TIỂU LUẬN
MƠN: LỊCH SỬ LÝ LUẬN BÁO CHÍ
Đề tài:
CHỨC NĂNG CỦA BÁO CHÍ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1
MỞ ĐẦU
Chức năng của báo chí là vấn đề lớn, quan trọng thuộc về lý luận báo
chí. Xác định được chức năng của báo chí chính là xác định phương châm
hành động, làm cơ sở định hướng hoạt động của nền báo chí cách mạng Việt
Nam. Chức năng là được biểu hiện là tổng hợp những vai trò và tác dụng của
một tiến trình hay một hoạt động nào đó trong tự nhiên và xã hội. Mỗi loại
hình hoạt động trong đời sống xã hội loài người đều được đặc trưng bởi các
chức năng của nó. Phù hợp với các đặc trưng đó là vai trị, vị trí và cả tính vận
động của mỗi loại hình hoạt động. Bản than sự ra đời, tồn tại của báo chí đã
khẳng định một cách khách quan vai trò, tác dụng và ý nghĩa của nó trong xã
hội. Tổng hợp những vai trị, tác dụng và ý nghĩa của báo chí cũng chính là
chức năng xã hội của nó. Tuy nhiên hoạt động của con người ln có ý thức.
Trước khi làm bất cứ việc gì con người đều hình dung, xác định trước về mục
đích cần phải đạt tới, con đường và phương pháp hành động…Tính mục đích
cũng thể hiện một cách rõ rang và nhất quán trong hoạt động báo chí. Vì thế
các chức năng của báo chí cịn là các chức năng có tính mục đích – kết quả
của q trình hoạt động thực tiễn, sử dụng báo chí nhằm đạt được những mục
tiêu đã định trước.
Mỗi nhà báo muốn hoạt động một cách có hiệu quả phải xác định các
nhiệm vụ cơng tác của mình phù hợp với tính chất khách quan của các chức
năng của báo chí. Việc nắm vững các tri thức về các chức năng của báo chí là
điều kiện quan trọng, một trong những yếu tố quyết định tính hiệu quả trong
hoạt động của nhà báo.
Nghiên cứu về Chức năng của báo chí ln là nhiệm vụ quan trọng của
hệ thống lý luận báo chí cách mạng Việt Nam. Điều đó nhằm xác định tính
mục đích của báo chí trong đời sống xã hội, nhằm phát huy vai trị của báo chí
đối với sự nghiệp cách mạng. Xem xét vấn đề về lịch sử lý luận về chức năng
báo chí ở Việt Nam chính là để tìm hiểu sự bổ sung, phát triển hệ thống lý
2
luận báo chí phù hợp với tiến trình phát triển xã hội, mở rộng dân chủ. Sự bổ
sung lý luận báo chí cũng cho thấy sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về
các vấn đề báo chí truyền thông trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế.
Từ đó mỗi người làm báo xác định đúng vị trí, vai trị, trách nhiệm của mình
trong đời sống báo chí hiện nay.
3
NỘI DUNG
I. Các khái niệm liên quan.
- “Chức năng”
Theo tiếng La Tinh, chức năng (Functio) được biểu hiện là tổng hợp
những vai trị và tác dụng của một tiến trình hay một hoạt động nào đó trong
tự nhiên và xã hội.
- Chức năng của báo chí.
Chức năng của báo chí là tổng hợp những vai trò, tác dụng và ý nghĩa
của báo chí đối với đời sống xã hội.
II. Lịch sử nghiên cứu về Chức năng báo chí ở Việt Nam.
1. Vấn đề Chức năng của báo chí trong các trình nghiên cứu.
Lý luận về chức năng của báo chí đã được hệ thống trong cuốn Cơ sở
lý luận báo chí – tác giả Tạ Ngọc Tấn – NXB Văn hóa thơng tin Hà Nội 1999
và trong cuốn Cơ sở lý luận báo chí truyền thơng – Tác giả Dương Xuân Sơn;
Đinh Văn Hường, TRần Quang – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. Lý luận về
chức năng báo chí trong 2 cơng trình nghiên cứu này đều xác định báo chí có
các nhóm chức năng sau: nhóm các chức năng tư tưởng; nhóm các chức năng
quản lý, giám sát xã hội và nhóm các chức năng văn hóa giải trí.
Trong nhóm các chức năng của báo chí thì nhóm chức năng tư tưởng có
vị trí quan trọng hàng đầu.
1.1. Chức năng tư tưởng của báo chí.
Cùng với các hoạt động lý luận, tổ chức, cơng tác tư tưởng có vai trị
đặc biệt quan trọng đối với các chính đảng, các hệ thống xã hội cũng như các
giai cấp nắm quyền lãnh đạo xã hội. Mục đích của cơng tác tư tưởng là nhằm
tác động vào ý thức xã hội, hình thành một hệ tư tưởng thống trị với những
định hướng nhất định. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng cộng sản Việt Nam đã
rất coi trọng công tác tư tưởng, coi đó là một trong những nhiệm vụ hàng đầu
của mình. Với khả năng tác động một cách rộng lớn, nhanh chóng và mạnh
4
mẽ vào toàn bộ xã hội, hoạt động của các phương tiện thơng tin đại chúng có
vai trị to lớn trong công tác tư tưởng. Việc giáo dục lý tưởng, giáo dục chính
trị, xây dựng lối sống mới ln gắn liền với việc kế thừa và phát huy những
giá trị tích cực trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc. Đấu tranh với
những âm mưu, những luận điệu phản tuyên truyền, chống Đảng, chống chế
độ là nội dung và mục đích quan trọng của cơng tác tư tưởng, đồng thời của
các chức năng tư tưởng của báo chí. Chức năng có tính mục đích đầu tiên
trong hoạt động báo chí chính là nâng cao tính tự giác của quần chúng nhân
dân. Để nâng cao tính tự giác của quần chúng nhiệm vụ đặt ra cho báo chí là
phát triển nhận thức của họ. Việc nâng cao trình độ và mở rộng giới hạn nhận
thức nhằm hình thành sự tự giác trong nhân dân lao động đòi hỏi báo chí phải
quan tâm tới việc thơng tin một cách đầy đủ, sinh động các sự kiện, hiện
tượng hết sức phong phú của tự nhiên và xã hội.
