Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Không gian văn hóa công chiêng tây nguyên kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (679.79 KB, 18 trang )

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, cũng giống như nhiều quốc gia khác trên thê
giới, Việt Nam coi du lịch là một ngành kinh tê mũi nhọn của nền kinh tê
quốc dân, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước. Tuy nhiên, để du
lịch phát triển mạnh hơn nữa, cần phải tìm hiểu thêm tiềm năng để phát triển
đất nước. Một trong những tiềm năng quan trọng cho sự phát triển du lịch tại
Việt Nam chính là hệ thống các di sản của Việt Nam đã được thê giới công
nhận. Nằm trong số đó phải nhắc đên “Không gian văn hóa công chiêng Tây
Nguyên- kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại”
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài: “Quảng bá hình ảnh Việt Nam thông qua việc tìm hiểu“Không
gian văn hóa công chiêng Tây Nguyên” có mục đích là nghiên cứu về nguồn
gốc lịch sử hình thành, đặc điểm của cồng chiêng Tây Nguyên để qua đó giới
thiệu với bạn bè thê giới; đồng thời có định hướng bảo tồn phát triển di sản
văn hóa phi vật thể cồng chiêng Tây Nguyên nhằm khơi dậy những giá trị văn
hóa nghệ thuật của dân tộc góp phàn giữ gìn bản sắc văn hóa của người Tây
Nguyên nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung, nâng cao ý thức và lòng tự
hào đối với di sản quý báu này
3. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kêt luận và danh mục tài liệu tham khảo, bài tiểu
luận gồm 4 chương 2 tiêt
Chương 1:Giới thiệu nguồn gốc cồng chiêng Tây nguyên
Chương 2: Đi sâu tìm hiểu về không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
2.1: Lễ hội cồng chiêng Tây Nguyên
2.2: Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
2.3: Giá trị
Chương 3: Thực trạng và giải pháp để bảo tồn và phát triển


3.1: Thực trạng
3.2: Giải pháp
Chương 4: Kêt luận
2


CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU LỊCH SỬ NGUỒN GỐC
CỦA CỒNG CHIÊNG TÂY NGUYÊN
- Nghiên cứu cồng chiêng từ năm 1978, nhạc sĩ Tô Vũ đã phát hiện ra
nhiều điều thú vị: Cồng chiêng Tây Nguyên có nguồn gốc từ truyền thống văn
hóa và lịch sử rất lâu đời.Về cội nguồn cồng chiêng là "hậu duệ"của đàn đá.
Trước khi có văn hóa đồng, người xưa đã tìm đên loại khí cụ đá:cồng đá,
chiêng đá tre, rồi tới thời đại đồ đồng, mới có chiêng đồng. Từ thuở sơ khai,
cồng chiêng được đánh lên để mừng lúa mới, xuống đồng; biểu hiện của tín
ngưỡng - là phương tiện giao tiêp với siêu nhiên âm thanh khi ngân nga sâu
lắng, khi thôi thúc trầm hùng, hòa quyện với tiêng suối, tiêng gió và với tiêng
lòng người, sống mãi cùng với đất trời và con người Tây Nguyên.
- Lại có ý kiên khác cho rằng: Văn hóa cồng chiêng được bắt nguồn từ
văn minh Đông Sơn cổ đại, nền văn minh được biêt đên với tư cách là một
nền văn hóa trống đồng nổi tiêng ở Đông Nam Á. Nghệ thuật cồng chiêng của
Việt Nam đã phát triển đên một trình độ cao so với các nước trong khu vực
Đông Nam Á.

3


CHƯƠNG 2: ĐI SÂU VÀO TÌM HIỂU KHÔNG GIAN
VĂN HÓA TÂY NGUYÊN
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trải rộng suốt 5 tỉnh Kon
Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông và Lâm Đồng. Chủ nhân của di sản văn

hóa quý giá và đặc sắc này là 17 dân tộc thiểu số thuộc nhóm ngôn ngữ Nam
Á (Austro-Asian) và Nam đảo (Austronesian) sống trên khu vực cao nguyên
trung bộ của Việt Nam
2.1: Lễ hội cồng chiêng Tây Nguyên
Lễ hội được tổ chức nhằm quảng bá hình ảnh “Không gian văn hóa
cồng chiêng Tây Nguyên” đã được UNESCO công nhận là di sản truyền khẩu
và phi vật thể nhân loại. Đó không những là một sự kiện quan trọng của người
dân tây nguyên mà còn cả với đất nước Việt Nam

