Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tiểu luận thời đại ngày nay những mâu thuân cơ bản của thời đại ngày nay và phương hướng giải quyết của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.16 KB, 24 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Hiện nay, tình hình thế giới đang diễn ra theo những xu thế phát triển rất
phức tạp và đầy biến động. Việc xác định xem xu hướng phát triển nào là phù
hợp cho tình hình phát triển của đất nước đang là một vẫn đề cấp thiết đặt ra
cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Nếu một quốc gia không xác định được chính
xác xu thế vận động của thế giới thì ngay lập tức quốc gia đó sẽ bị tụt hậu, sẽ
chậm phát triển và kéo theo nó là vơ số vấn đề khác nảy sinh trong quá trình
phát triển đất nước. Trong thời đại ngày nay tuy có những yếu tố phức tạp,
phát triển và suy thoái, hợp tác và đấu tranh, ổn định và mất ổn định nhưng
chúng ta cần phải thấy được những xu thế chủ yếu mà lịch sử nhân loại phải
trải qua, trên cơ sở đó để đề ra những đường lối chính sách cho đúng nhằm
tranh thủ những thuận lợi, vượt qua những thách thức để có thể nhanh chóng
đưa đất nước ta phát triển lâu bền theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng
và nhân dân ta đã lựa chọn. Vì vậy, tơi đã chọn đề tài “ Những mâu thuân cơ
bản của thời đại ngày nay và phương hướng giải quyết của Việt Nam” để
nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích : Trên cơ sở tìm hiểu nội dung, đặc điểm, tính chất và những
mâu thuẫn cơ bản của thời đại ngày nay từ đó giúp cho chúng ta hiểu một
cách đúng đắn, khoa học về thời đại đồng thời dựa vào những hiểu biết đó để
đề ra những đường lối chính sách phù hợp nhằm đưa đất nước ta ngày một
phát triển và hội nhập với thế giới.
Nhiệm vụ : Làm rõ nội dung, đặc điểm của thời đại , tìm hiểu những
mâu thuẫn cơ bản và xu thế vận động phát triển của thời đại ngày nay.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Những quan niệm của Đảng cộng sản Việt Nam về thời đại ngày nay
được đề cập trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng
4. Phương pháp nghiên cứu
1



Tiểu luận dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để giải quyết vấn đề, đồng thời cũng sử
dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp nghiên cứu tài
liệu, phân tích tổng hợp, logic - lịch sử để làm sáng tỏ vấn đề
5. ý nghĩa của đề tài nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu nhằm giúp hiểu rõ hơn những mâu thuân cơ bản của
thời đại, giúp chúng ta có cái nhìn khách quan và khoa học để đưa ra những
chính sách phù hợp với xu hướng của thời đại ngày nay.
6. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì tiểu luận
có kết cấu gồm 3 chương và 8 tiết.

2


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I;
KHÁI NIỆM VỀ THỜI ĐẠI VÀ PHÂN CHIA THỜI ĐẠI LỊCH SỬ
1.1

Thời đại là gì ?

Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin, thời đại là một thời kì tương
đối dài trong sự phát triển của lịch sử toàn thế giới, được đánh dấu bằng bước
ngoặt căn bản trong sự phát triển của nó và được đặc trưng bằng những xu
hướng phát triển tương đối ổn định. Bước ngoặt căn bản đó là sự xuất hiện
một hình thái kinh tế - xã hội mới, với một giai cấp nhất định đứng ở trung
tâm, giữ vai trò quyết định trong sự phát triển của thời đại mới.
Thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ tư bản chủ nghĩa đi lên chủ

nghĩa xã hội, mở đầu bằng cuộc cách mạng tháng 10 Nga vĩ đại. Sở dĩ nói
Cách mạng tháng 10 Nga đã mở đầu thời đại mới là vì : thứ nhất , đó là lúc
bắt đầu một hình thái kinh tế xã hội mới - hình thái kinh tế xã hội cộng sản
chủ nghĩa, phủ định hồn tồn hình thái kinh tế xã hội tư bản. Thứ hai, sau
cách mạng tháng 10 Nga, trên thế giới hình thành chiều hướng phát triển theo
chủ nghĩa xã hội, xóa bỏ trật tự tư bản chủ nghĩa. Thứ ba, phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế đã trở thành lực lượng cách mạng nòng cốt trong cuộc
đấu tranh vì hịa bình, dân chủ và tiến bộ trên tồn thế giới. Thứ tư, cách
mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận trong phạm trù cách mạng xã
hội chủ nghĩa.
1.2 Nội dung của thời đại ngày nay và những giai đoạn chính của nó
1.2.1

Nội dung

Nội dung của thời đại ngày nay đã được V.I.Lênin chỉ rõ là xóa bỏ giai
cấp tư sản và chế độ tư bản chủ nghĩa, đồng thời thiết lập những cơ sở của xã
hội mới là xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Kế thừa quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin , Hội nghị đại biểu các Đảng cộng sản và công nhân
quốc tế tại Mátxcơva năm 1957, 1960 đã xác định : Nội dung căn bản của thời
đại chúng ta là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm
3


vi toàn thế giới được mở đầu bằng cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười
vĩ đại ở nước Nga. Từ đó đến nay, trải qua mấy chục năm, tình hình thế giới
đã có nhiều biến đổi, đặc biệt từ sau khi chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng
hoảng thoái trào tạm thời, nhưng khơng vì thế tính chất và nội dung của thời
đại thay đổi. Chủ nghĩa xã hội tuy đang thối trào, bị sụp đổ ở Liên Xơ và
Đông Âu mà nguyên nhân cơ bản là do sự sai lầm chủ quan trong đường lối