Công tác tư tưởng là lĩnh vực có vai trị quan trọng hàng đầu trong công
tác của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với vai trị và khả năng tác động rộng lớn,
báo chí có vai trị quan trọng trong cơng tác tư tưởng của Đảng. Báo chí có
chức năng quan trọng trong giáo dục lý tưởng cho quần chúng. Đó là tinh thần
cách mạng, đó là lý luận của chủ nghĩa Mác Lê nin. Giáo dục cho quần chúng
nhân dân về lịch sử của dân tộc ta, lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng và
dân tộc. Tuyên truyền, giáo dục giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Trong cơng
tác tư tưởng, báo chí cũng thể hiện vai trị của mình trong việc đấu tranh
chống các luận điệu chống Đảng.
Nội dung tính định hướng xã hội toàn diện trước hết là khả năng nhìn
nhận và thẩm định đời sống hiện thực một cách hệ thống. Đời sống xã hội
hiện thực hằng ngày vô cùng phong phú, phức tạp và đa dạng. Mỗi sự kiện,
hiện tượng, tiến trình diễn ra trong những điều kiện lịch sử cụ thể với những
hình thức, tính chất, nội dung, phương thức khác nhau. Yêu cầu đặt ra cho báo
chí là khơng chỉ dừng lại ở sự mơ tả, phản ánh số lượng to lớn các sự kiện,
hiện tượng và q trình đó mà phải phát hiện trong chúng những mối quan hệ,
5
qua đó chỉ ra cho quần chúng rộng rãi những vấn đề có tính bản chất, chiều
hướng vận động của chính hiện thực. Cũng từ đó, báo chí định hướng sự chú
ý của quần chúng vào việc nhận thức cái gì là cần thiết. Như vậy, vấn đề quan
trọng là trên cơ sở khoa học, khách quan, hình thành một mơ hình thơng tin
hợp lý về bức tranh thế giới khách quan.
Báo chí là một kênh thơng tin quan trọng, là công cụ để tuyên truyền lý
tưởng, tư tưởng lý luận của Đảng. Đó là phương tiện quan trọng để thực hiện
chức năng giáo dục chính trị tư tưởng. Báo chí góp phần cỗ vũ tư tưởng, hành
vi tích cực. Trong báo chí vơ sản, chức năng tun truyền ln được đề cao.
Tuyên truyền về lý tưởng, lý luận của Đảng, đường lối chính sách của Đảng,
pháp luật của nhà nước về các lĩnh vực của đời sống. Về bản chất, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta là sự vận dụng sang tạo, cụ thể học
thuyết Mác xít – Leneinit vào việc định hướng đường hướng vận động và giải
quyết các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Vì vậy nội dung tuyên truyền
hệ tư tưởng Mác – Lê nin và tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và
nhà nước hòa quyện, đan xen vào nhau, làm tiền đề cho nhau, tạo điều kiện
cho nhau. Yêu cầu đối với việc tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước là phân tích, lý giải các cơ sở khoa học, thực tiễn một cách
thuyết phục, hướng dẫn các khả năng thực hiện, làm cho quần chúng nhân dân
hiểu biết, tin tưởng và tự giác chấp hành, tạo ra các điều kiện tinh thần, tư
tưởng cho các cuộc vận động xã hội rộng lớn nhằm giải quyết các nhiệm vụ
xây dựng và phát triển kinh tế xã hội. Cùng với những nội dung trên, hoạt
động tuyên truyền báo chí cịn có các phương hướng, nội dung quan trọng
khác. Đó là việc tuyên truyền một lối sống mới văn hóa, khoa học và lành
mạnh, tuyên truyền những tri thức lịch sử văn hóa nhằm xây dựng và phát
triển lòng yêu nước, tự hào dân tộc. Hoạt động tuyên truyền gắn bó hữu cơ
với hoạt động cổ động, mà nội dung của nó tập trung sự quan tâm chủ yếu
vào dư luận xã hội – bộ phận linh động, dễ biến động nhất của ý thức xã hội.
Cổ động là hoạt động của báo chí nhằm truyền đến quần chúng đông đảo
6
những thơng tin thời sự có khả năng tác động tích cực vào lập trường và thái
độ của họ. Những thông tin cổ động là phản ánh các sự kiện, hiện tượng xác
thực của hiện thực. Thông tin cổ động bao giờ cũng có mục đích định hướng
nhằm mục tiêu cuối cùng là đem lại lợi ích cho ai, giai cấp nào, đối tượng nào
trong xã hội.
Tổ chức là phương thức hoạt động có tính bản chất của báo chí. Đó là
kết quả của tuyên truyền và cổ động, là cơ sở quan trọng để đánh giá chất
lượng, hiệu quả của hoạt động tuyên truyền, cổ động. Hoạt động tổ chức
chính là tác động vào các thành viên xã hội nhằm giúp họ xác định tính chất,
phương thức, mục đích, hành động hợp lý, động viên họ để giải quyết các
nhiệm vụ kinh tế, chính trị hay xã hội, xây dựng và phát triển đất nước, mang
lại những lợi ích cần thiết và hợp lý cho xã hội, cho giai cấp và cho mỗi công
dân. Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước thời kỳ đổi mới, vai trị
tổ chức của báo chí thể hiện rõ nét qua việc tuyên truyền, đấu tranh nhằm thực
hiệ cơ chế khoán trong quản lý nông nghiệp, tạo nên những tiến bộ rõ to lớn
trong sản xuất lương thực, thực phẩm của đất nước.
