Đề tài : Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh:
“Đảng ta là một Đảng cầm quyền … Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch,
phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Liên hệ với thực tiễn Việt Nam hiện nay.
Bài làm
I/ Đặt vấn đề:
Sinh ra và lớn lên trong thời kì đất nước hòa bình, tôi không được chứng
kiến chiến tranh, bom đạn, không được chứng kiến những cảnh chia li mất mát,
khổ đau. Qua những kiến thức học được trong trường lớp, tôi đã biết về những
chiến thắng hào hùng của dân tộc, của đất nước mình, để biết ơn công lao của cha
ông và thêm yêu mảnh đất oai hùng nơi mình sinh ra. Những thắng lợi to lớn của
cách mạng Việt Nam, trước hết được bắt nguồn từ đường lối và phương pháp cách
mạng đúng đắn; sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam; sự
hy sinh quên mình của biết bao đồng bào, đồng chí. Nhìn lại những chặng đường
lịch sử cách mạng Việt Nam, một điều không thể phủ nhận là Đảng đã phát huy
vai trò lãnh đạo, từng bước trưởng thành trong vận dụng đường lối, chủ trương và
phương pháp cách mạng; năng động sáng tạo, luôn đi sát quần chúng, biết rút kinh
nghiệm và sửa chữa sai lầm một cách kịp thời. Trong mọi hoạt động của mình,
Đảng luôn đặt lợi ích của nhân dân, của dân tộc lên trên hết; luôn quan tâm, chăm
lo chu đáo đến đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thấn của nhân dân lao
động. Đồng thời, Đảng ta luôn nhìn thẳng vào sự thật, sẵn sằng thừa nhận thiếu
sót, hạn chế của mình, liên tục đề ra các chính sách xây dựng và chỉnh đốn Đảng
vì sự phát triển bền vững, thịnh vượng. Đây là phẩm chất quý báu của Đảng ta mà
không phải Đảng Cộng sản nào cũng có thể làm được. Chủ trương, đường lối,
chính sách đúng đắn mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra có thể coi là bước ngoặt
1
trong tiến trình phát triển của ViệtNam, đã làm thay đổi một cách toàn diện diện
mạo của nước Việt Nam. Điều 4 của Hiến Pháp Việt Nam (1992, sửa đổi) khẳng
định vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng lên Nhà nước và xã hội:
Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam,
đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
II/ Giải quyết vấn đề:
1. Phân tích luận điểm của Bác Hồ:
Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc triệu tập các đại biểu cộng
sản Việt Nam họp từ ngày 6 tháng 1 năm 1930 đến ngày 8 tháng 2 năm 1930 tại
Hương Cảng, trên cơ sở thống nhất ba tổ chức cộng sản tại Đông Dương (Đông
Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng; thành viên từ một nhóm thứ
ba tên là Đông Dương Cộng sản Liên đoàn không kịp có mặt). Hội nghị hợp nhất
này diễn ra tại căn nhà của một công nhân ở bán đảo Cửu Long từ ngày 6 tháng 1
đến ngày 8 tháng 2 năm 1930, đúng vào dịp Tết năm Canh Ngọ. Tham dự Hội
nghị có 2 đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng (Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức
Cảnh), 2 đại biểu An Nam Cộng sản Đảng (Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm) và
3 đại biểu ở nước ngoài (có Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, đại
biểu của Quốc tế Cộng sản). Hội nghị quyết định thành lập một tổ chức cộng sản
duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua một số văn kiện quan
trọng như: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ
vắn tắt của Đảng, Lời kêu gọi. Ngày 24 tháng 2 năm 1930, Đông Dương Cộng sản
Liên đoàn chính thức gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương, họp Hội nghị lần thứ nhất tại
Hồng Kông từ ngày 14 đến 31 tháng 10 năm 1930, tên của đảng được đổi thành
2
Đảng Cộng sản Đông Dương theo yêu cầu của Quốc tế thứ ba (Quốc tế Cộng sản)
và Trần Phú được bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên.
Sau này, Đại hội Đảng lần thứ III (tháng 9 năm 1960) quyết định lấy ngày 3
tháng 2 hằng năm là ngày kỉ niệm thành lập Đảng.
Đảng Cộng Sản ra đời là nhờ công lao to lớn của Hồ Chí Minh. Qua những
năm tháng hoạt động thực tiễn, tìm tòi học hỏi, nghiên cứu lí luận, Hồ Chí Minh
đã tìm thấy con đường cách mạng ở chủ nghĩa Mác – Lê nin và quyết định đi theo
con đường của Cách mạng tháng mười vĩ đại. Khi sắp trở thành Đảng viên đồng
thời là một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, Hồ Chí minh đã
sớm xác định độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu
của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh thấy cần phải có một đảng để lãnh đạo
phong trào cách mạng, thực hiện mục tiêu đó. Chính vì vậy từ những năm 1920
trở đi, Người tích cực chuẩn bị cả 3 mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức để tiến tới
thành lập Đảng. Tới năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu một
trang mới trong lịch sử dân tộc ta. Người chỉ rõ: Chủ nghĩa Mác- Lênin kết hợp
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng
Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930. Đây chính là quan điểm quan trọng của
Hồ Chí Minh về sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong Di chúc năm
1969, cuối phần nói về Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“Đảng ta là một Đảng cầm quyền … Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch,
phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân”.
Đó là di chúc chính trị, cũng là di chúc về đạo đức. Chỉ vẻn vẹn trong 1 câu
nói, Bác Hồ đã khái quát yêu cầu bản chất nhất về đạo đức của cán bộ, đảng viên;
và yêu cầu đó là xuất phát từ bản chất cách mạng của Đảng ta, từ mối quan hệ
máu thịt giữa Đảng với nhân dân trong sự nghiệp cách mạng.