lãnh đạo của các Đảng Cộng sản nhưng bản chất của chủ nghĩa xã hội vẫn là
tốt đẹp, ưu việt còn chủ nghĩa tư bản tuy đang phát triển và cố thích nghi để
phát triển nhưng bản chất của nó vẫn là xã hội có áp bức, bóc lột và bất cơng
nên chủ nghĩa xã hội là mơ hình mà nhân loại lựa chọn và đi tới cịn chủ
nghĩa tư sản thì khơng. Đó là thời đại báo hiệu sự diệt vong không tránh khỏi
của chủ nghĩa tư bản và khẳng định sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là hợp quy
luật phát triển của lịch sử. Đó cũng là thời đại mà cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đang diễn ra rất gay go, phức tạp trong
những điều kiện mới và dưới những hình thức mới.
1.2.2

. Những giai đoạn chính của thời đại ngày nay

Như Lênin và Đảng ta đã khẳng định tính quanh co, phức tạp trong sự
vận động của lịch sử có khi tiến, khi lùi, và thời đại ngày nay cũng khơng nằm
ngồi qui luật vận động đó. Song có thể chia thời đại ngày nay thành 4 giai
đoạn sau :
Giai đoạn thứ nhất - từ sau cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 tới
kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ hai năm 1945 : Chủ nghĩa xã hội mới
hình thành trên phạm vi một số nước như Liên Xô, Mông Cổ…Đặc trưng chủ
yếu của giai đoạn này là sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên,
một chế độ do nhân dân lao động làm chủ, mở ra khả năng xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên một nước. Cách mạng Tháng Mười đã khai sinh ra chế độ
mới đầu tiên ở nước Nga. Sức sống của chế độ mới đã giúp nhân dân lao động
Nga đứng vững trong cuộc nội chiến, đập tan âm mưu can thiệp của chủ nghĩa
đế quốc, mở đầu cho phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ, nhà
4


nước Xô Viết và chế độ Liên bang Xô Viết được củng cố. Đặc biệt, nhân dân

Liên Xô đã đánh bại chủ nghĩa phát xít trong chiến tranh thế giới thứ 2, cứu
nhân loại khỏi thảm họa của chủ nghĩa phát xít.
Giai đoạn thứ hai - từ sau 1945 tới đầu những năm 1970 : Đây là giai
đoạn chủ nghĩa xã hội được mở rộng và phát triển thành hệ thống xã hội chủ
nghĩa thế giới, bao gồm trên chục nước, trải rộng từ Châu Âu, Châu Á đến
Châu Mỹ La tinh. Cùng với những thành tựu to lớn của hệ thống các nước xã
hội chủ nghĩa về kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học kỹ thuật… hệ thống xã hội
chủ nghĩa thế giới đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho phong trào đấu tranh vì
hịa bình, tiến bộ trên thế giới, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh và những thế lực
phản động quốc tế. Đồng thời những thành tựu xây dựng chủ nghĩa của các
nước xã hội chủ nghĩa đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh vì dân sinh,
dân chủ, tiến bộ xã hội trong các nước tư bản chủ nghĩa, đã động viên nhân
dân các nước thuộc địa đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc. Nhờ đó, trong
những năm 60 của thế kỷ XX đã có khoảng 100 quốc gia giành được độc lập
dân tộc với những mức độ khác nhau, trong đó nhiều nước đã lựa chọn con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đó, ở cuối
giai đoạn này cũng bắt đầu xuất hiện những bất hòa giữa các nước xã hội chủ
nghĩa, giữa các Đảng cộng sản và công nhân trong phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết : “ Tơi càng tự hào
với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì
tơi càng đau lịng bấy nhiêu vì sự bất hịa hiện nay giữa các đảng anh em ”
( Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 12, Nxb CTQG, 1990 ).
Giai đoạn thứ ba – từ cuối những năm 1970 đến cuối những năm
1980 : Đây là giai đoạn nhiều nước xã hội chủ nghĩa rơi vào tình trạng trì trệ,
khủng hoảng nhất là trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân khó
khăn, bên cạnh đó lại bị các thế lực thù địch phối hợp với các thế lực phản
động bên trong tấn công làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và
Liên Xô. Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xơ có
5



nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân sâu xa là những sai lầm của các đảng
cộng sản, các nhà nước xã hội chủ nghĩa, sự chống phá quyết liệt của kẻ thù
và sự phản bội của một số người cộng sản, chứ hồn tồn khơng phải là sự
sụp đổ của chủ nghĩa xã hội và lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội như một
số người thường rêu rao. Đây cũng là bài học kinh nghiệm trong quá trình đổi
mới của các nước xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
Giai đoạn thứ tư – từ đầu những năm 1990 đến nay : Giai đoạn hiện
nay, chủ nghĩa xã hội thế giới tạm thời thoái trào. Nhiều Đảng cộng sản tan rã,
ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới bị giảm sút nghiêm
trọng, chủ nghĩa xã hội đang đứng trước những khó khăn thử thách chưa từng
thấy. Chủ nghĩa tư bản hiện đại cùng các thế lực phản động quốc tế lợi dụng
tình hình đó ra sức tấn công vào chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mác-Lênin
bằng trăm phương nghìn kế với những thủ đoạn rất thâm độc hịng xóa bỏ chủ
nghĩa Mác-Lênin và các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, nhằm xác lập vị trí
thống trị tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản trên thế giới. Lịch sử thế giới đang
trải qua những bước quanh co, phức tạp đồng thời cũng đang đặt ra những thử
thách to lớn cho chủ nghĩa xã hội, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Để vượt qua những thử thách đó, các nước xã hội chủ nghĩa còn lại phải tự
đổi mới, cải cách để phát triển. Những người cộng sản ở các nước thuộc Liên
Xô trước đây và các nước Đông Âu hiện nay đã nhận rõ bộ mặt thật của kẻ
thù, đang ra sức tập hợp lực lượng, tiến hành cuộc đấu tranh bền bỉ nhằm khôi
phục những giá trị của chủ nghĩa xã hội để đưa đất nước trở lại con đường xã
hội chủ nghĩa. Sự thoái trào của chủ nghĩa xã hội hiện nay chỉ là tạm thời, sức
sống và xu hướng phát triển của chủ nghĩa xã hội không mất đi, chủ nghĩa xã
hội vẫn là sự lựa chọn duy nhất và phù hợp với quy luật khách quan của lịch
sử thế giới trong thời đại hiện nay.
1.3. Tính chất và mâu thuẫn của thời đại ngày nay
1.3.1 Tính chất của thời đại ngày nay