Gần đây báo tuổi trẻ với loạt bài về Tiếp lửa truyền thống Mãi mãi tuổi
20 đã dấy lên trong tuổi trẻ cả nước một phong trào thi đua sôi nổi hướng tới
những lý tưởng sống cao đẹp. Hay mới đây là phong trào Góp đá xây Trường
Sa đã thu hút sự quan tâm rất lớn của dư luận xã hội, tạo thành một hoạt động
đầy ý nghĩa.
1.2. Chức năng quản lý và giám sát xã hội của báo chí.
Quản lý xã hội được quan niệm là sự tác động có ý thức của chủ thể
quản lý vào khách thể quản lý nhằm làm cho nó hoạt động, phát triển có hiệu
quả, đạt được mục đích đề ra. Q trình quản lý là q trình thơng tin bao
gồm từ việc khai thác, thu thập, đánh giá, lựa chọn, phân tích và xử lý các
thơng tin đến việc đưa ra các quyết định và truyền đạt thông tin về quyết định
đến khách thể quản lý. Để đảm bảo cho sự quản lý có hiệu quả cần phải có cơ
chế thơng tin 2 chiều thuận và ngược. Chiều thuận là thông tin từ chủ thể đến
7
khách thể chuyển đi những quyết định quản lý cũng như những thông tin để
hướng dẫn cách thức, phương pháp, điều kiện thực hiện chúng. Theo chiều
thông tin ngược là kênh thông tin từ khách thể quản lý đến chủ thể quản lý.
Kênh thông tin này đảm bảo mối liên hệ ngược cần có giữa khách thể và chủ
thể quản lý. Báo chí thực hiện chức năng quản lý của mình bằng việc cung
cấp thơng tin theo cả 2 chiều. Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu thông tin
báo chí ngày càng lớn và tồn diện, do đó vai trị của báo chí càng lớn. Với
khả năng thơng tin nhanh chóng, kịp thời trong phạm vi xã hội, báo chí là
phương tiện tối ưu để truyền đến khách thể quản lý những quyết định, chỉ thị,
hướng dẫn. Mặt khác báo chí phản ánh đời sống hiện thực với những sự kiện,
hiện tượng phong phú, đa dạng, thông tin kịp thời các vấn đề thời sự của cuộc
sống. Đó chính là thơng tin ngược có vai trị to lớn trong việc quản lý các hệ
thống, các quá trình trong phạm vi xã hội. Ở phạm vi toàn xã hội trong khi
thực hiện chức năng tư tưởng, báo chí cũng đồng thời thực hiện chức năng
quản lý xã hội.
Báo chí của Đảng cộng sản có vai trị to lớn trong việc tham gia quản lý
hệ thống chính trị của đất nước, bao gồm hệ thống Đảng cộng sản cầm quyền,
hệ thống nhà nước, các tổ chức đồn thể chính trị xã hội. Nhờ hệ thống các
phương tiện thông tin đại chúng, Đảng tiến hành cơng tác giáo dục chính trị tư
tưởng cho đảng viên và quần chúng, tuyên truyền các quan điểm, chính sách
và quyết định tạo nên sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong nội bộ
Đảng, hình thành một kênh liên hệ giữa Đảng và nhân dân lao động. Qua báo
chí, Đảng và nhà nước có thể thấy được tình hình xã hội, tâm tư nguyện vọng,
thái độ của quần chúng, trạng thái hoạt động của tổ chức Đảng ở địa phương.
Bên cạnh đó, báo chí của Đảng có khả năng to lớn trong cuộc đấu tranh tư
tưởng nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ và khẳng định con đường phát triển xã hội
chủ nghĩa.
Báo chí tổ chức hoạt động của mình trong lĩnh vực quản lý theo một số
phương thức chủ yếu:
8
-Đăng tải, bình luận, giải thích, phân tích các văn kiện, nghị quyết,
quyết định của Đảng và Nhà nước.
-Phản ánh, phân tích tình hình thực tế, tình trạng cơng việc ở từng địa
phương, khu vực hoặc 1 khâu, một mắt xích nào đó của q trình kinh tế xã
hội. Kết quả của hoạt động này là một bức tranh toàn diện về sự vật với
những mối quan hệ phức tạp của nó tạo điều kiện cho các cơ quan quản lý có
đủ dữ liệu để đưa ra những quyết định quản lý mới.
- Giám sát, kiểm tra sự thực hiện các đường lối, quan điểm, nghị quyết
của Đảng, pháp luật và chính sách của Nhà nước. Yêu cầu của hoạt động này
đối với báo chí là phát hiện kịp thời các sai lầm, khuyết điểm, những vấn đề
khó khăn, ách tắc trong việc chỉ đạo thực iện và thực hiện các quyết định quản
lý. Kết quả hoạt động giám sát kiểm tra của báo chí là nguồn thơng tin quan
trọng giúp các cơ quan Đảng và Nhà nước kịp thời có quyết định, biện pháp
tích cực, điều chỉnh hoạt động của các cơ quan, tổ chức cấp dưới. Mặt khác
nguồn thơng tin đó trực tiếp tác động tới các cơ quan, tổ chức có khuyết điểm,
giúp họ nhận thức được thiếu sót để tự điều chỉnh hoặc trong trường hợp khác
sẽ tạo áp lực xã hội buộc họ phải điều chỉnh, sửa chữa. Yêu cầu hàng đầu của
báo chí trong hoạt động giám sát, kiểm tra là cuộc đấu tranh chống các hiện
tượng tiêu cực trong đời sống kinh tế xã hội – trong tổ chức Đảng và các cơ
quan Nhà nước.