Một số hình ảnh minh họa về lễ hội cồng chiêng Tây Nguyên

4


.
Một số hình ảnh minh họa về lễ hội cồng chiêng Tây Nguyên

"Một cảm giác hoành tráng, thiêng liêng sẽ trỗi dậy trong ta khi nghe dàn cồng
chiêng Gia Rai và Bahnar trình diễn" (GS Tô Ngọc Thanh). Đó chính là cảm giác

mà nhiều người đã trải nghiệm qua phần trình diễn của 40 nghệ nhân Bahnar
với dàn cồng chiêng tái hiện lễ Đâm trâu, Mừng nhà rông, Mừng lúa mới,
Mừng đám cưới, Mừng được mùa, Bỏ mả... Cồng chiêng Tây nguyên là nơi
tiêt tấu và giai điệu gặp nhau. Mỗi nhạc công chơi một nốt và một mô hình
tiêt tấu, kêt hợp lại thành bè, thành giai điệu.
Ngay khi đứa trẻ vừa ra đời, người ta đã đem cồng đên đánh bên tai nó,
gọi là lễ thổi tai. Chiêng cồng luôn có mặt trong các lễ cúng từ khi con người
còn là thai nhi trong bụng mẹ cho tới khi vĩnh biệt cuộc đời, chưa kể trong vô
số nghi lễ nông nghiệp ở Tây nguyên, kéo dài từ tháng ba đên tháng mười hai.
Bên cạnh âm nhạc thì nét đẹp văn hóa này còn được thể hiện rõ ràng và

phong phú trong các tác phẩm sử thi, truyền thuyêt, thơ ca... của người Tây
Nguyên.Cụ thể trong “Sử thi Đam San” có đoạn viêt: " Hãy đánh những cái
chiêng kêu thanh nhất, những chiêng kêu trầm nhất. Đánh nhè nhẹ cho gió đưa xuống đất.
5


Đánh cho tiêng chiêng vang xa khắp xứ! Đánh cho tiêng chiêng luồn qua sàn lan đi xa.
Đánh cho tiêng chiêng vượt qua mái nhà vọng l trời. Đánh cho khỉ trên cây cũng quên bám
chặt vào cành đên phải ngã xuống đất! Đánh cho ma quỷ mê mải nghe đên quên làm hại
con người. Đánh cho chuột sóc quên đào hang, cho rắn nằm ngay đơ, cho thỏ phải giật
mình, cho hươu nai đứng nghe quên ăn cỏ, cho tất cả chỉ còn lắng nghe tiêng chiêng của
Đam San”.

2.2: Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên chứa đựng những giá
trị nổi bật ngang tầm kiệt tác sáng tạo của nhân loại
-Cồng chiêng là một nhạc cụ nghi lễ, các bài nhạc cồng chiêng trước hêt
là sự đáp ứng cho yêu cầu của mỗi lễ thức và được coi như một thành tố hữu
cơ của lễ thức đó. Như thê, mỗi nghi lễ có ít nhất một bài nhạc chiêng riêng.
Trong mỗi nghi lễ, lại có thể có nhiều công đoạn có nhạc chiêng riêng: Người
ngành Aráp dân tộc Giarai ở vùng Ea H’Leo tỉnh Đắc Lắc có các bài nhạc
chiêng cho các lễ đâm trâu, khóc người chêt trong tang lễ, mừng nhà rông
mới, mừng chiên thắng, lễ xuống giống, lễ cầu an cho lúa, mùa gặt… Ngoài
ra, còn có những bài chiêng dùng cho các sinh hoạt cộng đồng như: Lễ thổi tai
cho trẻ sơ sinh, mừng nhà mới, chúc sức khoẻ…

- Các bài chiêng cũng đạt đên một trình độ biểu cảm âm nhạc phù hợp
với trạng thái tình cảm của con người trong mỗi nghi lễ: Chiêng tang lễ hay
bỏ mả thì chậm rãi, man mác buồn; chiêng mùa gặt thì thánh thót, vui tươi;
chiêng đâm trâu thì nhịp điệu giục giã…