6


Tính chất của thời đại ngày nay là tính chất quá độ ( quá độ cách
mạng ). Thời đại ngày nay đang diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân
tộc gay go, quyết liệt, phức tạp và lâu dài. Đan xen giữa cái cũ và cái mới, cái
tiến bộ và cái lạc hậu, đã và đang định hình đấu tranh phủ định lẫn nhau,
quanh co phức tạp khi tiến khi lùi. Cuộc đấu tranh này diễn ra trên tất cả mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Cho dù
trải qua cuộc đấu tranh gay gắt, lâu dài và phức tạp nhưng theo quy luật phát
triển tất yếu của xã hội, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản.
1.3.2. Những mâu thuẫn cơ bản của thời đại ngày nay
Thời đại ngày nay chứa đựng nhiều mâu thuẫn, trong đó nổi lên 4
mâu thuẫn cơ bản. Các mâu thuẫn này tồn tại trong suốt thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản : Mâu thuẫn
giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn cơ bản quyết định nội
dung, tính chất của thời đại hiện nay bởi sự vận động của mâu thuẫn này tác
động tới những mâu thuẫn còn lại. Đây là mâu thuẫn giữa hai lực lượng chủ
yếu, hai chế độ xã hội, giữa hai con đường, xu hướng phát triển đối lập nhau
là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản trên phạm vi thế giới. Hiện nay một
số nước xã hội chủ nghĩa đã có quan hệ ngoại giao, quan hệ kinh tế và nhiều
quan hệ khác với các nước tư bản chủ nghĩa. Điều đó khơng có nghĩa là mâu
thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản dịu đi hay khơng cịn nữa,
mà trái lại mâu thuẫn giữa hai chế độ này đang biểu hiện dưới dạng mới là
vừa hợp tác vừa đấu tranh trên nhiều phương diện., cần phải ý thức rõ điều
đó, khơng được mơ hồ, mất cảnh giác với âm mưu “ diễn biến hịa bình ” của
các thế lực thù địch chống phá chủ nghĩa xã hội.
Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân, giữa tư bản và

lao động : Đây là mâu thuẫn cơ bản trong thời đại ngày nay, mâu thuẫn giữa
hai giai cấp cơ bản trong chủ nghĩa tư bản. Chừng nào chủ nghĩa tư bản vẫn
7


cịn tồn tại thì mâu thuẫn giữa hai giai cấp cơ bản trong xã hội này vẫn là
khách quan, giai cấp công nhân vẫn là những người lao động làm thuê cho
giai cấp tư sản và mối quan hệ này đang diễn ra ngày càng sâu sắc và gay gắt
hơn. Trong thời đại hiện nay, nhờ vận dụng được những thành quả của cách
mạng khoa học – kĩ thuật và cơng nghệ, chủ nghĩa tư bản nhanh chóng điều
chỉnh quản lý sản xuất, quản lý kinh tế và quản lý nhà nước để làm dịu những
xung đột xã hội, những đối kháng giai cấp. Đồng thời những điều chỉnh này là
do sức ép từ các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và những lực lượng
tiến bộ trên thế giới, cùng với năng suất lao động cao do cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ tạo ra, chủ nghĩa tư bản đã có những điều chỉnh trong
chính sách xã hội để thích nghi với điều kiện mới. Song, những nỗ lực điều
chỉnh ấy không hề làm giảm bớt sự phân cực xã hội giữa giai cấp tư sản ngày
càng giàu lên nhanh chóng và các tầng lớp lao động nghèo khổ ngày càng
tăng trong xã hội, không khắc phục được những mâu thuẫn vốn có, đặc biệt là
mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với
chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Vì thế, cuộc
đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản
chống lại giai cấp tư sản vẫn phát triển mạnh mẽ. Mâu thuẫn này chỉ có thể
được giải quyết triệt để bằng cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động trong các nước tư bản chủ nghĩa và các dân tộc bị
áp bức trên thế giới. Hiện nay, mâu thuẫn giữa lao động và tư bản không chỉ
diễn ra trong lòng các nước tư bản chủ nghĩa mà cả ở các nước xã hội chủ
nghĩa. Chừng nào thành phần kinh tế tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và tầng
lớp tư sản, quan hệ sản xuất tư bản vẫn tồn tại trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Tất nhiên mức độ, phạm vi vận động của mâu thuẫn này đã có

những thay đổi do sự chi phối của chủ nghĩa xã hội, của nhà nước xã hội chủ
nghĩa.
Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc với chủ nghĩa đế
quốc : Thời đại hiện nay đã làm cho các dân tộc nâng cao ý thức độc lập và
8