3
Trước hết, về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt
Nam là sản phẩm của sự kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa Mác- Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước. Theo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về
sự ra đời của Đảng Cộng sản. Theo Mác- Ăngghen, trong tất cả các cuộc cách
mạng, phải có một giai cấp đứng ra nắm quyền lãnh đạo. Trong cách mạng vô sản,
giai cấp đóng vai trò lãnh đạo là giai cấp công nhân, bởi giai cấp công nhân đại
diện cho phương thức sản xuất mới sắp ra đời- phương thức sản xuất XHCN.
Đảng Cộng sản ra đời từ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân. Theo Lê
nin, Đảng Cộng sản là sự kết hợp của 2 yếu tố chủ nghĩa Mác- Lê nin và phong
trào công nhân. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam còn có yếu tố thứ 3 đó là phong trào yêu nước. Chủ nghĩa Mác- Lê nin
là nguồn gốc tư tưởng lí luận, là cơ sở về thế giới quan, phương pháp luận cho sự
ra đời của Đảng, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng. Người cũng đánh
giá cao vị trí, vai trò lãnh đạo giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân tuy ra đời
muộn, chiếm tỷ lệ ít nhưng giai cấp công nhân Việt Nam vẫn là giai cấp lãnh đạo
và mang đầy đủ những phẩm chất của giai cấp công nhân thế giới. Giai cấp công
nhân là giai cấp triệt để cách mạng, thấm nhuần tư tưởng cách mạng – chủ nghĩa
Mác- Lê nin, là giai cấp có ý thức tổ chức và tinh thần tự giác cao, có thể ảnh
hưởng và giáo dục các tầng lớp khác. Chính vì thế giai cấp công nhân gánh trách
nhiệm đánh đổ chủ nghĩa tư bản và đế quốc gây dựng một xã hội mới. Và điều đặc
biệt quan trọng, giai cấp công nhân có chủ nghĩa Mác- Lê nin. Trên nền tảng đấu
tranh, họ xây dựng nên Đảng theo chủ nghĩa Mác- Lê nin. Đảng đề ra chủ trương,
đường lối, khẩu hiệu cách mạng, lôi cuốn giai cấp nông dân và tiểu tư sản vào đấu
tranh, bồi dưỡng họ thành những phần tử tiên tiến. Ngoài ra Hồ Chí Minh còn
thêm yếu tố phong trào yêu nước, coi đó là một trong 3 yếu tố kết hợp dẫn đến
việc hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Bởi vì các nguyên do, ở Việt Nam, chủ
nghĩa yêu nước đóng vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển của lịch sử dân
4
tộc. Truyền thống yêu nước là nét nổi bật, trong đời sống văn hóa tinh thần của
người Việt, là di sản quý báu của dân tộc, được củng cố, phát huy qua hàng ngàn
năm lịch sử. Phong trào yêu nước cũng có trước phong trào công nhân. Lý do thứ
2, yêu nước là một phong trào rộng lớn quy tụ được tất cả người yêu nước tham
gia vào. Hơn nữa, cả phong trào yêu nước và phong trào công nhân đều có chung
một kẻ thủ là thực dân Pháp, chung một mục tiêu cách mạng đó là giải phóng dân
tộc. Cuối cùng, từ phong trào yêu nước, có một bộ phận trí thức ưu tú nhất, trưởng
thành và đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập Đảng.
Nói về bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản là Đảng của
giai cấp công nhân đồng thời của cả dân tộc Việt Nam.
“Chính vì Đảng lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động cho nên nó là Đảng của dân tộc Việt Nam”.
1
Đảng mang bản chất của giai cấp công nhân thể hiện ở:
- Về tư tưởng lí luận, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin làm nền tảng.
- Về mục tiêu lí tưởng: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Về nguyên tắc hoạt động: Đảng hoạt động theo nguyên tắc 1 Đảng
kiểu mới của nhân dân.
- Về tổ chức bộ máy: Đảng có hệ thống tổ chức chặt chẽ từ Trung
Ương đến cơ sở, đồng thời thực hiện nguyên tắc tổ chức quan trọng nhất, đó là
nguyên tắc “Tập trung dân chủ”.
- Về kỉ luật: Đảng có kỉ luật rất nghiêm minh.
Đảng của dân tộc Việt Nam thể hiện ở:
- Về mục tiêu lí tưởng: mục tiêu lí tưởng của Đảng và của cả dân tộc là
một: vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
1
Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 3, NXB Giáo dục, 2006, trang 92.
5
- Về lợi ích: lợi ích của nhân dân, của dân tộc phải được Đảng đặt lên
hàng đầu.
- Thành phần của Đảng: các Đảng viên là những người Việt Nam yêu
nước ưu tú nhất.
Tóm lại, về bản chất của Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng Cộng sản
Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đội tiên phong của giai cấp công nhân,
mang bản chất giai cấp công nhân. Tuy có nhiều cách thể hiện khác nhau về quan
điểm “Đảng của ai”, nhưng Hồ Chí Minh luôn có quan điểm nhất quán đó là Đảng
ta mang bản chất giai cấp công nhân.
Có thể nói, Đảng có một vai trò to lớn trong sự nghiệp giữ nước, dựng
nước. Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của
Cách mạng Việt Nam. Đảng là tổ chức hoạch định đường lối chiến lược, sách lược
cách mạng đúng đắn. Đảng là tổ chức giác ngộ, tập hợp, lãnh đạo quần chúng
nhân dân để thực hiện các mục tiêu của cách mạng. Đảng là nhân tố liên kết chặt
chẽ phong trào cách mạng ở trong nước và trên thế giới. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-
Lê nin làm nền tảng. Đảng tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân.
Đảng viên là những người Việt Nam yêu nước ưu tú nhất.