Trong triển khai thực hiện quy định bắt buộc đội mũ bảo hiểm khi tham
gia giao thông thời gian qua có thể thấy rõ chức năng tham gia quản lý xã hội
của báo chí. Trong những ngày đầu chuẩn bị thực hiện, báo chí đã thơng tin
rộng rãi cho toàn dân biết về một quy định quản lý mới. Đến ngày bắt đầu có
hiệu lực của quyết định, trên các tuyến đường người dân chấp hành quy định
rất nghiêm túc. Lý luận về chức năng quản lý đã nói rất rõ về nội dung này.
Báo chí có vai trị hết sức quan trọng trong việc truyền đạt các thông tư, quyết
định, chỉ thị của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý. Đối với thông tin
ngược lại, khi báo chí thơng tin về hiện thực cuộc sống đã tác động đến chủ
9
thể quản lý để chủ thể quản lý có những điều chỉnh trong cơng tác quản lý của
mình. Chẳng hạn, khi báo chí thơng tin về vụ việc “cướp than”ở Quảng Ninh,
cơ quan chức năng đã nhanh chóng vào cuộc để điều tra, làm rõ, khởi tố nhiều
cán bộ ngành than liên quan. Đồng thời với đó, cơ quan chức năng của tỉnh
Quảng Ninh cũng thiết chặt công tác quản lý tài nguyên để ổn định tình hình.
Trong lý luận về chức năng này, các tác giả đã đề cập sâu về vai trị
của báo chí trong cơng tác quản lý xã hội. Nội dung về chức năng giám sát
được đề cập ít hơn. Đồng thời chức năng giám sát cũng chỉ được nêu ngắn
gọn về việc báo chí đăng tải sự việc, tạo áp lực để họ sửa chữa. Việc giám sát
xã hội để kịp thời phát hiện ra những gương người tốt việc tốt, những điển
hình tiên tiến để nêu gương, tạo hiệu ứng xã hội rộng lớn chưa được đề cập.
1.3. Chức năng khai sáng, giải trí.
Chức năng khai sáng, giải trí là các chức năng khách quan của báo chí,
liên hệ chặt chẽ với chức năng tư tưởng cũng như các chức năng quản lý.
Thực hiện các chức năng khai sáng, giải trí, báo chí truyền bá các tri thức văn
hóa tồn diện, nâng cao trình độ hiểu biết, đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí
của nhân dân lao động. Sự phát triển của các phương tiện thông tin đại chúng
là điều kiện quan trọng để đại chúng hóa những giá trị vận động tinh thần của
nhân loại, giúp cho mỗi thành viên của xã hội có cơ hội khơng ngừng bổ sung
vốn tri thức, làm phong phú đời sống tinh thần của mình.
Với những phương thức, loại hình thơng tin đa dạng, phong phú, hệ
thống báo chí hiện đại chuyển tải đến cơng chúng lượng tri thức to lớn, phong
phú về nhiều vấn đề, nhiều lĩnh vực hoạt động của con người.
Khi báo in ra đời, một nhóm cơng chúng trong xã hội có điều kiện
thường xun tiếp nhận những thơng tin văn hóa phong phú, làm giàu cuộc
sống tinh thần của mình. Đài phát thanh đã tạo nên bước tiến vượt bậc trong
thông tin đại chúng. Sự chuyển tải thông tin bằng âm thanh, tiếng nói của đài
phát thanh đã tạo cho nó lực lượng công chúng vô cùng đông đảo. Với đài
phát thanh, nhà hát và âm nhạc đã đáp ứng nhu cầu thưởng thức và giải trí của
10
cơng chúng. Những chương trình phát thanh trở thành một trường văn hóa
tổng hợp, món ăn tinh thần bổ ích, nhà sư phạm tập thể, giáo dục và hướng
dẫn con người từ những tri thức về cuộc sống đời thường, cách đối nhân xử
thế, lối sống trong tập thể, ngoài xã hội…
Sự xuất hiện của truyền hình thực sự là một cuộc cách mạng trong
thông tin đại chúng, tạo ra những điều kiện và khả năng tuyệt vời cho báo chí
thực hiện chức năng văn hóa, giải trí. Cơng chúng truyền hình được trực tiếp
thưởng thức các buổi biểu diễn nghệ thuật, các cơng trình kiến trúc, danh lam
thắng cảnh…BẰng hình ảnh trực quan, kết hợp với âm thanh truyền hình có
khả năng tạo nên những cảm giác chân thật, đầy đủ cho công chúng.
Trong cuốn sách các tác giả cũng bước đầu đề cập tới vai trò của quảng
cáo và hướng dẫn trên báo chí đối với xã hội nhằm cung cấp những thông tin
cần thiết phục vụ cuộc sống con người.
Rõ ràng, báo chí cung cấp một nguồn thông tin khổng lồ cho độc giả.
Qua những thông tin này mà nhận thức về nhiều lĩnh vực của độc giả tăng lên.
Các chương trình truyền hình như game show Ai Là triệu phú, Hãy chọn giá
đúng, đấu trường 100, trị chơi âm nhạc…là những món ăn tinh thần bổ ích và
hấp dẫn đối với cơng chúng. Xem truyền hình, nghe đài phát thanh, đọc báo là
thói quen hằng ngày đố với mọi người trong thời gian rảnh rỗi.