6


- Có thể nói, văn hoá và âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên thể hiện tài
năng sáng tạo mang tầm kiệt tác của nhân loại. Cồng chiêng và sinh hoạt văn
hoá cồng chiêng của các dân tộc ở Tây Nguyên rất đa dạng, nhưng thống
nhất. Đây chính là đặc điểm rất cơ bản của vùng văn hoá Tây Nguyên và cũng
là đặc điểm của văn hoá Việt Nam.
- Cồng chiêng không do cư dân Tây Nguyên tự đúc ra mà xuất phát từ
một sản phẩm hàng hoá được nghệ nhân chỉnh sửa thành một nhạc cụ.
Phương pháp chỉnh sửa chiêng cộng với tai âm nhạc nhạy cảm của nghệ nhân
sửa chiêng đã thể hiện trình độ thẩm âm tinh tê và hiểu biêt cặn kẽ về chê độ
rung và lan truyền âm thanh trên mặt chiêng và trong không gian. Có hai
phương pháp chỉnh sửa mà người nghệ nhân ở Tây Nguyên sử dụng: Gõ, gò
theo hình vảy tê tê và theo hình lượn sóng. Do vậy, kỹ thuật gõ, gò theo
đường tròn trên những điểm khác nhau quanh tâm điểm của từng chiêc chiêng
là một phát hiện vật lý đúng đắn, khoa học. Đây là sáng tạo lớn của cư dân
các dân tộc ít người Tây Nguyên.
Để đáp ứng các yêu cầu thể hiện bằng âm nhạc khác nhau, các tộc
người Tây Nguyên đã lựa chọn nhiều biên chê dàn cồng chiêng khác nhau:
- Dàn chiêng có 2 hay 3 chiêc: Biên chê này tuy nhỏ nhưng theo quan
niệm của nhiều tộc người Tây Nguyên, đây là biên chê cổ xưa nhất. Dàn 2
chiêng bằng gọi là chiêng Tha, của người Brâu; dàn 3 cồng núm của người
Churu, Bana, Giarai, Gié-Triêng… cũng thuộc loại này.
- Dàn chiêng có 6 chiêng phổ biên ở nhiều tộc người: Dàn 6 chiêng
bằng của người Mạ; dàn Stang của người Xơđăng; dàn chiêng của các nhóm
Gar, Noong, Prơng thuộc dân tộc Mnông; dàn chiêng Diek của nhóm Kpạ
người Êđê. Cũng có dàn gồm 6 cồng núm như nhóm Bih thuộc dân tộc Êđê.
Dàn chiêng 6 chiêc có thể đảm trách nhịp điệu như dàn cồng núm của nhóm

Bih thuộc dân tộc Êđê, dàn Diek của nhóm Kpạ dân tộc Êđê, dàn chiêng của
nhóm Noong dân tộc Mnông.
- Dàn chiêng 11 hoặc 12 chiêc gồm 3 cồng núm và 8-9 chiêc chiêng
bằng của các tộc người Giarai (ngành Aráp), Bana (ngành TồLồ, Kon K’Đeh),
người Xơđăng (ngành Steng).
7


Các dàn chiêng có biên chê 3 chiêng trở lên thường có chiêc trống lớn
và cặp chũm choẹ. Riêng dàn 3 cồng núm của người Churu thì phải có chiêc
khèn 6 âm phối hợp.
Hầu hêt các nghệ nhân đánh cồng chiêng ở Tây Nguyên là nam giới, kể
cả hai tộc người Êđê, Giarai đang duy trì chê độ mẫu hệ hoặc người Bana,
Xơđăng đang duy trì cả chê độ mẫu hệ lẫn chê độ phụ hệ. Riêng ở ngành Bih
tộc người Êđê, chỉ nữ giới mới được đánh cồng, ở người Mạ thì cả hai giới
đều được đánh chiêng nhưng thường chia làm 2 dàn: Dàn chiêng nam, dàn
chiêng nữ. Ngày nay, đã có dàn chiêng hỗn hợp các nghệ nhân cả nam lẫn nữ.
Việc nữ giới đánh chiêng cho thấy vị trí xã hội và vai trò quan trọng của họ
trong tâm thức các tộc người này.
-Ngoài ra, ở nhiều tộc người như Churu, Xơđăng, Mnông và đặc biệt tộc
người Giarai, Bana, phụ nữ (nhất là các cô gái trẻ) làm thành một dàn múa đồng
hành với bản nhạc chiêng. Điều đáng nói là các điệu múa này được coi là thành
tố không thể thiêu của việc diễn tấu các bài cồng chiêng (không được dùng bên
ngoài diễn tấu cồng chiêng hoặc trình diễn giải trí). Nói cách khác, sinh hoạt văn
hoá cồng chiêng của các dân tộc ở Tây Nguyên là sinh hoạt cộng đồng, cuốn hút
tất cả các thành viên tham gia. Đây là bằng chứng chứng tỏ lịch sử lâu đời của
cồng chiêng và sinh hoạt văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên.
2.3: Giá trị của không gian văn hóa này
- Giá trị biểu thị đặc trưng và bản sắc văn hóa vùng: Ngày nay, cồng
chiêng có mặt ở nhiều nước trên thê giới, nhất là tại châu Á. Trong đó, dạng