chủ quyền quốc gia. Sự kết hợp phong trào độc lập với phong trào công nhân
và phong trào xã hội chủ nghĩa đã thúc đẩy phong trào đấu tranh giành độc
lập dân tộc, làm sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ. Hiện
tại, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ bị xóa bỏ nhưng sự độc
lập về chính trị của các nước này chưa mang lại ngay sự phồn vinh và bình
đẳng trong quan hệ quốc tế. Nhiều quốc gia độc lập đi lên từ một nền kinh tế
thấp kém, xã hội nghèo nàn, lạc hậu nên vẫn chịu cảnh lệ thuộc vào các nước
tư bản phát triển về vốn, khoc học, cơng nghệ… Xu thế tồn cầu hóa kinh tế,
chứa đựng cả thời cơ và thách thức. Các nước tư bản phát triển thu được
nhiều lợi nhuận, còn các nước đang phát triển và chậm phát triển bị thua thiệt,
khoảng cách giàu nghèo giữa các nước phát triển và chậm phát triển càng lớn.
Đồng thời, chủ nghĩa đế quốc đang thực hiện hình thức bóc lột tinh vi các
nước lạc hậu, kém phát triển; thay đổi hình thức áp bức bóc lột về kinh tế, làm
cho những nước này nợ nần chồng chất hàng tỷ đơ la khơng có khả năng
thanh tốn; bịn rút chất xám, làm kiệt quệ tài ngun, biến nơi đây thành bãi
rác của phế thải sinh hoạt, cơng nghiệp, phế thải tinh thần văn hóa. Mâu thuẫn
giữa các nước đang phát triển và các nước tư bản phát triển ngày càng gay gắt
hơn. Các nước chậm phát triển và đang phát triển đang tiến hành cuộc đấu
tranh đầy khó khăn, phức tạp để chống lại các nước tư bản phát triển, địi độc
lập và bình đẳng thực sự, chống can thiệp, xâm lược của chủ nghĩa đế quốc.
Các nước này còn phải chống lại sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan,
khắc phục những xung đột dân tộc và tôn giáo đẫm máu, bảo vệ độc lập chủ
quyền và bảo vệ văn hóa dân tộc. Phong trào đấu tranh của các dân tộc chống

lại sự áp đặt và can thiệp vào chủ quyền quốc gia ngày càng mạng mẽ.
Mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa với nhau : Các nước tư
bản có sự thống nhất với nhau về bản chất chế độ, về lợi ích giai cấp, về mục
tiêu chống phá chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng, những lực lượng
tiến bộ trên thế giới. Quan hệ giữa các nước tư bản chủ nghĩa, giữa các tập
đoàn tư bản chủ nghĩa là quan hệ liên minh nhằm tìm kiếm lợi nhuận tối đa.
9


Song giữa các nước tư bản và giữa các tập đồn tư bản ln cạnh tranh gay
gắt hịng tìm kiếm và giành giật lợi ích trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
quân sự. Hiện nay, nổi lên mâu thuẫn giữa ba trung tâm kinh tế, chính trị hàng
đầu của thế giới tư bản là Mỹ - Tây Âu – Nhật Bản. Mâu thuẫn này diễn ra
thường xuyên, gay gắt, lúc cơng khai, lúc ngấm ngầm; trong đó Mỹ đóng vai
trị nổi bật là siêu cường trên thế giới, có sức mạnh vượt trội cả về kinh tế và
quân sự; Mỹ ra sức phát huy vai trò ảnh hưởng của mình và tìm cách khống
chế các nước, kể cả Tây Âu và Nhật Bản hòng làm bá chủ thế giới. Tây Âu và
Nhật Bản cũng tìm mọi cách để phát triển thành siêu cường kinh tế, vừa là
bạn hàng, đồng minh của Mỹ vừa là đối trọng của Mỹ, vị thế quốc tế khơng
kém Mỹ, có tham vọng là những cực khác trong một trật tự thế giới đa cực.
Đồng thời, giữa các tập đoàn tư bản trong các nước tư bản chủ nghĩa cũng nổi
lên nhiều mâu thuẫn về lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị.
Ngồi những mâu thuẫn trên, thế giới hiện nay còn chứa đựng nhiều
mâu thuẫn khác mang tính tồn cầu địi hỏi các nước phải chung tay giải
quyết. Môi trường sinh thái, bùng nổ dân số, đói nghèo, bệnh tật, xung đột
dân tộc, tôn giáo, khủng bố… đã và đang đe dọa các dân tộc và các quốc gia
không phân biệt chế độ chính trị xã hội. Do vậy, q trình đi lên chủ nghĩa xã
hội trên thế giới còn quanh co phức tạp.
1.4. Đặc điểm và xu thế vận động cơ bản trong giai đoạn hiện nay
của thời đại