2. Sự bổ sung lý luận về Chức năng của báo chí thời gian gần đây.
Trong những năm gần đây, Việt Nam tiếp tục công cuộc đổi mới do
Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Cùng với sự hội nhập mạnh mẽ về kinh tế, các
lĩnh vực khác của đời sống cũng tích cực trong dịng chảy đó. Đất nước đang
có sự phát triển nhanh chóng về mọi mặt. Báo chí Việt Nam cũng có những
bước phát triển khơng ngừng. Cùng với những đổi mới và tăng cường tiến
trình dân chủ hóa đời sống xã hội, báo chí ngày càng được khẳng định với vai
trị tích cực trong xây dựng và bảo vệ đất nước. Lý luận về báo chí cũng tiếp
tục được khẳng định và phát triển. Vấn đề chức năng báo chí được đề cập với
sự bổ sung một số nội dung mới. Nếu như trước đây trong một số giáo trình
11
nghiên cứu như đã nêu ở trên, báo chí có 3 chức năng cơ bản đó là nhóm chức
năng chính trị tư tưởng; nhóm chức năng quản lý, giám sát xã hội và nhóm
chức năng khai sang, giải trí, thì nay được phát triển thêm với các chức năng:
Chức năng thông tin; chức năng quảng cáo, dịch vụ. Khái niệm truyền thơng
đại chúng được sử dụng nhiều và báo chí chính là thành tố quan trọng của
truyền thơng đại chúng. Trong cuốn “Truyền thông – lý thuyết và kỹ năng cơ
bản”, tác giả PGS TS Nguyễn Văn Dững, NXB Lý luận Chính trị 2006; vấn
đề Chức năng của báo chí – truyền thông đại chúng được khái quát trong 5
chức năng bao gồm: Chức năng thông tin; chức năng giáo dục tư tưởng, cổ vũ
hành động; chức năng khai sang, giải trí; chức năng giám sát xã hội; chức
năng quảng cáo, dịch vụ. Trong đó Chức năng thơng tin được nêu đầu tiên
trong các chức năng của báo chí – truyền thông.
2.1. Chức năng thông tin.
Đây là chức năng khởi nguồn, chức năng cơ bản của báo chí, truyền
thơng đại chúng. Truyền thông đại chúng ra đời và phát triển trước hết là
nhằm thỏa mãn nhu cầu thông tin của con người và xã hội. Thông tin là nhu
cầu sống còn, nhu cầu phát triển của con người và xã hội đồng thời là động
lực kích thích sự phát triển. Xã hội càng phát triển, nhu cầu thông tin càng
cao. Trong quá trình đáp ứng nhu cầu ấy, bản thân báo chí – truyền thơng
cũng phát triển khơng ngừng. Điều đó lý giải tại sao trong q trình đổi mới ở
nước ta, báo chí truyền thơng phát triển từng ngày. Thơng tin trên các báo chí
– truyền thơng đại chúng khơng chỉ trở thành sức mạnh chính trị trong cuộc
đấu tranh chính trị tư tưởng, sức mạnh đột phá của sự phát triển kinh tế, khoa
học mà cịn góp phần hình thành diện mạo văn hóa quốc gia cũng như nhân
cách của mỗi con người. Để báo chí thực hiện tốt chức năng thơng tin thì cần
đảm bảo các u cầu: Thơng tin phải nhanh chóng, hợp thời; thơng tin phải
phong phú, đa dạng; thông tin phải phù hợp với các quy tắc xã hội, các giá trị
văn hóa, đạo lý dân tộc, phù hợp với phát triển và phục vụ sự phát triển; thông
12
tin cần phải phục vụ tiến trình phát triển kinh tế xã hội; thông tin phải trung
thực.
Chức năng thông tin là một sự bổ sung, phát triển lý luận về chức năng
báo chí. Thơng tin là nhu cầu cơ bản của con người. Báo chí trước hết phải
thực hiện chức năng cung cấp thông tin cho độc giả. Hằng ngày, con người
luôn muốn biết thông tin diễn ra khắp nơi trong nước, thế giới; từ thơng tin
chính trị, văn hóa, kinh tế, đời sống, xã hội, thời tiết, dịch bệnh…
2.2. Chức năng giáo dục tư tưởng, cổ vũ hành động.
Giáo dục tư tưởng thực chất là tuyên truyền hệ tư tưởng của giai cấp
cầm quyền. Thời kỳ chiến tranh lạnh thế giới tồn tại 2 hệ thống xã hội đối lập
– xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, do đó quan niệm về chức năng thơng
tin và tun truyền của báo chí – truyền thơng đại chung trong hai hệ thống xã
hội này cũng có những khác biệt, thậm chí đối lập nhau.
Ở các nước tư bản người ta tuyệt đối chức năng thông tin và cho rằng
thông tin sự kiện là khách quan tuyệt đối. Nhưng trong vô vàn các sự kiện, lựa
chọn sự kiện nào để thơng tin và thơng tin từ góc độ nào, thơng tin nhiều hay
ít…lại hồn tồn do chủ quan của con người. Do đó thơng tin sự kiện cũng
chỉ mang tính khách quan tương đối.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa thì đề cao chức năng tun truyền. Tuy
nhiên thơng tin và tuyên truyền là 2 mặt của một vấn đề. Khơng ai thơng tin
mà khơng nhằm mục đích nào đó, tức là tuyên truyền; ngược lại nếu chỉ nhấn
mạnh, tuyệt đối hóa vấn đề tun truyền mà khơng đẩy mạnh thơng tin thì
tun truyền sng sẽ khơng hiệu quả.