Trong Đường cách mệnh, Hồ Chí Minh đã khẳng định vị trí, vai trò quan
trọng của Đảng cách mạng – nhân tố đầu tiên quyết định sự thắng lợi của cách
mạng. Công nông là gốc của cách mạng, nhưng trước phải làm cho dân giác ngộ,
nghĩa là dân phải được tổ chức, được lãnh đạo thì mới trở thành lực lượng to lớn,
mới là chủ, là gốc cách mạng được. Để thực hiện được điều đó “trước hết phải có
đảng cách mệnh – trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với
dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản ở mọi nơi”.
1
1
Đường cách mệnh.
6
Chỉ có một Đảng như thế mới có thể đem lại độc lập dân tộc cho dân tộc, tự
do, hạnh phúc cho nhân dân, phồn vinh cho đất nước và đưa cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội. Với đường lối chính trị đúng đắn, tổ chức chặt chẽ, Đảng đã lãnh
đạo toàn thể dân tộc giành chính quyền, thành lập nước Việt nam Dân chủ Cộng
hòa. Đó cũng là thời điểm Đảng Cộng sản Việt nam trở thành Đảng cầm quyền.
Vậy Đảng cầm quyền nghĩa là thế nào?
Đảng cầm quyền là khái niệm dùng trong khoa học chính trị, chỉ một đảng
chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh đạo chính quyền để điều
hành quản lí đất nước nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp mình.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng cầm quyền là Đảng tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp
cách mạng trong điều kiện Đảng đã lãnh đạo quần chúng nhân dân giành được
quyền lực nhà nước và Đảng trực tiếp lãnh đạo bộ máy nhà nước đó để tiếp tục
hoàn thành sự nghiệp độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Giai đoạn khi chưa có chính quyền, Đảng có nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân
giành lại chính quyền. Đảng lãnh đạo nhân dân lật đổ bè lũ thực dân, phong kiến,
thiết lập chính quyền nhân dân. Đảng phải giáo dục, thuyết phục, vận động tổ
chức quần chúng, đưu quần chúng vào đấu tranh giành chính quyền.
Giai đoạn khi đã giành được chính quyền, Đảng lãnh đạo nhân dân để thực
hiện những mục tiêu, nhiệm vụ mới của cách mạng. Ở Việt Nam, Đảng Cộng Sản
là Đảng cầm quyền.
Tuy nhiên có 2 vấn đề Đảng không thay đổi.
- Mục đích, lý tưởng của Đảng: vẫn là độc lập dân tộc và tiến tới chủ
nghĩa xã hội. Khi có chính quyền trong tay thì nhiệm vụ của Đảng lại càng khó
khăn, đó là các đảng viên không được lãng quên nhiệm vụ, mục đích, phải toàn
tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Với chủ tịch Hồ Chí Minh, “Độc lập – Tự do –
7
Hạnh phúc” là bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đó là điểm xuất phát để xây dựng
Đảng ta xứng đáng với danh hiệu “Đảng cầm quyền”. Người chỉ rõ: “Những
người cộng sản chúng ta không một chút nào được quên lý tưởng cao cả của mình
là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng
lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới”.
1
- Lợi ích của dân tộc và nhân dân phải được Đảng đặt lên hàng đầu.
Người căn dặn mỗi đảng viên "không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của
mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn
thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới"; phải biết đặt lợi ích của giai cấp,
của dân tộc lên trên lợi ích của cá nhân, luôn vững vàng trước mọi khó khăn, vô
luận trong hoàn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết; nếu khi "lợi
ích chung của Đảng mâu thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân thì phải quyết hy sinh
lợi ích của cá nhân cho lợi ích của Đảng". Người chỉ rõ: suốt đời phục vụ Đảng,
phục vụ nhân dân "là phẩm chất cao quý của người cách mạng. Đó là đạo đức
cách mạng. Đó là tính Đảng, tính giai cấp, nó bảo đảm cho sự thắng lợi của đảng,
của giai cấp, của nhân dân". Người đánh giá rất cao những đảng viên luôn luôn
trung thành với sự nghiệp cách mạng của giai cấp và của dân tộc, suốt đời hy sinh
phấn đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản,
đồng thời phê phán nghiêm khắc những kẻ lợi dụng địa vị để mưu cầu lợi ích cá
nhân làm tổn hại đến lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lạo động.
Trong một bài phỏng vấn nhân dịp kỷ niệm 30 năm Ngày miền Nam hoàn
toàn giải phóng và thống nhất đất nước, đồng chí Võ Văn Kiệt đã nói:
“Mối quan hệ giữa Đảng với dân như cá với nước. Trên dòng sông cuộc
sống, Đảng mà tách khỏi Dân thì chẳng khác nào như cá bị ném lên bờ.”.
2
1
Hố chí minh toàn tập Tập 11, trang 372.
2
Bài phát biểu của đồng chí võ văn kiệt.
8
Có thể thấy, Đảng và dân có quan hệ máu thịt là không thể phủ nhận. Từ
quan điểm đó, Bác Hồ đã nêu lên luận điểm:
Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ trung thành của nhân
dân. Theo cách hiểu thông thường, về mặt chính trị, lãnh đạo và phục vụ là hai
phạm trù có nội hàm khác nhau; người lãnh đạo và người đầy tớ (người phục vụ)
cũng có những chức trách không giống nhau. Thế nhưng, đối với Đảng Cộng sản
Việt Nam, một đảng ra đời từ phong trào cách mạng của nhân dân, có thiên chức
lãnh đạo cuộc cách mạng ấy vì mục đích phục vụ nhân dân, lấy lợi ích của nhân
dân làm lợi ích cao nhất của mình, thì hoàn toàn không có một bức tường ngăn
cách nào giữa nhiệm vụ lãnh đạo và nhiệm vụ phục vụ. Nhận thức sâu sắc lý luận
của chủ nghĩa Mác – Lê nin về Đảng, vận dụng vào đặc điểm và điều kiện cụ thể
của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã cụ thể hóa mục đích, bản chất cách
mạng của một đảng mác xít chân chính vào hoạt động thực tiễn của Đảng ta, nhằm
làm cho mỗi cán bộ, đảng viên ý thức đầy đủ và đúng đắn chức năng, nhiệm vụ
của mình trong hoạt động chỉ đạo của Đảng, cũng như trong quá trình củng cố và
xây dựng Đảng luôn thực sự là một Đảng cách mạng chân chính.