cồng chiêng được tổ chức thành dàn để biểu diễn độc lập hoặc kêt hợp với các
nhạc cụ khác thì chủ yêu thấy ở các nước Đông Nam Á. Tuy các dàn cồng
chiêng Tây Nguyên có nhiều điểm tương đồng với cồng chiêng Đông Nam Á
nhưng vẫn có những nét khác biệt, mang tính đặc thù chỉ có ở không gian văn
hóa Tây Nguyên.
- Giá trị cố kêt cộng đồng:Cồng chiêng là phương tiện để nối kêt cộng
đồng các tộc người Tây Nguyên trong không gian văn hóa Tây Nguyên. Các
8


tín ngưỡng, lễ hội, nghệ thuật tạo hình, múa dân gian và ẩm thực dân gian...
đều thể hiện, gắn bó mật thiêt với cồng chiêng. Tây Nguyên có nhiều tộc
người, các tộc người luôn hòa hợp lẫn nhau trong văn hóa cồng chiêng mà
vẫn giữ được bản sắc văn hóa của tộc người mình, không có hiện tượng loại
trừ hay đồng hóa văn hóa của nhau trong sinh hoạt văn hóa cồng chiêng.
Tiêng cồng chiêng luôn đem đên một cảm xúc rạo rực trong mỗi con người
Tây Nguyên.
- Giá trị nghệ thuật đặc thù: Cộng đồng các tộc người bản địa Tây
Nguyên đã đạt đên những hiểu biêt sâu và có các kỹ thuật điêu luyện trong
việc sáng tạo cồng chiêng và sử dụng cồng chiêng rất riêng không nhầm lẫn
với văn hóa khác. Dù có nhiều tranh luận, nhưng chúng tôi vẫn thiên về người
bản địa Tây Nguyên đã sáng tạo ra cồng chiêng. Bởi, nêu có mang loại nhạc
cụ bằng đồng này từ nơi khác về, họ đều chỉnh hình, chỉnh âm cồng chiêng lại
cho thật phù hợp với “thị hiêu” âm nhạc của tộc người mình

.
Âm vang lễ hội cồng chiêng

- Giá trị lịch sử: Văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên nảy sinh từ truyền
thống văn hóa và truyền thống lịch sử của cư dân bản địa có liên quan cơ tầng

văn hóa Đông Nam Á từ thời tiền sử, đã hình thành và phát triển trên đất nước
Việt Nam ngày nay các trung tâm văn hóa Đông Sơn ở miền Bắc. Văn hóa Sa
Huỳnh ở miền Trung và văn hóa Đồng Nai ở Nam Bộ, sau này phát hiện thêm
Lung Leng ở Tây Nguyên. Trong giai đoạn này, việc đúc đồng đặc biệt phát
triển, sáng tạo nên những công cụ lao động, vũ khí, đồ trang sức, đặc biệt là
9


các loại nhạc cụ bằng đồng rất độc đáo mà ngày nay chúng ta biêt đên như
trống đồng Đông Sơn, cây đèn Lạch Trường. Kêt quả khảo cổ di chỉ Lung
Leng (Kon Tum) cũng như ở các khai quật khác tại Tây Nguyên phát hiện
nhiều hiện vật đồ đồng, đồ sắt, nhất là khuôn đúc rìu đồng

