tích tụ từ lâu chậm được khắc phục, là
nguyên nhân sâu xa làm cho nhiều nước xã hội chủ nghĩa lâm vào một cuộc khủng
hoảng trầm trọng, kéo dài, dẫn đến những cuộc bùng nổ quyết liệt, làm cho Đảng
Cộng sản ở một số nước mất vai trị lãnh đạo chính quyền, thay đổi chế độ chính
trị, xã hội. Các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng những sai lầm và khó khăn
đó, tiến hành cuộc phản kích nhằm xố bỏ chủ nghĩa xã hội. Mâu thuẫn giữa chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đang diễn ra gay gắt.
Chủ nghĩa xã hội đang gặp nhiều khó khăn và suy yếu. Nhưng nếu biết rút ra
từ thực tiễn những bài học cần thiết, phát triển và vận dụng đúng đắn chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của mỗi nước, vượt qua những khó khăn, trở ngại
tiếp tục sự nghiệp đổi mới, củng cố niềm tin và sự ủng hộ của nhân dân, chủ nghĩa
xã hội sẽ lấy lại được sức sống, đi đúng quỹ đạo và cuối cùng nhất định sẽ giành
thắng lợi.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống tư bản chủ nghĩa thế giới bị sụp đổ
từng mảng, phạm vi thống trị bị thu hẹp. Trước tình hình đó, chủ nghĩa tư bản đã
tìm mọi cách tự điều chỉnh để bảo vệ và kéo dài sự tồn tại của mình.
Sử dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ, nhiều nước tư bản
đã tăng nhanh sản xuất và năng suất lao động, đi vào một giai đoạn phát triển mới
của lực lượng sản xuất. Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại, một mặt tạo
điều kiện cho chủ nghĩa tư bản có những bước phát triển nhất định; mặt khác chính
nó lại khơng ngừng khoét sâu mâu thuẫn cơ bản vốn có giữa tính chất xã hội hố
ngày càng tăng của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa về các tư liệu sản xuất. Mặc dù gặp nhiều khó khăn, giai cấp cơng nhân và
18
nhân dân lao động vẫn tiến hành cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước, chủ nghĩa tư bản độc quyền siêu quốc gia, vì mục tiêu dân sinh, dân chủ.
Mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản rõ ràng không phải mất đi, trái lại ngày
càng gay gắt thêm và cuối cùng dẫn đến sự diệt vong không sao tránh khỏi.
Các nước dân tộc độc lập và đang phát triển đang phải tiếp tục cuộc đấu
tranh hết sức khó khăn, phức tạp chống chủ nghĩa thực dân mới dưới nhiều hình
thức, kể cả những cuộc chiến tranh cục bộ do các thế lực hiếu chiến xâm lược gây
ra nhằm giữ vững độc lập và chủ quyền dân tộc; làm chủ tài nguyên phong phú và
lực lượng lao động dồi dào; chống đói nghèo và lạc hậu; giải quyết những mâu
thuẫn xã hội dân tộc; đáp ứng những yêu cầu cấp bách của đời sống nhân dân. Mặc
dù cuộc khủng hoảng sâu sắc của các nước xã hội chủ nghĩa đang gây tác động tiêu
cực đến cuộc đấu tranh của các nước dân tộc độc lập, nhưng các dân tộc này vẫn
tiếp tục sự nghiệp giải phóng nhằm đạt được mục tiêu đã chọn.
Lồi người đang đứng trước những vấn đề tồn cầu gay gắt, có liên quan đến
vận mệnh của các dân tộc. Đó là các vấn đề giữ gìn hồ bình, đẩy lùi nguy cơ chiến
tranh huỷ diệt, bảo vệ và làm sạch môi trường sống, bảo vệ và tái tạo tài nguyên
thiên nhiên, hạn chế sự bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những tật bệnh nguy
hiểm. Con đường giải quyết có hiệu quả nhất các vấn đề tồn cầu là sự phối hợp
sức lực và tài năng, với ý thức trách nhiệm cao của tất cả các dân tộc trên thế giới.
Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn
hút tất cả các nước với những mức độ khác nhau. Chỉ từ vài thập kỷ lại đây đã xuất
hiện nhiều cuộc bùng nổ khoa học - kỹ thuật làm đảo lộn nền sản xuất hiện đại. Sự
xuất hiện của một nền công nghệ mới có tác dụng to lớn đối với sự phát triển của
các lực lượng sản xuất xã hội, dẫn đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế của nhiều quốc
gia, thúc đẩy mạnh q trình phân cơng lao động và giao lưu quốc tế. Bước tiến phi
thường của khoa học - kỹ thuật đánh dấu đỉnh cao mới của sự phát triển trí tuệ lồi
người, mở ra một nền văn minh mới, có ảnh hưởng sâu sắc đối với cuộc sống của
các dân tộc.
Hồ bình, hồ hỗn, quốc tế hố kinh tế, chuyển giao cơng nghệ, trao đổi văn
hố, thơng tin trở thành xu thế chung và là một thời cơ lớn đối với các nước đang
phát triển.
Bức tranh toàn cảnh của thế giới thật là phức tạp và đầy mâu thuẫn giữa đối
lập và thống nhất, đấu tranh và hợp tác, hồ hỗn và đối đầu. Nội dung cơ bản của
thời đại chúng ta vẫn là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười
19
Nga vĩ đại. Đây là một thời đại lịch sử lâu dài trải qua nhiều thế hệ, qua nhiều thế
kỷ đấu tranh. Hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa nhất định sẽ thay thế hình
thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, đó là quy luật phát triển tất yếu của lịch sử.
Trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến đổi lớn, chúng ta cần tranh thủ thời
gian, phấn đấu rút ngắn khoảng cách giữa nước ta với các nước phát triển. Chấp
nhận thách thức, nắm lấy thời cơ, vươn lên kịp bước tiến chung của các dân tộc và
của thời đại - đó là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn.
Bước sang Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc lần thứ VIII của Đảng từ ngày 28 –
6 đến ngày 1 – 7 năm 1996 tại Hà Nội khẳng định : cuối những năm 80 đầu những
năm 90 của thế kỷ XX, CNXH tạm thời lâm vào thoái trào sau sự sụp đổ của Liên
Xơ và Đơng Âu, nhưng điều đó khơng làm thay đổi tính chất của thời đại, lồi
người vẫn đang trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH.
Nguy cơ chiến tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi, nhưng xung đột vũ trang,
chiến tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt
động can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi.
Cách mạng khoa học – công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng
cao, tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội. Quốc tế hóa và khu
vực hóa nền kinh tế thế giới, đã và đang trở thành xu hướng chủ đạo, cuốn hút
nhiều quốc gia tham gia.
2.1.2. Tồn cầu hóa là xu thế phát triển chính của thời đại ngày nay
Vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, CNXH ở Liên
Xơ và Đơng Âu sụp đổ hồn tồn, nhà nước Liên Bang Xơ Viết tan rã. Trong bối
cảnh đó Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã phải thay đổi quan điểm về thế giới và
đường lối đối ngoại của mình để phù hợp hơn với xu thế mới của thời đại nhằm
phát triển đất nước.
Trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rõ hơn về CNXH và về thời kỳ
quá độ lên CNXH, Đảng ta đã khơng ngừng bổ sung, phát triển, hồn thiện đường
lối đổi mới, làm rõ hơn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới và
xây dựng CNXH ở Việt Nam trong đó, vấn đề tồn cầu hóa ln được đặt lên vị trí
hàng đầu trong chính sách phát triển đất nước thời kỳ quá độ ở nước ta.