- Đảng là người lãnh đạo được biểu hiện ở chỗ: ở Việt Nam, quyền lãnh
đạo duy nhất là thuộc về Đảng Cộng sản. Đảng lãnh đạo toàn bộ quần chúng nhân
dân. Muốn thực hiện được điều đó, Đảng phải có tài năng, trí tuệ, phải có tư cách
và phẩm chất năng lực cần thiết. Đảng không được quan liêu, mệnh lệnh, gò ép
dân. Đảng lãnh đạo nhân dân bằng việc xây dựng chủ trương, đường lối, đồng thời
phải tuyên truyền, vận động người dân hiểu rõ, tự giác thực hiện đúng chủ trương,
đường lối của Đảng, như vậy mới đoàn kết họ lại thành một khối thống nhất được.
Như vậy, chức năng lãnh đạo và sự lãnh đạo của Đảng phải đảm bảo trên tất cả
các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội, phải quan tâm, chăm lo đến đời sống
9
nhân dân từ việc nhỏ “ như tương cà mắm muối” đến “ đổi nền kinh tế và văn hóa
lạc hậu của nước ta thành một nền kinh tế và văn hóa tiên tiến”.
- Không chỉ là người lãnh đạo, Đảng còn là người “đày tớ trung thành của
nhân dân”. Ở đây, đày tớ không được hiểu theo nghĩa đen, theo nghĩa “tôi tớ, tôi
đòi hay theo đuôi quần chúng” , mà ở đây, đày tớ của nhân dân nhằm ám chỉ:
Đảng tuyệt đối trung thành với nhân dân, nghĩa là tất cả hành động của Đảng phải
vì lợi ích của người dân. “Đã phụng sự nhân dân thì phải phụng sự cho ra trò.
Nghĩa là việc gì có lợi cho dân thì phải làm cho kì được. Việc gì có hại cho dân,
thì phải hết sức tránh.”.
1
Mỗi đảng viên trong mọi hoạt động của mình phải quan tâm thực sự đến lợi
ích của nhân dân: “khổ trước thiên hạ,vui sau thiên hạ”, phải thường xuyên “tự
kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt”. Phải làm cho
dân tin để dân hết lòng ủng hộ, giúp đỡ. Mặt khác, cụm từ “đày tớ trung thành”
còn có nghĩa là mỗi cán bộ phải có tri thức khoa học, trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ giỏi, thấm nhuần đạo đức cách mạng: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.
Đảng phải tuyệt đối tin tưởng vào người dân: tin tưởng vào tài năng, trí tuệ của
người dân, tin vào sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân, dân là gốc nước.
Đảng phải sâu sát, quan hệ mật thiết với người dân. Đảng phải ở trong dân để hiểu
được những nỗi khổ, để thấu hiểu được tâm tư, nguyện vọng của dân, Đảng phải
khiêm tốn học hỏi nhân dân, chịu sự kiểm soát của nhân dân, bởi “ Sự lãnh đạo
trong mọi công tác thiết thực của Đảng ắt phải từ trong quần chúng rất trơ lại nơi
quần chúng”.
2
Tuy nhiên có điều cần phân biệt rõ, đó là Đảng của ta là Đảng cầm quyền,
song dân là chủ. Nghĩa là, ở xã hội Việt Nam mới, Đảng Cộng sản nắm quyền
1
Hồ chí Minh toàn tập, tập 6 trang 88 .
2
. Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG Sđd, Tập 5, tr. 291
10
lãnh đạo song quyền lãnh đạo đó là của dân, Đảng nhận sự ủy thác giao phó quyền
lực từ dân. Người dân được đặt ở địa vị cao nhất, họ là chủ của xã hội vì vậy toàn
bộ quyền lực xã hội là thuộc về người dân.
“Cách mạng rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay
một bọn ít người”.
1
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, quyền lực phải thuộc về nhân dân, Người đã
đề cập xây dựng một nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tuy nhiên, dân muốn
làm chủ thực sự thì phải đi theo Đảng. Mỗi người dân phải biết lợi ích và bổn
phận của mình tham gia vào xây dựng chính quyền. Song, cơ chế dân làm chủ chỉ
có thể trở thành hiện thực, không bị vi phạm khi cán bộ, đảng viên còn là người
đày tớ trung thành của nhân dân.
Để Đảng phát huy được hết vai trò của mình đối với dân với nước, trở
thành một chiến sĩ tiên phong trước giai cấp, dân tộc và nhân dân, một điều
tất yếu là phải giữ gìn Đảng trong sạch và vững mạnh. Tư tưởng về vấn đề xây
dựng Đảng chiếm một vị trí quan trọng trong toàn bộ di sản tư tưởng của Hồ Chí
Minh. Theo Người, việc xây dựng Đảng không phải chỉ diễn ra khi trong Đảng có
uđột biến hay có vấn đề nổi cộm, mà đây là một nhiệm vụ tất yếu, thường xuyên.