1.4.1. Đặc điểm giai đoạn hiện nay của thời đại
Thứ nhất, đấu tranh giai cấp và dân tộc tiếp tục diễn ra gay gắt dưới
nhiều hình thức. Lồi người vẫn đang trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội, các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới
những hình thức và mức độ khác nhau, vẫn tồn tại và phát triển với nhiều mặt
phức tạp và sâu sắc hơn. Chủ nghĩa xã hội vẫn là đối tượng chính mà chủ
nghĩa tư bản đã và đang tìm mọi cách xóa bỏ nó trên thực tế. Chủ nghĩa tư
bản hiện đại đang nắm giữ ưu thế về vốn, khoa học, công nghệ, thị trường
10


song vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn vốn có. Bên cạnh đó
cuộc đấu tranh ý thức giữa hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa và hệ tư tưởng tư sản
vẫn sơi động trước sự mất uy tín của chủ nghĩa tư bản và mưu đồ chống phá
các nước có định hướng xã hội chủ nghĩa, ngăn cản các nước Liên Xô và
Đông Âu phục hồi chủ nghĩa xã hội; song chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn
không thể đảo ngược của lịch sử. Hiện nay, nguy cơ chiến tranh đã bị đẩy lùi
nhưng những xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc
tộc và tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động khủng bố vẫn diễn ra ở nhiều
nơi, gây ra hậu quả rất lớn làm tổn thất về người và của cho nhiều dân tộc.
Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định : “ Trong một vài thập kỉ
tới, ít có khả năng xảy ra chiến tranh thế giới, nhưng chiến tranh cục bộ, xung
đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can
thiệp lật đổ, khủng bố còn xảy ra ở nhiều nơi với tính chất phức tạp ngày càng
tăng ” ( Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội X, Nxb CTQG, Hà Nội,
2000, tr 14). Đối với cách mạng nước ta, Đại hội cũng chỉ rõ : “ Các thế lực
thù địch vẫn ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hịa bình”, gây bạo loạn lật
đổ; chúng sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tơn
giáo” hịng làm thay đổi chế độ chính trị nước ta ” ( Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đại hội X, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr 75).

Thứ hai, cách mạng khoa học và công nghệ đang gây ra những thay
đổi to lớn trên thế giới. Nội dung cơ bản của nó là sự tiến bộ vượt bậc của
công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới… đã và
đang phát triển với trình độ ngày càng cao, tạo ra điều kiện nhanh chóng phát
triển lực lượng sản xuất, các nước đều đứng trước cơ hội để phát triển; sự tác
động của nó hình thành vấn đề mang tính quy luật đối với sự phát triển của
mọi quốc gia dân tộc. Song ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường… thuộc về
các nước tư bản chủ nghĩa phát triển cao và các công ty đa quốc gia. Các
nước chậm phát triển và đang phát triển đang đứng trước những thách thức to

11


lớn : khoảng cách sự phân hóa giàu nghèo giữa các nước ngày càng tăng,
cuộc cạnh tranh kinh tế, thương mại, khoa học – công nghệ diễn ra gay gắt.
Thứ ba, cộng đồng thế giới đứng trước nhiều vấn đề mang tính tồn
cầu. Đó là vấn đề bảo vệ mơi trường, sinh thái, cạn kiệt tài nguyên, hạn chế
bùng nổ dân số, sự đói nghèo ở các nước chậm phát triển; vấn đề phòng ngừa
và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo; vấn đề tội phạm quốc tế, tình trạng
bn lậu ma túy… ngày càng tăng gây trở ngại lớn cho sự phát triển mà
khơng một quốc gia nào có thể tự giải quyết được. Do vậy, cần phải có sự hợp
tác và phối hợp hoạt động của tất cả các quốc gia trong cộng đồng quốc tế.
Thứ tư, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Đây là khu vực năng
động, có khả năng phát triển với tốc độ cao vì có ưu thế về tài ngun, nguồn
lao động dồi dào, thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đồng thời với thế mạnh của
nông nghiệp nhiệt đới cho phép các nước trong khu vực mở rộng giao lưu
quốc tế, tranh thủ công nghệ hiện đại. Song đây cũng là khu vực đang tiềm ẩn
một số nhân tố có nguy cơ gây mất ổn định, vì đây là khu vực có nhiều nền
văn hóa đan xen, nhiều hệ tư tưởng, nhiều tơn giáo, nhiều nguồn vốn đầu tư
nước ngồi, cho vay, do đó khó tránh khỏi những nguy cơ xung đột và mất ổn

định. Đại hội X đã khẳng định : “ Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương nói
chung và Đơng Nam Á nói riêng, xu thế hịa bình, hợp tác và phát triển tiếp
tục gia tăng, nhưng luôn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định như tranh
chấp về ảnh hưởng quyền lực, về biên giới, lãnh thổ, biển đảo, tài nguyên
giữa các nước; những bất ổn về kinh tế, chính trị, xã hội ở một số nước…”.
1.4.2. Những xu thế phát triển của thời đại ngày nay
- Hịa bình, ổn định và hợp tác để phát triển
Đây là xu thế chủ đạo và là nhu cầu đòi hỏi bức xúc của các dân tộc,
quốc gia trên thế giới. Có thể nói, đại bộ phận các dân tộc đang được sống
trong hịa bình hữu nghị và hợp tác, thế nhưng ở một số khu vực tình hình cịn
rất phức tạp. Trong thực tế, sẽ khơng có một nước nào phát triển được trong
hoàn cảnh chiến tranh, từ hậu quả của hai cuộc chiến tranh thế giới các quốc
12


gia đều nhận thấy tầm quan trọng của hịa bình, ổn định. Cần hịa bình, có hịa
bình mới có điều kiện thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, mới huy động
được sức người, sức của trong nhân dân để đưa đất nước phát triển, một khi
kinh tế phát triển mới có điều kiện nâng cao mức sống của nhân dân, chăm lo
y tế, văn hóa, phát triển giáo dục quốc dân từ đó mới có sự ổn định và phát
triển đất nước. Hiện nay, kinh tế thế giới và khu vực tiếp tục phục hồi và phát
triển nhưng vẫn tiềm ẩn những yếu tố bất trắc khó lường. Tồn cầu hóa kinh
tế tạo ra cơ hội nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng gây khó
khăn, thách thức cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Bên cạnh
đó, khoa học và cơng nghệ cũng có những bước nhảy vọt, kinh tế tri thức có
vai trị ngày càng nổi bật trong q trình phát triển lực lượng sản xuất. Các
quốc gia, nhất là các nước chậm phát triển và đang phát triển đang dành ưu
tiên cho phát triển kinh tế, coi đó là nhiệm vụ trọng tâm, thơng qua đó để phát
triển tiềm lực mọi mặt của đất nước, tạo điều kiện cho giữ vững hịa bình, ổn
định trong nước, khu vực và trên tồn thế giới. Cách mạng khoa học tác động