Đại hội Đảng VI, tháng 12 năm 1986 nhấn mạnh : thắng lợi của nhân dân ta
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thể hiện sinh động sự kết hợp sức
mạnh của dân tộc ta với sức mạnh của các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế
giới. Trong tình hình hiện nay nước ta càng có nhiều điều kiện để tranh thủ sự ủng
20
hộ quốc tế. Hoạt động đối ngoại của Đảng ta phải phục vụ cuộc đấu tranh bảo vệ tổ
quốc, giữ gìn an ninh chính trị, làm thất bại cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt
của địch, tiếp tục làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với Lào và Campuchia. Đồng thời
tranh thủ những điều kiện thuận lợi mói về hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật,
tham gia ngày càng rộng rãi việc phân công và hợp tác trong hội đồng tương trợ
kinh tế, tranh thủ mở rộng quan hệ quốc tế.
Chúng ta luôn ủng hộ một cách nhất quán và triệt để phong trào đấu tranh
giải phóng và độc lập dân tộc, lên án chính sách đàn áp, chống phá thành quả cách
mạng của các nước độc lập trẻ tuổi, lên án chính sách đàn áp, chống phá thành quả
cách mạng của các nước độc lập trẻ tuổi của các giới đế quốc, ủng hộ mạnh mẽ
cuộc đấu tranh anh dũng của GCCN và nhân dân ở các nước TBCN phát triển, ủng
hộ chính sách đồn kết, tập hợp mọi lực lượng dân chủ và tiến bộ của các Đảng
Cộng Sản và công nhân anh em.
Trung thành với Chủ Nghĩa Mác – Lênin, thấm nhuần những tư tưởng và
tình cảm cách mạng trong sáng của chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta tiếp tục giương
cao ngọn cờ vì hịa bình, độc lập dân tộc và CNXH, kết hợp nhuần nhuyễn chủ
nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữ vững độc lập tự chủ,
tăng cường hợp tác quốc tế, ra sức làm tròn nhiệm vụ dân tộc và làm tốt nghĩa vụ
quốc tế đối với nhân dân thế giới.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH tại Đại
Hội VII, Đảng ta cũng khẳng định :
Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là nhằm mục tiêu tranh thủ
điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời
góp phần vào sự nghiệp hồ bình và cách mạng của nhân dân thế giới. Hoàn cảnh
quốc tế hiện nay rất phức tạp, đồng thời có những thuận lợi để nhân dân ta thực
hiện mục tiêu nói trên.
Đảng và Nhà nước ta tiếp tục kiên trì đường lối đối ngoại độc lập tự chủ và
đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp lợi ích
dân tộc chính đáng với lợi ích chung của nhân dân thế giới, gắn liền chủ nghĩa yêu
nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Đảng và Nhà nước ta sẽ phấn đấu không mệt mỏi nhằm củng cố và phát triển
quan hệ hữu nghị và hợp tác truyền thống với Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa khác. Đảng và nhân dân ta hết sức quý trọng mối quan hệ đặc biệt mà nhân
dân ta cùng với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia đã tạo nên trong cuộc đấu
21
tranh lâu dài vì độc lập, tự do của mỗi nước và làm hết sức mình để bảo vệ, tăng
cường truyền thống tốt đẹp đó trong giai đoạn mới.
Chúng ta tiếp tục phấn đấu để khơi phục tình hữu nghị và hợp tác với Đảng
Cộng sản Trung Quốc và Nhà nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa.
Đảng Cộng sản Việt Nam trước sau như một ủng hộ cuộc đấu tranh kiên cường của
giai cấp công nhân và nhân dân các nước chống các thế lực phản động, vì hồ bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam sẵn sàng thiết
lập và mở rộng quan hệ với các đảng và các phong trào cách mạng, dân tộc, dân
chủ, các đảng xã hội - dân chủ và các lực lượng đấu tranh cho hoà bình thế giới và
tiến bộ xã hội.