Tun truyền thực chất là truyền bá hệ tư tưởng, làm cho hệ tư tưởng
của giai cấp thống trị chiếm lĩnh trong đời sống tinh thần của tuyệt đại đa số
nhân dân. Ở nước ta hiện nay, hoạt động tuyên giáo và hoạt động truyền thơng
đại chúng đều có mục đích chung là tạo dựng và củng cố niềm tin của nhân
dân vào lý tưởng và mục tiêu cách mạng của Đảng vì dân giàu, nước mạnh,
xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh. Nhưng công cụ và phương thức,
13
phương tiện tiến hành lại không giống nhau. Bám sát thực tiễn cuộc sống, kịp
thời thơng tin, phân tích, cắt nghĩa các sự kiện, các vấn đề thời sự nhằm khơi
nguồn và định hướng dư luận xã hội, hướng dẫn tư tưởng cho đông đảo quần
chúng xã hội là nhiệm vụ hàng đầu của báo chí – truyền thơng đại chúng.
Trong q trình đó cần tránh thơng tin một chiều, khơng tơ hồng hoặc bơi đen
vì như thế dễ gây mất lịng tin của cơng chúng vào các phương tiện truyền
thông; luôn luôn chú ý phát hiện và biểu dương, khích lệ, kích thích tính tích
cực xã hội, coi đó là khuynh hướng chủ đạo. Đó cũng chính là địi hỏi của
chính cuộc sống, của đơng đảo nhân dân ln hướng tới các mục tiêu tích cực,
tiến bộ.
Chức năng tư tưởng, cổ vũ hành động cũng vẫn là một chức năng được
khẳng định trong lý luận báo chí từ trước tới nay. Đương nhiên đây là một vấn
đề lớn mà báo chí ln đóng vai trị quan trọng.
2.3. Chức năng khai giáo dục, giải trí.
Các sản phẩm báo chí – truyền thơng góp phần to lớn vào việc nâng
cao dân trí, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc cũng như giao
lưu, tiếp thu các tinh hoa văn hóa của các dân tộc trên thế giới phục vụ sự
nghiệp phát triển của đất nước, chấn hưng dân tộc.
Trước hết báo chí, truyền thơng đại chúng có vai trị tham gia phát triển
giáo dục, nâng cao dân trí. Truyền thơng đại chúng, báo chí là trường học tự
nguyện, tự lựa chọn với phương thức phù hợp nhất cho mỗi người, mỗi nhóm
cơng chúng thơng qua việc cung cấp các ấn phẩm truyền thơng. Tính tự giác,
khả năng lựa chọn rộng rãi, cơ chế tiếp nhận linh hoạt, gần gũi thực thế cuộc
sống, sinh động, sức thuyết phục cao là những ưu thế của truyền thông đại
chúng trong việc tham gia vào sự nghiệp giáo dục đào tạo.
Chức năng giáo dục của báo chí – truyền thơng đại chúng cũng có
nghĩa là giáo dục chính trị tư tưởng, trách nhiệm công dân, giáo dục, cung cấp
tri thức hiểu biết về pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật; trao đổi và sẻ
chia kỹ năng, kinh nghiệm sống, kinh nghiệm làm ăn cho mỗi cá nhân cũng
14
như cộng đồng dân cư. Mặt khác truyền thông đại chúng cũng là kênh có
nhiều ưu thế trong việc phổ biến các thành tựu khoa học công nghệ, hướng
dẫn cách thức áp dụng, triển khai và chuyển giao công nghệ. Truyền thơng đại
chúng cịn là cơng cụ giám sát hữu hiệu trong việc đảm bảo mục tiêu, định
hướng và hiệu quả công tác giáo dục đào tạo cũng như tập hợp nguồn lực xã
hội tham gia giải quyết các vấn đề đặt ra trong q trình phát triển.
Báo chí, truyền thơng đại chúng cịn là kênh tạo cơ hội cho đơng đảo
nhân dân tham gia giải trí, tức là tạo điều kiện tổ chức và hướng dẫn công
chúng sử dụng thời gian rỗi một cách hữu ích để cân bằng trạng thái tâm lý và
tái sản xuất sức lao động. Truyền hình có ưu thế về tổ chức các chương trình
trị chơi cho mọi tầng lớp dân cư có thể tham gia – Vừa giải trí vừa mở mang
hiểu biết, rèn luyện sức bật tư duy, khả năng suy luận, phán đốn. Phát thanh
lại có lợi thế về lời nói, tiếng động, âm nhạc. Báo in lại thiên về tiểu phẩm, đố
vui, biếm họa.
2.4. Chức năng giám sát xã hội.
Giám sát là chức năng quan trọng hàng đầu của báo chí. Ở các nước
phương Tây, chức năng này được đề cao với đầy đủ hành lang pháp lý. Ở Việt
Nam, lần đầu tiên trong văn kiện chính thức của mình – Nghị quyết TƯ 6 (lần
hai) khóa VIII, ĐẢng cộng sản Việt Nam đã ghi nhận, khẳng định báo chí và
truyền thông đại chúng là một trong 4 hệ thong giám sát xã hội. Đây là bước
phát triển quan trọng về lý luận, nhận thức của Đảng về vai trò xã hội của báo
chí truyền thơng đại chúng.
Giám sát xã hội của báo chí – truyền thơng đại chúng là giám sát chủ
yếu bằng tai mắt của nhân dân, giám sát bằng dư luận xã hội. Đó là q trình
giám sát mọi nơi, mọi lúc. Chức năng giám sát xã hội của báo chí – truyền
thơng đại chúng trong q trình thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật là
để kịp thời phát hiện những nơi làm đúng, làm hay để biểu dương, khích lệ và
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn; đồng thời cũng để sớm phát hiện những trục
trặc, những nơi làm dở, làm sai, những nơi vi phạm chủ trương chính sách
pháp luật để đấu tranh. Vai trị và sức mạnh giám sát xã hội của truyền thông
15
đại chúng trước hết là xã hội hóa những việc tốt và những sai phạm của tổ
chức hoặc cá nhân nào đó để khơi nguồn và định hướng dư luận xã hội theo
hướng ủng hộ hoặc chỉ trích, tạo áp lực dư luận và buộc các cơ quan công
quyền giải quyết, giải thích và giải đáp trước nhân dân, trước cơng luận.