mạnh tới nhịp độ phát triển của nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh
tế lạc hậu; tình hình đó dẫn tới thực tế hiện nay là các nước vừa phải đấu
tranh vừa hợp tác với nhau để phát triển kinh tế. Do đó cuộc đấu tranh của các
nước, các dân tộc vì hịa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội lại càng phức tạp.
- Các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác
và liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực
hoạt động khác
Đây là một xu hướng tất yếu trên thế giới hiện nay. Ngày nay, với sự
phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, tạo ra xu hướng
toàn cầu hóa trong các lĩnh vực, khơng một quốc gia nào có thể phát triển
được nếu khơng có sự hợp tác khu vực, hợp tác quốc tế. Hình thức hợp tác
quốc tế hiện nay rất đa dạng, dưới nhiều hình thức như hợp tác song phương,
hợp tác đa phương, hợp tác khu vực , hợp tác quốc tế. Các tổ chức quốc tế
như liên hợp quốc, tổ chức thương mại thế giới… ngày càng tham gia nhiều
13


vào đời sống chính trị của các nước. Lĩnh vực hợp tác ngày càng đa dạng :
hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật, hợp tác thương mại, hợp tác nghiên cứu
chinh phục vũ trụ và cả hợp tác chính trị. Nói tới xu thế hội nhập chúng ta
khơng thể không nhắc tới tổ chức thương mại thế giới WTO, nó đánh dấu một
bước ngoặt quan trọng đối với hệ thống thương mại quốc tế nói chung.
- Các dân tộc ngày càng nâng cao ý thức độc lập, tự chủ, tự cường, đấu
tranh chống lại sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ
quyền và nền văn hóa dân tộc
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hịa bình, hợp
tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng , đa dạng hóa , đa phương hóa các
quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở
rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Nhiệm vụ của công tác đối ngoại
là giữ vững mơi trường hịa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công

cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào
cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội. Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu
hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương
lấy phục vụ lợi ích đất nước làm cao nhất. Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, rà
soát lại các văn bản pháp quy, sửa đổi bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật
bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán và minh bạch. Đẩy mạnh cơng tác văn hóathơng tin đối ngoại, góp phần tăng cường sự hợp tác, tình hữu nghị giữa nhân
dân ta với nhân dân các nước. Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng rèn luyện đội ngũ
cán bộ làm công tác đối ngoại vững vàng về chính trị, có trình độ ngoại ngữ
và năng lực nghiệp vụ cao, có đạo đức và phẩm chất tốt. Tăng cường công tác
nghiên cứu tham mưu về đối ngoại với sự tham gia và phát huy trí tuệ của các
cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học.

14


- Các nước xã hội chủ nghĩa, các Đảng cộng sản và công nhân, các lực
lượng cách mạng tiến bộ trên thế giới kiên trì đấu tranh vì hịa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội

15


CHƯƠNG II
NHỮNG CHÍNH SÁCH CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI ĐẠI NGY
NAY V NHNG THNH QU T C
2.1. Chính sách đối nội và đối ngoại của Đảng và
Nhà nớc
2.1.1. Chớnh sỏch i ni.

Đảng và Nhà nớc luôn coi trọng phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân kế thừa truyền thống quí báu của dân
tộc. Đảng luôn giơng cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân và
coi đó là đờng lối chiến lợc, nguồn sức mạnh và động lực to
lớn để xây dung và bảo vệ Tổ quốc, Đảng đề ra các phơng
hớng:
- Quỏn trit trong ton ng, ton dõn nhn thức sâu sắc về vấn đề dân
tộc và đại đoàn kết dân tộc là vấn đề cơ bản, lâu dài và cấp bách cả cách mạng
Việt Nam.
- Thực hiện quyền bình đẳng đồn kết tương trợ giúp nhau cùng phát
triển cùng phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH – HĐH đất nước kiên
quyết đấu tranh chống mọi âm mưu chia rẽ dân tộc.
- Phát triển toàn diện về chính trị kinh tế văn hóa và an ninh quốc
phịng trên địa bàn dân tộc miền núi khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát
triển kinh tế - xã hội giữa các dân tộc
2.1.2. Chính sách đối ngoại.
Thùc hiƯn nhất quán đờng lối đối ngoại độc lập tự chủ,
mở rộng đa phơng hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế
phấn đấu vì hopà bình độc lập và phát triển. Nhiệm vụ
đối ngoại là tiếp tục giữ vững môi trờng hoà bình và tạo
điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế
xà hội, xây dung và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm độc lập chủ
quyền quốc gia, đồng thời đóng góp tích cực vào cuộc ®Êu
16


tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập
dân tộc dân chủ và tiến bộ xà hội.
Mở rộng quan hệ với các nớc và các vùng lÃnh thổ, các
trung tâm kinh tế quốc tế, các tổ chức quốc tế và khu vực