Việt Nam mong muốn mở rộng quan hệ hợp tác, hữu nghị và giúp đỡ lẫn
nhau với các nước đang phát triển ở châu á - Thái Bình Dương, châu Phi và Mỹ
latinh nhằm khắc phục nghèo nàn lạc hậu, bảo vệ lợi ích chính đáng về chính trị và
kinh tế. Chúng ta đặc biệt coi trọng việc phát triển quan hệ với các nước Đông Nam
á, xây dựng khu vực này thành khu vực hồ bình, ổn định, tự do và trung lập. Việt
Nam tiếp tục hoạt động tích cực trong Phong trào khơng liên kết vì mục tiêu cao cả
chung là hồ bình, độc lập dân tộc và phát triển. Việt Nam sẵn sàng thiết lập và mở
rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính
trị - xã hội khác nhau trên cơ sở năm ngun tắc cùng tồn tại hồ bình, tơn trọng
độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ
lực và đe doạ dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế, mở rộng đến mức cao nhất có thể
được sự hợp tác bình đẳng, cùng có lợi.
Tại báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII năm 1996 có nói:
Đảng ta khẳng định: sau những biến cố chính trị ở Liên Xô và Đông Âu, chủ
nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thối trào, nhưng điều đó khơng làm thay đổi tính
chất của thời đại; lồi người vẫn đang trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại và phát triển, có
mặt sâu sắc hơn, nội dung và hình thức biểu hiện có nhiều nét mới. Đấu tranh dân
tộc và đấu tranh giai cấp diễn ra dưới nhiều hình thức.
Cách mạng khoa học và cơng nghiệp tiếp tục phát triển nhanh với trình độ
ngày càng cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa
nền kinh tế và đời sống xã hội. Các nước đầu có những cơ hội để phát triển. Tuy
nhiên, do ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường thuộc về các nước phát triển, khiến
các nước chậm phát triển và đang phát triển đứng trước những thách thức to lớn.
22
Châu Á - Thái Bình Dương đang là khu vực phát triển năng động với nhịp độ
tăng trưởng cao. Đồng thời khu vực này cũng đang tiềm ẩn một số nhân tố có thể
gây mất ổn định.
Trong quan hệ quốc tế, hịa bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở
thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và các quốc gia trên thế giới. Các nước dành ưu
tiên cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc
tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia; tham gia ngày càng nhiều vào quá trình
hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực
hoạt động khác. Hợp tác ngày càng tăng nhưng cạnh tranh cũng rất gay gắt.
Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập, tự chủ, đấu tranh chống lại sự áp đặt và
can thiệp của nước ngồi, bảo vệ nền văn hóa dân tộc. Các lực lượng xã hội chủ
nghĩa, cách mạng và tiến bộ trên thế giới kiên trì đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau vừa
hợp tác vừa đấu tranh cùng tồn tại hòa bình.
Đảng ta cũng xác định chương trình kinh tế xã hội trong 5 năm 1996 – 2000,
trong đó - Chương trình kinh tế đối ngoại nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả các
hoạt động về ngoại thương về thu hút vốn, cơng nghệ từ bên ngồi và các dịch vụ
hoạt động vụ thu ngoại tệ khác, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới. Mở rộng thị trường xuất nhập khẩu; tăng tỉ trọng xuất khẩu các mặt hàng đã qua
chế biến, tạo thêm những nhóm hàng, mặt hàng có khối lượng và giá trị lớn. Kim
ngạch xuất khẩu tăng bình quân hằng năm khoảng 28%; kim ngạch nhập khẩu tăng
khoảng 24%; thay thế nhập khẩu một số mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả.
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tận dụng thời cơ tăng nhanh khả năng
tiếp nhận, thu hút và sử dụng có hiệu quả vồn đầu tư và cơng nghệ tiên tiến, hiện
đại của nước ngồi; đồng thời nâng dần tỉ lệ góp vốn của phía Việt Nam trong các
cơ sở liên doanh.
2.2. Tồn cầu hóa và tác động của nó đối với Việt Nam
Việt Nam là nước đang phát triển, nhờ q trình tồn cầu hóa, chúng ta có lợi
thế của nước đi sau để đi tắt, đón đầu trong một số lĩnh vực kỹ thuật, cơng nghệ.