10


CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ BẢO TỒN VÀ
PHÁT TRIỂN DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ NÀY
3.1: Thực trạng
Văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên đang đứng trước nguy cơ của sự
mai một
Trước hêt là sự suy giảm nhanh chóng về số lượng các dàn cồng chiêng.
Theo thống kê của Sở Văn hoá Thông tin Gia Lai, trước năm 1980Bana trong
tỉnh có hàng chục ngàn bộ cồng chiêng. Có gia đình sở hữu 2-3 bộ, mỗi p’lei
có hàng chục bộ. Đên năm 1999, cả tỉnh có 900 p’lei và chỉ còn 5.117 bộ,
năm 2002 còn lại chưa đên 3.000 bộ. Tỉnh Lâm Đồng chỉ còn lại 3.113 bộ. Từ
năm 1982 đên 1992, tỉnh Đắc Lắc đã mất 5.325 bộ chiêng, từ năm 1993 đên
2003 lại mất tiêp 850 bộ, hiện tại cả tỉnh chỉ còn 3.825 bộ cồng chiêng.

Nguy cơ mai một cồng chiêng còn thể hiện ở các bài bản nhạc chiêng

dần dần bị lãng quên. Các nghệ nhân trải qua thời gian, do nhiều tác động
khác nhau đã quên nhiều bản nhạc chiêng. Người Mnông trước đây có 40
bản nhạc chiêng, nay các nghệ nhân chỉ còn nhớ, lưu truyền và trình diễn
được 10 bản nhạc chiêng. Mặt khác, những nghệ nhân có đôi tai thẩm âm, có
năng khiêu trong việc chỉnh chiêng cũng thưa vắng dần trong các cộng đồng
cư dân.
11


Trở thành kiệt tác truyển khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại,
Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên đặt ra những vấn đề cấp thiêt
trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị của nó.
3.2: Giải pháp khắc phục
Không giống như một số di sản phi vật thể khác, Cồng chiêng Tây
Nguyên được công nhận do sự kêt hợp của không gian và nghệ thuật. Tuy
nhiên sự biên đổi của Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên đã và
đang là nỗi lo của các nhà quản lý. Kể từ khi Unesco công nhận Không gian
văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của
nhân loại đên nay đã gần 10 năm. Trong suốt thời gian đó, các cơ quan quản
lý, các tổ chức trong và ngoài nước cũng như các địa phương có di sản đã
không ngừng nỗ lực tổ chức những hoạt đồng nhằm chấn hưng, bảo tồn và
phát huy giá trị của di sản.
Thực tê công tác bảo tồn, gìn giữ và phát huy giá trị của Cồng chiêng
Tây Nguyên đã đạt được một số thành tựu đáng kể. Cụ thể như tại một số tỉnh
như Đăk Lăk, Lâm Đồng…đã đào tạo được nghệ sĩ dân gian thê hệ tiêp nối.
Mặc dù còn trẻ tuổi nhưng những đội cồng chiêng tại các tỉnh đã được đào tạo
bài bản và có khả năng trình diễn thành thục. Điều này đã thể hiện rất rõ nét
tại các hội thi, liên hoan trong khu vực cộng đồng đồng bào các dân tộc Tây
Nguyên. Ví như tại buôn Ea Bông, xã Cư Êbur, TP.Buôn Ma Thuột (Đăk
Lăk) có một đội chiêng nhỏ tuổi nhưng đã thành thục những “ngón” chiêng

của người Ê Đê. Nghệ nhân Y Thim Byă - người đào tạo đội chiêng ấy tự hào
nói: “Chúng mang chiêng đi đánh trong các cuộc liên hoan, hội thi, hay đơn
giản là phục vụ khách du lịch, bao giờ cũng nhận được sự tán thưởng của mọi
người. Tại buôn Trấp, huyện Krông Ana (Đăk Lăk) cũng có một đội chiêng
được nhiều người biêt đên. Đó là đội chiêng nữ (chiêng Jhô) với những cô gái
Ê Đê xinh đẹp ở lứa trăng tròn. Họ đang ngày đêm luyện tập, để giữ gìn nhịp
chiêng Jhô rất độc đáo của dân tộc mình. H’Diêu - thành viên trong đội
chiêng Jhô này tâm sự: “Hiện tất cả mọi người đều có thể đảm đương được
12


mọi vị trí khác nhau trong đội. Nhưng chúng em vẫn không ngừng tập luyện,
để tiêng chiêng “thấm” sâu vào mỗi người mà hiểu hơn điều kỳ diệu của
nó”…