theo nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn
lÃnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau,
không ding vũ lực hoặc đe doạ ding vũ lực, bình đẳng và
cùng có lợi. Giải quyết bất đồng tranh chấp bằng thơng lợng
hoà bình; phản đối mọi âm mu và hành động gây sức ép
áp đặt và cờng quyền. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
và khu vực theo tinh thần phát huy nội lực, nâng cao hiẹu
quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hớng
xà hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh
quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môI trờng. Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu, ủng
hộ nhân dân thế giới trong cuộc đấu tranh bảo vệ hoà
bình, chống nguy cơ chiến tranh và chạy đua vũ trang, góp
phần xây dựng trật tự kinh tế quốc tế dân chủ và công
bằng.
Củng cố và tăng cờng quan hệ hợp tác và đoàn kết với
các đảng cộng sản và công nhân, các đảng cánh tả, các
phong trào giải phong và độc lập dân tộc, với các phong trào
cách mạng và tiến bọ thÕ giíi.
2.2. Một số thành tựu đã đạt được
Kể từ Đại Hội VI năm 1986 tới Đại Hội VIII năm 1996, Đảng ta đã đạt
được nhiều thắng lợi quan trọng trong quá trình phát triển đất nước trên con
đường tiến lên CNXH. Đặc biệt, những thắng lợi đó có ý nghĩa vô cùng qua
trọng bởi chúng ta đã và đang hịa mình hội nhập với thế giới, phát triển đất
nước trong bối cảnh tồn cầu hóa tác động mạnh mẽ.
17


Đại hội VIII phải đánh giá đúng đắn kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết
Đại hội VII và 10 năm thực hiện đường lối đổi mới được đề ra từ Đại hội VI
của Đảng.

Mười năm trước, khi Đảng đề ra đường lối đổi mới tồn diện, nước ta
trong tình trạng trầm trọng nhất của khủng hoảng kinh tế - xã hội; sản xuất
đình đốn, lạm phát tăng vọt, đất nước bị bao vây về kinh tế, đời sống nhân
dân hết sức khó khăn, lịng tin giảm sút. Sau gần 5 năm phấn đấu gian khổ,
kiên cường thực hiện đường lối đổi mới, nhân dân ta đã giành được những
thắng lợi bước đầu rất quan trọng cả về kinh tế, xã hội chính trị, đối nội và đối
ngoại. Mức độ gay gắt của cuộc khủng hoảng đã giảm được một phần.
Đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra được Đại hội VII bổ sung và phát
triển, thể hiện ở cương lĩnh, Chiến lược và Báo cáo chính trị mà Đại hội VII
đã thông qua.
Song lúc bấy giờ, thành tựu đổi mới còn hạn chế. Tăng trưởng kinh tế
còn chậm, lạm pháp còn cao, nhiều vấn đề xã hội mới nảy sinh, có mặt
nghiêm trọng. Mỹ vẫn tiếp tục bao vây cấm vận. Một số thế lực thù địch đẩy
mạnh hoạt động hịng gây mất ổn định chính trị, phá rối an ninh quốc gia, làm
phương hại đến độc lập, chủ quyền của đất nước. Nước ta lại đứng trước mắt
những thử thách rất gay gắt.
Trong tình thế đó, Đảng và nhân dân ta đã thể hiện trí tuệ và bản lĩnh
cách mạng của mình, phát huy truyền thống đoàn kết, đấu tranh kiên cường,
lao động sáng tạo, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thử thách, đưa sự nghiệp đổi mới
tiếp tục tiến lên.
Nhìn tổng qt, cơng cuộc đổi mới 10 năm qua đã thu được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra cho 5
năm 1991-1995 đã được hồn thành về cơ bản.
Tình trạng đình đốn trong sản xuất, rối ren trong lưu thông được khắc
phục. Kinh tế tăng trưởng nhanh, nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước
(GDP) bình quân hằng năm thời kỳ 1991 - 1995 đạt 8,2%. Lạm phát bị đẩy lùi
18


từ 774,7% năm 1986 xuống còn 67,1% năm 1991, 12,7% năm 1995. Đầu tư

toàn xã hội bằng nguồn vốn trong và ngoài nước so với GDP năm 1990 là
15,8%, năm 1995 là 27,4%. Lương thực không những đủ ăn mà còn xuất khẩu
được mỗi năm khoảng 2 triệu tấn gạo. Nhiều cơng trình thuộc kết cấu hạ tầng
và cơ sở công nghiệp trọng yếu được xây dựng, tạo thêm sức mạnh vật chất
và thế cân đối mới cho bước phát triển tiếp theo.
Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp hơn với tính chất, trình độ và
u cầu phát triển của sức sản xuất, giải phóng và phát huy tiềm năng to lớn
trong nước, tạo thuận lợi khai thác nguồn lực bên ngồi. Nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng một cách đồng bộ
hơn và có hiệu quả hơn.
Ổn định chính trị - xã hội được giữ vững. Quốc phòng an ninh được
củng cố. Quan hệ đối ngoại phát triển mạnh mẽ; phá được thế bị bao vây, cô
lập; mở rộng hợp tác và tham gia tích cực đời sống cộng đồng quốc tế.
Cơng tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, tăng cường đại đoàn kết toàn dân có nhiều chuyển biến tích cực.
2.3. Những hạn chế cịn tồn tại.
Trong khi đánh giá đúng thành tựu, chúng ta cần thấy rõ những tồn tại và
yếu kém: nước ta còn nghèo và kém phát triển; chúng ta lại chưa thực hiện tốt
cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, dành vốn cho đầu tư, phát
triển. Tình hình xã hội còn nhiều tiêu cực và nhiều vấn đề phải giải quyết.
Việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới có phần vừa lúng túng. Vừa
bng lỏng. Quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội còn nhiều thiếu sót. Hệ thống
chính trị cịn nhiều nhược điểm.
2.3. Ý nghĩa của những thành tự đã đạt được
Từ những bài học thành công và chưa thành công, chúng ta đã điều
chỉnh và bổ sung nhận thức, làm cho quan niệm về chủ nghĩa xã hội ngày
càng cụ thể; đường lối, chủ trương, chính sách ngày càng đồng bộ, có căn cứ
19