Chúng ta có điều kiện thuận lợi để mở rộng thương mại quốc tế, thu hút đầu tư và
nguồn lực bên ngoài nhằm phát triển các ngành sản xuất mà ta có lợi thế, qua đó,
thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế.
Ngoài những tác động về kinh tế, toàn cầu hóa cịn tác động tích cực đến sự
phát triển văn hóa. Do tác động của tồn cầu hóa và chính sách mở cửa của Đảng
và Nhà nước ta, trình độ dân trí được nâng cao rõ rệt. Nhờ tiếp thu những thành tựu
23
cơng nghệ, thơng tin, chúng ta có thể tiếp cận với nbơuồn tri thức khổng lồ, cập
nhật được nhiều thông tin mới về tình hình thế giới. Cũng qua đó, ý thức chính trị
về các vấn đề trong nước và trên thế giới cũng được nâng cao. Nhờ quá trình tồn
cầu hóa dân tộc ta hiểu biết hơn các dân tộc trên thế giới, bổ sung và làm giàu nền
văn hóa của dân tộc mình. Cũng thơng qua mở cửa, hội nhập, cạnh tranh quốc tế,
con người Việt Nam trở nên năng động hơn. Trong bối cảnh mới, nhiều người Việt
Nam đã thay đổi lối sống của mình, từ cuộc sống có phần khép kín, thiếu năng
động sang cuộc sống cởi mở hơn, năng động hơn và hiện đại hơn.
Những thay đổi trong đời sống kinh tế văn hóa, tinh thần theo hướng ngày
càng tất đẹp hơn làm người dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội, thấy rõ đường lối, chính sách đổi mới, hội nhập kinh tế
quốc tế của Đảng đề ra là đúng đắn, theo kịp trào lưu của thời đại, phù hợp với
nguyện vọng của nhân dân tạo ra sự tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân
dân, đưa nước ta lên một vị trí xứng đáng trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, tồn cầu hóa, đặc biệt là tồn cầu hóa kinh tế, một mặt, tạo cơ hội
cho những tổ chức, cá nhân có năng lực phát huy được tiềm năng của mình, đem lại
lợi ích cho cá nhân và cho cả xã hội. Nhưng mặt khác, tồn cầu hóa kinh tế cũng
đem đến tác động tiêu cực trong phát triển kinh tế. Đó là việc đặt mục tiêu kinh tế lợi
nhuận lên trên hết, do đó mà một số tổ chức, cá nhân làm giàu bất chính bằng bất cứ
giá nào. Điều đó góp phần làm băng họai nền đạo đức xã hội, làm cho quan hệ giữa
người với người trở nên lạnh lùng, xa lạ, khơng tình, khơng nghĩa và đây thực sự là
một nguy cơ của sự suy thóai đạo đức, lối sống con người Việt Nam hiện nay.
Nhờ tồn cầu hóa, chúng ta tiếp cận được những thành tựu của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ điện tử và tin học. Công nghệ
điện tử và tin học làm cho tác phong của con người khẩn trương hơn, linh hoạt hơn
để theo kịp với tốc độ của máy móc, nhịp độ gia tăng của thơng tin, của tri thức.
Tuy nhiên, công nghệ điện tử và tin học cũng dẫn đến nhiều nguy cơ cho con
người, nếu không giải quyết tốt mối quan hệ giữa con người với nhau và với tự
nhiên. Cùng với hàng hóa vật chất, những sản phẩm văn hóa, khoa học, nhờ cơng
nghệ thơng tin, truyền thơng mà có thể dễ dàng, nhanh chóng thâm nhập vào các
quốc gia, dân tộc. Tất cả chúng đều có thể tác động đến mọi mặt của đời sống xã
hội, kể cả nền tảng của cuộc sống cá nhân, gia đình, cộng đồng, như một học giả
nước ngồi đã nhận xét: Đến nay, tồn cầu hóa phản ánh một sự thật khách quan là
văn hóa phương Tây dựa vào sức sản xuất tiên tiến, kỹ thuật cao, lấy hưởng thụ vật
chất làm động lực, lấy tự do phóng túng, kích thích giác quan làm vỏ bọc đã làm
24
nảy sinh sức cám dỗ to lớn đối với những khu vực phi phương Tây. Đây chính là
một biểu hiện của ảnh hưởng tiêu cực của tồn cầu hóa văn hóa đối với các nước
phương Đơng đang phát triển như nước ta hiện nay.