Để báo chí – truyền thơng đại chúng làm tốt chức năng giám sát xã hội
cần chú ý tới một số điều kiện:
-Khơng ngừng mở rộng tính cơng khai và dân chủ hóa đời sống xã hội,
trước hết là dân chủ về kinh tế, tài chính. Tính cơng khai và dân chủ hóa xã
hội được mở rộng đến đâu thì vai trị và năng lực giám sát xã hội của truyền
thông đại chúng được tăng lên đến đấy.
-Nâng cao trình độ dân trí, trước hết và quan trọng nhất là trình độ hiểu
biết của dân cư về các văn bản quy phạm pháp luật và thiết chế phân chia
quyền lực của Nhà nước. Bởi vì giám sát là giám sát bằng luật.
-Khơng ngừng nâng cao năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức và văn
hóa chính trị của đội ngũ cán bộ công chức trong bộ máy công quyền các cấp.
-Khơng ngừng hồn thiện mơi trường pháp lý, xây dựng nhà nước pháp
quyền – xã hội công dân, hướng tới làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội
bằng thiết chế phân chia quyền lực một cách khoa học, chặt chẽ, có cơ chế
kiểm sốt để chống lạm dụng quyền lực.
-Khơng ngừng nâng cao trình độ mọi mặt, năng lực tác nghiệp, đạo đức
nghề nghiệp, bản lĩnh nghề nghiệp cũng như cải thiện điều kiện làm việc cho
đội ngũ cán bộ báo chí, truyền thơng.
-Sử dụng báo chí – truyền thơng như cơng cụ hữu ích nhất trong việc
mở rộng tính cơng khai và dân chủ hóa đời sống xã hội.
Chức năng giám sát của báo chí ngày càng được khẳng định hơn trong
thời gian gần đây. Khi xã hội ngày càng phát triển, Việt Nam xây dựng đất
nước theo kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với hội
nhập, tiến trình dân chủ hóa đời sống xã hội được đẩy mạnh. Trong quá trình
vận hành của cả hệ thống báo chí đã có cả hành lang pháp lý để thực hiện
nhiệm vụ giám sát xã hội. Như đã nêu ở trên, báo chí được Đảng cộng sản
16
Việt Nam khẳng định trong văn kiện là một trong 4 hệ thống giám sát xã hội.
Trong bài phát biểu tại Đại hội IX Hội nhà báo Việt Nam, Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng (thời điểm đó đang là Chủ tịch Quốc Hội) đã đánh giá:
Trong những năm đổi mới, báo chí đã đóng góp quan trọng và to lớn vào
những thành tựu phát triển chung của đất nước. Đã tích cực tuyên truyền, cổ
vũ nhân dân thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước; phản ánh trung thực, sinh động ý chí, tâm tư, nguyện vọng
của nhân dân. Những vấn đề bức xúc, nóng bỏng của cuộc sống, góp phần
tổng kết thực tiễn, hoạch định chính sách, tham gia giám sát và phản biện
xã hội, quản lý đất nước”. Vai trò giám sát của báo chí ngày càng được coi
trọng. Trong đời sống báo chí xuất hiện hàng loạt bài cho thấy vai trò giám sát
và phản biện xã hội của báo chí. Vụ tiêu cực tham nhũng đất đai ở Đồ Sơn –
Hải Phịng do báo chí phanh phui là một ví dụ về vai trị giám sát thực hiện
chính sách đất đai của báo chí. Bên cạnh giám sát, vai trị phản biện xã hội
của báo chí mặc dù chưa được đề cập trong giáo trình lý luận báo chí nhưng
đã được đặt vấn đề nhiều lần. Ngay trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng như đã dẫn ở trên cũng khẳng định vai trò phản biện xã hội của
báo chí. Báo chí dựa trên các phân tích khoa học, kiểm chứng từ thực tiễn,
phản ánh tâm trạng của dư luận xã hội để bình luận đánh giá tạo dư luận góp
phần thay đổi hoặc làm ảnh hưởng đến việc ra quyết định của nhà quản lý phù
hợp với tâm trạng xã hội. Việc Quốc hội khóa XII trong một lần họp đã không
thông qua đề xuất xây dựng đường sắt cao tốc Bắc Nam của Chính Phủ vừa
qua cũng cho thấy vai trò phản biện xã hội của báo chí. Trước ngày bỏ phiếu,
trên các diễn đàn báo chí đăng tải liên tục nhiều bài viết, nhiều quan điểm về
dự án này. Một số người ủng hộ, một số khác đơng đảo hơn nhiều thì bày tỏ
băn khoăn, lo lắng về tính hiệu quả của dự án trong khi Đất nước phải vay của
nước ngoài một khoản tiền rất lớn. Đó cũng chính là luồng dư luận trong nhân
dân. Những bài báo đó đã tác động khơng nhỏ đến việc biểu quyết của các đại
biểu Quốc hội. kết quả là Quốc hội không tán thành việc đầu tư xây dựng dự
án đường sắt cao tốc Bắc Nam quá tốn kém này.