khoa học và thực tiễn. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng
được xác định rõ hơn.
Thành tựu hai mươi năm đổi mới vừa qua chính là nền tảng kinh tế chính trị - xã hội để Việt Nam vươn mình trở thành một nước công nghiệp
phát triển hùng mạnh, thật sự “sánh vai với các cường quốc năm châu” như
lời tiên tri của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Những quan điểm chỉ đạo, sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn 1986
– 2001 có ý nghĩa vơ cùng quan trọng đối với sự phát triển của nước nhà. Đặc
biệt đó là giai đoạn chúng ta đứng trước những thách thức vô cùng to lớn mà
cả điều kiện khách quan lẫn chủ quan mang lại.
Tất cả những lựa chọn mang tính chiến lược nêu trên là quyết định của
toàn thể dân tộc ta, của hơn 80 triệu công dân Việt Nam và hơn 3 triệu kiều
bào trên toàn thế giới. Đảng và Nhà nước là những đại diện trung thành, là
công cụ hiệu quả để tập hợp, đồn kết và phát huy ý chí, nguyện vọng, trí tuệ
và nguồn lực của tồn thể đại gia đình dân tộc Việt Nam trong thời kỳ mới,
tận dụng vận hội mới. Nói cách khác, sự phát triển của Việt Nam không phải
là công việc của riêng một tổ chức, cá nhân nào; mà đó là quyền lợi và trách
nhiệm của mọi công dân, mọi kiều bào tâm huyết. Ở đây cần đặc biệt nhấn
mạnh đến vai trò của tầng lớp thanh niên, của thế hệ tri thức trẻ; chính các
bạn là những chủ nhân tương lai của đất nước, quyết định sự phồn thịnh, vị
thế của quốc gia, của dân tộc và của chính bản thân các bạn.
Mục tiêu chung của tất cả chúng ta hẳn là phải nỗ lực hết mình để Việt
Nam phát triển nhanh mạnh và bền vững trong một thế giới hịa bình và ổn
định. Khơng cịn cách nào khác, chúng ta phải chủ động và hội nhập có hiệu
quả vào xu thế tồn cầu hóa. Hơn thế nữa, chúng ta khơng những chỉ biết
tranh thủ cái lợi, hạn chế cái hại trong q trình hội nhập, mà cịn phải biết tác
động vào diễn trình tồn cầu hóa.
Để đạt được điều đó chúng ta phải có một chiến lược ngoại giao tích cực,
chủ động, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ; làm bạn với tất cả
20



các quốc gia trên thế giới trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng, đóng góp tích
cực cho hịa bình và phát triển của cả nhân loại.

21


KẾT LUẬN
Trong thời đại ngày nay đang diễn ra nhiều xu thế phát triển rất phức tạp
và khó dự báo được, đồng thời , những mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa tư bản, giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân, giữa các dân tộc
thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc, giữa các nước tư bản chủ nghĩa với nhau
đang ngày càng trở nên phức tạp và gay gắt hơn trước. Các nước tư bản ln
tìm mọi cách để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa trên tất cả các phương
diện, tuy nhiên cho dù là như vậy đi chăng nữa thì xu thế chủ đạo của thế giới
hiện nay vẫn là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vì đó là xu thế khơng thể
đảo ngược của lịch sử nhân loại. Vì vậy, mỗi quốc gia ngay từ bây giờ hãy
vạch định cho mình một đường lối, chính sách cho phù hợp nhằm đưa đất
nước ngày một đi lên và phát triển bền vững. Tổng kết lại, chúng ta đang hội
đủ những điều kiện bên trong lẫn bên ngồi để có thể chung tay đoàn kết, xây
dựng và phát triển đất nước trở nên hùng mạnh, đóng góp vào sự phát triển
hịa bình và thịnh vượng của tồn thể nhân loại. Để có được cơ hội này, chúng
ta ln biết ơn những sự hy sinh của cha ông từ ngàn đời nay mới có thể tạo
nên vận hội to lớn để chúng ta tiếp bước, chúng ta phải luôn hiểu được trách
nhiệm của mình đối với thế hệ tương lai của đất nước. Vậy nên, chúng ta một
lần nữa sẽ phát huy tinh thần đoàn kết, sáng tạo, nhân ái của dân tộc để tự tin
vững bước khẳng định mình trong thế giới tồn cầu hóa vì sự phát triển của
mỗi cá nhân, của quốc gia, của dân tộc, và sự tiến bộ chung của toàn thể nhân
loại.


22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Nhận thức về thời đại ngày nay ( GS, TS. Vũ Văn Hiền , Nxb

chính trị quốc gia )
2.

Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học ( Nxb chính trị quốc gia,

HN, 2004 )
3.

Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, X ( Nxb chính trị quốc gia )
4.

Đảng Cộng sản Việt Nam : Cương lĩnh xây dựng đất nước trong

thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ( Nxb Sự thật , HN , 1991 )
5.

Các trang web : www.VietNam.net.com.vn
www.Chungta.com.vn
www.Thanhnien.com.vn


23


MỤC LỤC

24



×