Tồn cầu hóa đang đưa lối sống phương Tây vào nước ta. Lối sống ấy, một
mặt, tác động tích cực đến việc làm thay đổi lối sống khép kín, cam chịu, phụ
thuộc, ỉ lại vốn có của người Việt Nam sang một lối sống cởi mở, năng động, tự
lập, dám chịu trách nhiệm, phù hợp với xu thế thời đại. Tuy nhiên, cũng chính việc
tiếp thu lối sống đó một cách thiếu định hướng (tiếp thu cả mặt tiêu cực của nó) mà
dẫn đến việc xa rời lối sống theo chuẩn mực đạo đức dân tộc. Các công nghệ thông
tin hiện đại đang truyền bá khắp thế giới lối sống sùng bái vật chất, cá nhân, vị kỷ,
thực dụng, đua địi, ăn chơi xa hoa, lãng phí, sống truỵ lạc, thác loạn, ưa dùng bạo
lực... Lối sống đó đang phần nào tác động đến một bộ phận nhân dân, đặc biệt là
tầng lớp thanh thiếu niên sống ở các khu đơ thị lớn. Do bị kích động bởi việc tiếp
xúc với những thước phim hành động có tính bạo lực qua mạng Internet mà nhiều
thanh, thiếu niên đã có những hành động mang tính bạo lực, hung hãn, gây nên
những hậu quả đau lòng. Cùng với tâm lý sùng hàng ngoại, lối sống tự do kiểu
phương Tây cũng đang xâm nhập khá mạnh vào đời sống người Việt Nam, đặc biệt
là trong thanh niên và cả một bộ phận trong tầng lớp trí thức. Một số nam nữ thanh
niên ở các thành phố lớn muốn có tự do cá nhân cao, khơng muốn lập gia đình sớm
hoặc chủ trương sống độc thân suốt đời, nhưng lại có quan niệm khá thoải mái
trong quan hệ nam nữ. Từ đó dẫn đến những kiểu sinh họat tình dục bừa bãi giữa
nam và nữ, kể cả sinh họat tình đục tập thể, làm băng họai những nguyên tắc luân
lý sơ đẳng, tạo nên lối sống xa lạ với truyền thống phương Đơng và dân tộc. Đó
chính là biểu hiện của sự xuống cấp về lối sống của một bộ phận thanh niên Việt
Nam, là biểu hiện của quan niệm lệch chuẩn, đối lập với quan niệm đạo đức truyền
thống tốt đẹp của người Việt Nam. Tồn cầu hóa các quan hệ kinh tế sẽ đưa lại sự
hưởng thụ các sản phẩm vật chất và tinh thần của nhân loại với một giá rẻ hơn, tiện
nghi phong phú hơn. Song mặt khác, chính sự giao thoa về văn hóa, sự tràn ngập
của hàng hóa đó đã tạo ra khả năng về sự tha hóa nhân cách, đạo đức, làm rối loạn
các giá trị truyền thống của dân tộc.
Như vậy, có thể nói, tồn cầu hóa đã gây ảnh hưởng khơng nhỏ tới lối sống
và những giá trị đạo đức của người Việt Nam. Những sản phẩm văn hóa độc hại từ
nước ngoài đưa vào nước ta đã tác động tiêu cực tới đời sống tinh thần, văn hóa của
một bộ phận nhân dân. ảnh hưởng của lối sống thực dụng đã làm xuất hiện tâm lý
chạy theo đồng tiền, coi tiền là trên hết, không cần biết đến đạo lý phải trái, đánh
25