Việc xây dựng Đảng được xem như một nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài, là
nhiệm vụ gắn liền với sự tồn tại của Đảng. Khi cách mạng gặp khó khăn, xây
dựng Đảng để cán bộ, đảng viên củng cố lập trường quan điểm, bình tĩnh sáng
suốt, không bị động, bi quan. Còn khi cách mạng trên đà thắng lợi, xây dựng Đảng
để xây dựng những quan điểm, tư tưởng cách mạng khoa học, tránh chủ quan, rơi
vào căn bệnh “kiêu ngạo cộng sản”. Để lý giải tính tất yếu của công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, Hồ Chí Minh đưa ra các căn cứ thuyết phục sau:
12
. Hồ chí minh toàn tập, Tập 2, tr. 270.
11
- Sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo luôn luôn phát triển. Đảng
lãnh đạo giai cấp, nhân dân đánh đổ đế quốc, phong kiến; xây dựng chế độ dân
chủ mới; tạo điều kiện tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp cách mạng do
Đảng lãnh đạo là một quá trình gồm nhiều thời kì, giai đoạn, với những nhiệm vụ
cụ thể riêng. Mỗi khi cách mạng chuyển giai đoạn, bắt đầu triển khai thực hiện
nhiệm vụ mới, Đảng luôn phải chỉnh đốn và đổi mới. Đảng như một cơ thể sống
luôn tự hoàn thiện và vượt lên.
- Đảng sống trong xã hội thì mọi cán bộ đảng viên đều chịu ảnh hưởng
của môi trường xã hội, các quan hệ xã hội, cả cái tốt và cái xấu, tích cực, tiến bộ
và tiêu cực, lạc hậu. Do đó mỗi cán bộ phải thường xuyên rèn luyện. Đảng phải
thường xuyên chú ý đến việc chỉnh đốn Đảng.
Việc chính đốn Đảng là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng viên tự rèn luyện, giáo
dục và tu dưỡng tốt hơn. Giúp cho mỗi cán bộ đảng viên hiểu rõ, hiểu đúng và
thực hành tốt quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng. Giúp cán bộ, đảng viên
phải nhìn lại mình, phát huy mặt tốt, loại bỏ mặt xấu. Từ đó họ sẽ trở thành người
tốt làm gương cho quần chúng, có ích cho Đảng, cho cách mạng. Cán bộ đảng
viên phải luôn tự giác rèn luyện phấn đấu. Mặt khác việc xây dựng Đảng không
thể buông lỏng việc thắt chặt công tác kiểm tra, quản lí cán bộ, đảng viên, nghĩa là
cán bộ đảng viên còn cần đến sự giúp đỡ, kiểm soát, quản lí từ phía Đảng.
Trong điều kiện Đảng trở thành Đảng cầm quyền, việc xây dựng chỉnh đốn
Đảng lại là công việc càng có tầm quan trọng hơn và phải tiến hành thường xuyên
hơn. Bởi quyền lực có 2 mặt, một mặt giúp cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới,
một mặt sẽ có sức phá hoại ghê gớm nếu có sự thoái hóa biến chất của người nắm
quyền lực.
12
“Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại có sức
hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến
và ca ngợi, nếu long dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
1
Luận điểm trên là một chân lí, nó phản ánh thực tiễn và đã được kiểm
nghiệm. Có thể thấy, việc xây dựng chỉnh đốn Đảng mang tính quy luật, và là nhu
cầu tồn tại, phát triển của bản thân Đảng. Chỉnh đốn và đổi mới Đảng nhằm làm
cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh,về chính trị, tư tưởng và tổ chức; làm
cho đội ngũ cán bộ đảng viên không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước
những yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao, phức tạp của nhiệm vụ cách mạng.
Vậy thì các nội dung công tác xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam gồm
những gì?
Trước hết, để đạt mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh khẳng định:
“Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải
hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như
người không có trí không, tàu không có bàn chỉ nam”.
2
Như vậy, điều quan trọng trước tiên là phải xây dựng Đảng về tư tưởng lí
luận, Đảng phải có chủ nghĩa, chủ nghĩa đó là chủ nghĩa Mác- Lê nin. Chủ nghĩa
Mác- Lê nin trở thành cốt, nền tảng tư tưởng và là kim chỉ nam cho mọi hành
động của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác- Lê nin cần
lưu ý:
- Việc học tập nghiên cứu tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lê nin phải
phù hợp với từng đối tường.
1
Hồ chí minh toàn tập T12, tr 557-558.
2
HCM toàn tập, Tập 2, tr. 268.
13
- Việc vận dụng chủ nghĩa Mác- Lê nin phải phù hợp với từng hoàn
cảnh, tránh giáo điều.
- Luôn học tập kế thừa những kinh nghiệm tốt của các đảng cộng sản
khác, đồng thời Đảng ta phải luôn tổng kết kinh nghiệm của mình để bổ sung vào
chủ nghĩa Mác- Lê nin.
- Luôn tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa
Mác- Lê nin.
Thứ hai, xây dựng Đảng về chính trị.
Xây dựng Đảng về chính trị bao gồm: xây dựng đường lối chính trị, bảo vệ
chính trị, xây dựng và thực hiện nghị quyết, xây dựng và phát triển hệ tư tưởng
chính trị…
Đảng cầm quyền có vai trò định hướng cho toàn xã hội. Đảng thực hiện vai
trò lãnh đạo chính trị của mình chủ yếu bằng việc đề ra cương lĩnh, đường lối
chiến lược, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội cũng như sách lược, quy định
những mục tiêu phát triển của xã hội. Cần phải giáo dục đường lối chính sách của
Đảng thông tin thời sự cho cán bộ, đảng viên để họ luôn luôn kiên định lập trường,
giữ vững bản lĩnh chính trị trong mọi hoàn cảnh.
Thứ ba, phải xây dựng Đảng về tổ chức, bộ máy, công tác cán bộ.
Sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ tổ chức, một tổ chức tiên phong chiến đấu
của giai cấp công nhân. Hệ thống tổ chức của Đảng phải thật chặt chẽ từ trung
ương đến địa phương, có tính kỉ luật cao.
Trong sinh hoạt Đảng, cần chú ý các quy tắc tổ chức:
- Tập trung dân chủ: nghĩa là tập trung trên nền tảng dân chủ, dân chủ
dưới sự chỉ đạo tập trung. Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của
mình, góp phần tìm ra chân lí.
14
- Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách: bởi nhiều người mới xem xét
các khía cạnh của vấn đề một cách hoàn chỉnh, kĩ lưỡng được. Ngoài ra phải chú
ý khắc phục tệ độc đoán chuyên quyền, đồng thời phải chống lại cả tình trạng dựa
dẫm tập thể không dám quyết đán, không dám chịu trách nhiệm.
- Tự phê bình và phê bình: là tính tất yếu trong quá trình hoạt động của
Đảng. Phải tiến hành thường xuyên như người ta rửa mặt hàng ngày, phải thẳng
thắn chân thành, trung thực, không nể nang, giấu giếm.
- Kỷ luật nghiêm minh, tự giác: tính nghiêm minh tự giác đòi hỏi mọi
thành viên phải bình đẳng trước điều lệ Đảng, trước pháp luật của nhà nước và
quyết định của Đảng. Đây còn là một yêu cầu bắt buộc phải có đối với mỗi Đảng
viên. Nó thể hiện sự gương mẫu của các đảng viên, đây là yêu cầu bắt buộc đối
với mọi tổ chức đảng và đảng viên.
- Đoàn kết thống nhất trong Đảng: phải dựa trên cơ sở lý luận của
Đảng là chủ nghĩa Mác - Lê nin, cương lĩnh, điều lệ Đảng, đường lối quan điểm
của Đảng. Đoàn kết để tạo cơ sở vững chắc để thống nhất ý chí và hành động, làm
cho “Đảng ta tuy đông người nhưng khi tiến đánh chỉ như là một người”.
- Cán bộ:
Để nâng cao tính tiên phong của Đảng, Hồ Chí Minh yêu cầu mọi cán bộ,
đảng viên phải nêu cao tính tiên phong, gương mẫu trong mọi hoạt động, cả nhận
thức, trí tuệ, đạo đức và hành động thực tiễn. Có thể nói đây là một trong những
nội dung, yêu cầu đặc biệt quan trọng trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây
dựng Đảng, xuất hiện trong rất nhiều bài nói, bài viết của Người.
Theo Hồ Chí Minh, yêu cầu này xuất phát từ chính vị trí, vai trò lãnh đạo và
bản chất cách mạng của Đảng. Người chỉ rõ:
15
Đảng Lao động Việt Nam “gồm những công nhân, nông dân và lao động trí
óc yêu nước nhất, hăng hái nhất, cách mệnh nhất. Nó sẽ gồm những người kiên
quyết phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, phụng sự lao động, những người chí
công vô tư, làm gương mẫu trong công cuộc kháng chiến kiến quốc”.
1
Mỗi đảng
viên là một người thay mặt cho Đảng trước quần chúng, để giải thích chính sách
của Đảng và của Chính phủ cho quần chúng hiểu rõ và vui lòng thi hành. Muốn
cho quần chúng hăng hái thi hành, thì người đảng viên ắt phải xung phong làm
gương mẫu để quần chúng bắt chước, làm theo.
Hơn nữa, theo Hồ Chí Minh, những chính sách và nghị quyết của Đảng đều
vì lợi ích của nhân dân. Vì vậy, trách nhiệm, lương tâm và đạo đức của người
đảng viên là bất kỳ khó khăn đến mức nào cũng kiên quyết làm đúng chính sách
và nghị quyết của Đảng, làm gương mẫu cho quần chúng.
“Cán bộ, đảng viên, đoàn viên phải miệng nói tay làm, phải xung phong
gương mẫu”.
2
Mọi đảng viên phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, trước
Đảng; phải ngăn ngừa và kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá nhân, đồng thời phải
“Ra sức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối, chính sách của Đảng, học tập
văn hoá, kỹ thuật và nghiệp vụ, không ngừng nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng
và năng lực công tác của mình”.
3
Hồ Chí Minh còn nhắc nhở cán bộ, đảng viên, dù ở địa vị cao hay thấp và ở
đâu cũng phải làm gương mẫu cho quần chúng. Người nói:
1
Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H.2000 Sđd, Tập 6, tr. 188
2
Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H.2000 Sđd, Tập 11, tr. 136-137
3
Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H.2000, Sđd, Tập 11, tr. 202-203
16
“Các đồng chí bộ trưởng, thứ trưởng và cán bộ lãnh đạo phải luôn luôn
gương mẫu về mọi mặt, phải nêu gương sáng về đạo đức cách mạng: cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư, phải giữ gìn tác phong gian khổ phấn đấu, phải không
ngừng nâng cao chí khí cách mạng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
1
- Công tác cán bộ của Đảng: gồm các công việc:
1. Tăng cường huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Hồ Chí Minh cho
rằng, “Phải ra sức bồi dưỡng cán bộ, phải rèn luyện tư tưởng, nâng cao trình độ
giác ngộ chính trị, cũng như trình độ chiến thuật và kỹ thuật của cán bộ. Đó là
khâu chính trong các thứ công tác”.
2
2. Biết dùng cán bộ. Trong nhiều bài nói, bài viết, Hồ Chí Minh đã nêu
những quan điểm rất sâu sắc về cách dùng cán bộ. Người cho rằng: Phải biết khéo
dùng cán bộ, dùng cán bộ cũng như “dụng mộc”, tuỳ tài, tuỳ việc mà dùng người,
tránh ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, những kẻ khéo nịnh hót
mình, chán ghét những người chính trực.