Nhưng đáng tiêc nhất là khi những người già, những nghệ nhân Tây
Nguyên chêt đi đã mang theo cả kho tàng di sản văn hoá cồng chiêng mà
không dễ dàng tạo dựng và khôi phục được. Sự đứt gãy dòng chảy của văn
hoá truyền thống dẫn đên sự thờ ơ, hờ hững của lớp trẻ với văn hoá của các
thê hệ tiền nhân, trong đó có văn hoá âm nhạc cồng chiêng.
Khác với Nhã nhạc cung đình Huê, là một hiện tượng văn hóa, để bảo
tồn chúng ta chỉ cần đầu tư cho công tác nghiên cứu và phát triển nghệ nhân
biểu diễn, cồng chiêng không chỉ là nghệ thuật biểu diễn đơn thuần, mà gắn
bó chặt chẽ với nghi lễ, với đời sống hằng ngày, với chính không gian của

13


vùng đất ấy. Vì vậy, cần có một chương trình tổng thể, quy mô cho công việc
này.

Đối với văn hóa nhận thức: Một khi những chủ thể của di sản văn hóa
cồng chiêng muốn bảo tồn và có ý thức bảo tồn những giá trị văn hóa cồng
chiêng thì đây là cách bảo tồn nhanh nhất và hiệu quả nhất. Theo đó, để đồng
bào nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo tồn các giá trị văn hóa cồng
chiêng thì công tác bảo tồn phải gắn lợi ích kinh tê và lợi ích xã hội của đồng
bào với hoạt động du lịch. Điều này có nghĩa là công tác bảo tồn di sản văn
hóa cồng chiêng phải đảm bảo sao cho đồng bào bản địa Tây Nguyên nhận
thức được rằng một khi di sản văn hóa cồng chiêng được bảo tồn tốt thì sẽ thu
hút được khách du lịch và nhờ đó đời sống kinh tê của đồng bào cũng được
nâng lên thông qua các dịch vụ du lịch.
Đối với văn hóa tổ chức: Ngành du lịch cần quan tâm hơn nữa việc đa
dạng hóa sản phẩm và dịch vụ đối với các chương trình du lịch Tây Nguyên.
Cần tạo ra các loại hình du lịch thích hợp, đáp ứng nhu cầu của nhiều đối
tượng du khách như du lịch tín ngưỡng, du lịch văn hóa, du lịch khám phá, du
lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch “homestay”... Bên cạnh đó cũng cần
xây dựng những chương trình du lịch tổng hợp có sự liên kêt giữa những
vùng văn hóa, điểm văn hóa với các điểm tham quan cảnh quan thiên nhiên
trong vùng. Tổ chức các hoạt động tham quan, tìm hiểu gắn với việc giới
thiệu công cụ sản xuất, đồ gia dụng, hàng thủ công mỹ nghệ của đồng bào các
tộc người Tây Nguyên… nhằm khai thác triệt để các tài nguyên du lịch tự
nhiên và du lịch nhân văn trong không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.
Ngành du lịch cần công khai quy hoạch và liên kêt với các địa phương để đưa
cồng chiêng Tây Nguyên vào trong các chương trình, các tour du lịch.
Đối với văn hóa ứng xử: cần đặt văn hóa cồng chiêng ứng với nêp nghĩ,
nêp sống của người bản địa Tây Nguyên. Phục hồi và giữ gìn các sinh hoạt
văn hóa, các lễ hội gắn với vòng đời con người và vòng đời cây trồng ở các
cộng đồng bản địa Tây Nguyên để tạo môi trường diễn xướng cho cồng
chiêng và sinh hoạt văn hóa cồng chiêng. Chú trọng đên việc phát triển và
14



hoàn thiện các thiêt chê văn hóa ở buôn, làng. Khuyên khích và truyền dạy
cho lớp trẻ di sản văn hóa cồng chiêng quý báu của dân tộc. Thúc đẩy sinh
hoạt văn hóa cộng đồng, duy trì các lễ hội truyền thống tốt đẹp như: mừng lúa
mới, cúng bên nước, bỏ mả, mừng sức khỏe và cầu mưa. Đẩy mạnh hoạt động
giao lưu văn hóa giữa các dân tộc. Thực hiện tốt những hoạt động nêu trên là
môi trường thuận lợi để văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên có điều kiện phục
hồi và phát triển. Cũng như tạo nên không gian văn hóa truyền thống đặc
trưng, đầy sức hấp dẫn đối với khách du lịch Tây Nguyên.