17
2.5. Chức năng quảng cáo, dịch vụ.
Đăng tải thông điệp quảng cáo là chức năng xã hội cơ bản của truyền
thơng đại chúng. Quảng cáo là nhu cầu sống cịn, nhu cầu phát triển của chính
bản thân nền kinh tế thị trường sản xuất hàng hóa trong điều kiện khoa học –
công nghệ phát triển. Cùng một mặt hàng nhưng nhiều nhà sản xuất và sản
xuất với khối lượng lớn, do đó cần phải nhanh chóng mở rộng những người
mua hàng và đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm. Báo chí truyền thơng thỏa
mãn nhu cầu này của nền kinh tế tức là góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển.
Đăng tải quảng cáo cũng chính là nhu cầu của bản thân các kênh truyền
thông để thu lợi. Bởi vì muốn tồn tại và phát triển, truyền thơng đại chúng cần
có nguồn tài chính để chi tiêu, đổi mới công nghệ…
Thông điệp quảng cáo cũng là thông tin kinh tế nhưng là dạng thông tin
đặc thù – xét về nội dung, hình thức, phương thức tồn tại, phương thức tác
động.
Xã hội càng phát triển, các dịch vụ xã hội trên các phương tiện thông
tin đại chúng càng đa dạng, phong phú và có vai trị quan trọng trong đời sống
dân cư.
Coi quảng cáo, dịch vụ là một chức năng của báo chí – truyền thơng đại
chúng cũng là một sự bổ sung về mặt lý luận báo chí. Thực tiễn cho thấy
quảng cáo, dịch vụ là một nhiệm vụ hết sức quan trọng đối với mỗi cơ quan
báo chí. Nguồn tài chính có được từ quảng cáo nó cũng phản ánh chất lượng
thông tin, sức lôi cuốn công chúng của mỗi cơ quan báo chí. Một số cơ quan
báo chí cịn xác định nhiệm vụ đẩy mạnh quảng cáo, dịch vụ để nâng cao tiềm
lực tài chính là một trong những nhiệm vụ hàng đầu. Đài Phát thanh truyền
hình Quảng Ninh trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xác định Việc tăng cường
tiềm lực tài chính thơng qua quảng cáo, dịch vụ là nhiệm vụ song song với
việc đổi mới, nâng cao chất lượng chương trình. Đây là 2 nhiệm vụ nhưng
luôn hỗ trợ, thúc đẩy nhau. Chất lượng chương trình tốt thì nhiều khan giả, tài
chính từ quảng cáo, dịch vụ tăng lên. Có tiền thì Đài lại có điều kiện đầu tư
trở lại để chất lượng chương trình cao hơn nữa…
18
KẾT LUẬN
Lịch sử nghiên cứu lý luận về chức năng báo chí cho thấy những nhận
thức mới trong tư duy lý luận của Đảng ta trên lĩnh vực báo chí truyền thông.
Từ những quan điểm lý luận đầu tiên, chức năng thơng tin của báo chí chưa
được đề cập thì nay, Chức năng thông tin được khẳng định như là chức năng
khởi nguồn, quan trọng hàng đầu của báo chí – truyền thông. Quảng cáo dịch
vụ nay cũng được coi là một chức năng trong hệ thống các chức năng của báo
chí. Ngày nay ở Việt Nam, báo chí ln được kỳ vọng rất lớn ở vai trò tham
gia giám sát xã hội. Chính giám sát của báo chí sẽ làm cho hệ thống các cơ
quan, các tổ chức, cá nhân vận hành đúng chuẩn hơn góp phần xây dựng đời
sống xã hội. Đồng hành với vai trò giám sát thì phản biện xã hội cũng là vấn
đề mới được đề cập trong lý luận về chức năng của báo chí Việt Nam. Thực
tiễn đời sống báo chí hiện nay đã cho thấy vai trò phản biện xã hội ngày một
lớn của báo chí. Xã hội càng mở rộng và đẩy mạnh dân chủ thì báo chí càng
có điều kiện thể thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội. Đó cũng là
mong muốn của Đảng và Nhà nước, của nhân dân đối với báo chí. Chức năng
giáo dục tư tưởng luôn là chức năng quan trọng của báo chí và ln được
khẳng định trong hệ thống lý luận báo chí cách mạng Việt Nam. Về chức năng
khai sáng, giải trí, đời sống xã hội càng phát triển càng chứng minh cho tính
đúng đắn trong lý luận này. Sự bùng nổ của các phương tiện truyền thông đại
chúng đã cho thấy điều đó. Hàng loạt các kênh truyền hình ra đời chỉ nhằm
mục đích thỏa mãn nhu cầu giải trí của cơng chúng như các kênh chỉ chiếu
phim truyện; có kênh chỉ ca nhạc; có kênh chỉ thời trang…
Nhận thức về lý luận chức năng báo chí chính là để mỗi nhà báo, mỗi
cơ quan báo chí thấy được vai trị, trách nhiệm của mình để hoạt động báo chí
đúng tơn chỉ mục đích, đáp ứng được kỳ vọng của nhân dân, phục vụ sự
nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc; xây dựng đất nước ngày càng giàu
mạnh, dân chủ, phồn vinh, hạnh phúc.
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cơ sở lý luận báo chí – PGS – TS Tạ Ngọc Tấn (chủ biên) – NXB
Văn hóa thơng tin 1999.
2. Cơ sở lý luận báo chí truyền thơng – Dương Xn Sơn; Đinh Văn
Hường; Trần Quang.
3. Truyền thông – Lý thuyết và kỹ năng cơ bản –PGS. TS Nguyễn Văn
Dững - NXB Lý luận Chính trị 2006.
4. Báo chí truyền thơng hiện đại (từ hàn lâm đến đời thường) –
PGS.TS Nguyễn VĂn Dững – NXB ĐH QG Hà Nội 2011.
5. Tạp chí Người Làm báo – Số 27, tháng 8/2010.
20