3. Lựa chọn, cất nhắc đúng cán bộ. Hồ Chí Minh cho rằng, lựa chọn cán
bộ, dùng cán bộ cho đúng đó mới là “tinh cán”, hai việc đó phải đi đôi với nhau.
Để dùng được đúng cán bộ, thì phải biết rõ cán bộ. Người cho rằng, nếu Đảng
“chưa thực hành cách thường xem xét cán bộ, đó là một khuyết điểm to. Kinh
nghiệm cho ta biết: mỗi lần xem xét lại nhân tài, một mặt thì tìm thấy những nhân
tài mới, một mặt khác thì những người hủ hoá cũng lòi ra”.
3
1
Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG Sđd, Tập 11, tr. 186
2
Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG Sđd, Tập 7, tr. 14.
3
Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H.2000 Sđd, Tập 5, tr. 274.
17
4. Thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ. Theo Hồ Chí Minh, đây là biện
pháp có quan hệ mật thiết đối với nhiều khâu trong công tác cán bộ và có tác dụng
lâu dài trong xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng. Biện pháp này có nhiều nội dung
như: phải có gan cất nhắc cán bộ; phải quan tâm, yêu thương cán bộ; phải chú
trọng đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc cán bộ miền núi và cán bộ nữ vào các cơ quan
lãnh đạo, nhất là các ngành hoạt động thích hợp.
Thứ 4, xây dựng Đảng về đạo đức.
Hồ Chí Minh khẳng định: Một Đảng chân chính cách mạng phải có đạo
đức. Đạo đức tạo nên uy tín, sức mạng của Đảng, giúp Đảng đủ tư cách lãnh đạo,
hướng dẫn quần chúng nhân dân.
Để xây dựng Đảng ta thành một Đảng cầm quyền thật sự trong sạch, vững
mạnh, tiêu biểu cho trí tuệ, đạo đức, lương tâm và danh dự của dân tộc, xứng đáng
là người lãnh đạo, người đày tớ trung thành của nhân dân như lời dạy của Hồ Chí
Minh, đòi hỏi toàn Đảng phải thực hiện triệt để, đồng bộ các giải pháp, trong đó
có những giải pháp cơ bản mà Hồ Chí Minh đã chỉ rõ.
2. Liên hệ với thực thế Việt Nam hiện nay:
Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo để
tiếp tục tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới và phát triển đất nước trước sự tác
động phức tạp của bối cảnh chính trị, kinh tế, an ninh quốc tế hiện nay. Đó là
điều mà nhân dân ta và bạn bè quốc tế hoàn toàn tin tưởng.
Hơn 80 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta
giương cao ngọn cờ độc lập đân tộc và chủ nghĩa xã hội, vượt qua muôn vàn khó
khăn, thử thách và đã giành được những thành tựu vĩ đại.
18
Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám thành
công, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam) Nhà nước của công nông và nhân dân lao động đầu tiên ở Châu
Á. Tiến hành cuộc kháng chiến lần thứ nhất, đánh thắng chiến tranh xâm lược của
thực dân Pháp được đánh dấu bằng thắng lợi lịch sử Điện Biên Phủ, giải phóng
miền Bắc, góp phần quan trọng mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên
phạm vi toàn thế giới. Tiến hành cuộc kháng chiến lần thứ hai đánh thắng cuộc
chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, được đánh dấu bằng trận “Điện Biên Phủ
trên không” năm 1972 và cuộc tổng tiến công mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là
chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ
quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh - Bác Hồ muôn vàn kính yêu - đã để
lại cho dân tộc ta lời di chúc bất hủ. Hưởng ứng phong trào toàn dân học tập và
làm theo di chúc của Người, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã không
quản khó khăn, gian khổ, không sợ hi sinh, tiếp tục cuộc chiến đấu chống đế quốc
Mỹ xâm lược, đã “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, thống nhất Tổ quốc,
đồng bào Bắc Nam sum họp một nhà.
Sau thắng lợi lịch sử mùa xuân năm 1975, nhân dân ta tiếp tục nêu cao chủ
nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng và đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn: thiết lập chính quyền nhân dân trên phạm vi cả nước; khôi phục kinh tế, khắc
phục hậu quả nặng nề của chiến tranh, từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế.
Tại Đại hội VI, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới, ghi một dấu ấn lịch sử
quan trọng trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta. Qua gần
20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu to
lớn và rất quan trọng. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và năng lực sản xuất tăng
19
nhiều. Nền kinh tế từ tình trạng hàng hóa khan hiếm nghiêm trọng nay sản xuất đã
đáp ứng được phần lớn các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và của nền kinh tế; từ
cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường xã hội chủ
nghĩa. Đời sống đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và đang đẩy mạnh công
nghiệp hóa - hiện đại hóa, vì “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”, tình hình chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng an ninh được tăng
cường. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước đã lớn hơn nhiều so với lúc bắt đầu
công cuộc đổi mới. Đất nước đang xây dựng giàu đẹp hơn mười ngày xưa, vị thế
Việt Nam trên trường quốc tế đang ngày càng được nâng cao. Rõ ràng là thành tựu
đạt được nhờ thực hiện di chúc của Bác là vô cùng to lớn.
Một thành quả to lớn và quan trọng của nghiên cứu lý luận của Đảng Cộng
sản Việt Nam là sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường định
hướng XHCN là mô hình kinh tế mới mẻ chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Tư
duy lý luận và nhận thức về kinh tế thị trường định hướng XHCN là một quá trình
lâu dài, thường xuyên và qua nhiều bước với mục tiêu không thay đổi là xây dựng
thành công CNXH ở nước ta. KTTT định hướng XHCN là nền kinh tế vừa tuân
theo quy luật của KTTT, vừa chịu sự chi phối của các nhân tố định hướng XHCN.