15


KẾT LUẬN
Tóm lại,qua việc tìm hiểu về “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên” ta thấy thê hệ hôm nay tràn đầy niềm tự hào.
Đối với hầu hêt các tộc người vùng Tây Nguyên, cồng chiêng là nhạc
cụ mang sức mạnh thiêng, tiêng nói tâm linh, tinh thần, diễn tả những niềm
vui, nỗi buồn trong cuộc sống. Họ coi mỗi chiêc cồng chiêng ẩn chứa một vị
thần, cồng chiêng càng cổ thì vị thần càng quyền lực. Vì thê, cồng chiêng
cũng là phương tiện tín ngưỡng dùng để giao tiêp với các đấng siêu nhiên, là
thứ tài sản quý giá, biểu tượng của quyền lực và sự giàu có.
Văn hóa cồng chiêng là hình thức sinh hoạt cộng đồng có từ lâu đời,
gắn bó mật thiêt với cuộc sống của cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên.
Không gian văn hóa cồng chiêng trải rộng suốt 5 tỉnh Tây Nguyên (Kon Tum,
Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng) và chủ nhân của nó là các dân
tộc Bana, Xê-đăng, M nông, Cơho, Ê đê, J’rai… Mỗi buôn làng có một đội
cồng chiêng riêng phục vụ đồng bào trong những dịp sinh hoạt cộng đồng, lễ
hội. Mỗi dân tộc lại sáng tạo ra những bản nhạc cồng chiêng khác nhau, mang
đặc trưng của dân tộc mình.

Công chiêng có mặt trong hầu hêt các sinh hoạt văn hóa, lễ hội của
người Tây Nguyên. Cồng chiêng được đánh lên để mừng những ngày hội mùa
màng như lễ mừng cơm mới, lễ đâm trâu… đên những lễ ma chay, cưới hỏi,
thổi tai cho trẻ sơ sinh… Vào những ngày lễ têt, ngày hội, già trẻ gái trai quây
quần bên đống lửa, vừa đánh cồng, gõ chiêng, vừa cùng nhau nhảy múa, uống
rượu cần… Trong tiêng cồng chiêng vang vọng núi rừng, Tây Nguyên như
được bao trùm trong một không gian văn hóa lãng mạn và huyền ảo; nghe
cồng chiêng như thấy được cả không gian săn bắn, không gian làm rẫy, không
gian lễ hội... của Tây Nguyên. Chính điều này đã tạo nên và khẳng định giá trị

16


nét sinh hoạt văn hóa dân gian nổi bật nhất, đặc trưng nhất nhưng cũng đầy
sức quyên rũ của vùng đất sử thi hùng tráng này.

Có thể khẳng định, văn hóa và âm nhạc cồng chiêng thể hiện tài năng
sáng tạo văn hóa - nghệ thuật ở đỉnh cao của các dân tộc Tây Nguyên. Và vì
thê, tại phiên họp của UNESCO ngày 25/11/2005, Không gian văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên của Việt Nam đã được vinh danh. Đây là di sản thứ hai
của Việt Nam (sau Nhã nhạc - Âm nhạc cung đình Việt Nam) được
UNESCO công nhận là "Kiệt tác truyền khẩu và Di sản văn hoá phi vật thể
của nhân loại".

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Khắc Sử, Phan Thanh Toàn. 2009.:” Cơ tầng văn
minh đầu tiên của văn hóa cồng chiêng. Pleiku: Hội thảo Khoa học.”

2. Nhiều tác giả, 2006, “Các nhạc cụ gõ bằng đồng những giá trị văn
hóa. Hà Nội: Văn hóa Dân tộc”.
3. Viện Văn hóa - Thông tin. 2006:” Những giá trị cơ bản của không
gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên”.
4.Cục Di sản Văn hóa: “Một con đường tiếp cận di sản văn hóa, tập 3”

18



×