Vì thế KTTT ở nước ta vừa có những đặc trưng chung, phổ biến của mọi nền
KTTT, vừa có những đặc trưng mang tính đặc thù - định hướng XHCN. Sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của nhà nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định thành công sự phát triển rút ngắn, bền
vững nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam và công cuộc xây dựng, phát
triển kinh tế - xã hội, KTTT mới không bị chệch định hướng XHCN.
Cùng với đó là những thành tựu về kinh tế xã hội. Hơn 20 năm qua, kể từ
khi Việt Nam bước vào thực hiện mô hình KTTT định hướng XHCN, nền kinh tế
20
Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu đáng kể, làm thay đổi khá rõ
tình hình đất nước.
Về tốc độ tăng trưởng, trong những năm khởi đầu công cuộc đổi mới (1986-
1991) tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng trưởng tương đối chậm. Nhưng khi quá
trình đổi mới diễn ra rộng khắp và đi vào thực chất thì tốc độ tăng trưởng GDP
luôn đạt mức cao và ổn định kéo dài, mặc dù có lúc bị giảm sút do dự báo chủ
quan và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Do tốc độ tăng GDP cao nên GDP/người/năm cũng tăng lên đáng kể, từ 289
USD (năm 1995) lên 1.024 USD (năm 2008), cho thấy Việt Nam đang từng bước
vượt qua ranh giới của quốc gia đang phát triển có thu nhập thấp và đang vươn lên
nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp (theo quy ước chung của quốc tế
và xếp loại các nước theo trình độ phát triển thì nước đang phát triển có thu nhập
trung bình thấp là những nước có GDP/người từ 765 đến 3.385 USD).
Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm
năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Khu vực kinh
tế nhà nước được tổ chức lại, đổi mới và chiếm 38,4% GDP vào năm 2005. Kinh
tế dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực,
chiếm 45,7% GDP, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết
việc làm và cải thiện đời sống nhân dân; kinh tế hợp tác và hợp tác xã phát triển
khá đa dạng (đóng góp 6,8% GDP). Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ
tăng trưởng tương đối cao, chiếm 15,9% GDP, là cầu nối quan trọng với thế giới
về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế .
Thành tựu đổi mới trong nước kết hợp với thực hiện chính sách mở cửa,
tích vực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra không gian phát triển mới
cho nền kinh tế Việt Nam và mang lại cho Việt Nam một vị thế quốc tế mới. Từ
một quốc gia bị phong tỏa, cấm vận; từ một nền kinh tế kém phát triển và “đóng
21
cửa”, sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã vươn mạnh ra thế giới. Đến nay Việt
Nam đã có quan hệ ngoại giao với gần 170 nước và vùng lãnh thổ; mở rộng quan
hệ kinh tế thương mại với 221 quốc gia và vùng lãnh thổ. Ngoài ra, Việt Nam còn
là thành viên chính thức của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, và điều
đáng nói nhất là năm 2007 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức thứ 150
của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Phúc lợi xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của người dân cũng được cải
thiện rõ rệt. Theo đánh giá của Liên hiệp quốc, Việt Nam về đích trước 10 năm
với mục tiêu xóa đói giảm nghèo trong thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ.
Đánh giá về thành công của quá trình đổi mới, Đại hội lần thứ X của Đảng
đã khẳng định: “Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là
đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về CNXH và con
đường đi lên CNXH ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận và công
cuộc đổi mới, về xã hội XHCN và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam đã hình
thành trên những nét cơ bản”
Bên cạnh những thành tựu cũng có không ít những bất cập, "những tồn tại,
yếu kém trong công tác này không những không giảm mà có chiều hướng tăng và
nghiêm trọng hơn"
1
. Sự bất cập trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng bộc lộ ở
nhiều nơi, nhiều cấp. Trong đó cần khẳng định một nguyên nhân bao trùm là trong
một thời gian dài chúng ta đã không quán triệt và thực hiện nghiêm túc lời dạy của
Bác đã được nêu trong Di chúc về tầm quan trọng hàng đầu của việc chỉnh đốn lại
Đảng để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của giai đoạn mới.
11
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr.12.
22
III/ Kết thúc vấn đề:
Thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người, trong những năm qua, từng tổ
chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên đã không ngừng phát huy tinh thần đoàn kết,
sáng tạo, đổi mới phương thức lãnh đạo, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi các
Nghị quyết của Đảng vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Tròn 40 năm toàn Đảng, toàn dân thực hiện Di chúc của Người.
Đây là dịp để mỗi người, nhất là cán bộ, đảng viên tự xem xét lại mình một cách
cặn kẽ trong việc thực hiện Di chúc của Người như thế nào. Để tiếp tục thực hiện
Di chúc thiêng liêng của Người, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đã nguyện làm
theo lời dạy của Người về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ta ngày càng
trong sạch vững mạnh, lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách,
thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo sự chuyển biến
về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức của Người; đẩy lùi
sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức và các tệ nạn xã hội, góp phần hiện thực hóa
điều mong muốn cuối cùng của Người là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn
đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”
1
. Nhìn lại chặng
đường 79 năm xây dựng và phát triển của đảng và của cách mạng nước ta, chúng
ta tự hào về đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại. Càng tự hào, chúng ta càng phải
quyết tâm làm theo lời căn dặn trước lúc đi xa của Bác: “Đảng ta là một Đảng cầm
quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật
sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải
xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
2
1
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và 30 năm thực hiện Di chúc của Người, Nxb
QĐND, H.1999, tr.9.
23
2
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và 30 năm thực hiện Di chúc của Người, Nxb
QĐND, H.1999, tr.9.
24