Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tiểu luận cao học “không dùng điện thoại khi đang lái xe” làm đề tài cho TVC quảng cáo 30s

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.08 KB, 23 trang )

CHƯƠNG I : ĐẶT VẤN ĐỀ
1.

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hiện nay, tình trạng tai nạn giao thơng diễn ra ngày một nghiêm
trọng với chiều hướng tăng dần khiến nhiều gia đình đã phải chịu đựng
nỗi đau mất đi người thân. Bằng nhiều nguyên nhân khách quan hay chủ
quan, phần lớn đều do người điều khiển giao thông xao nhãng và mất tập
trung khi đang lái xe trên đường. Một trong những nguyên nhân làm
người điểu khiển mất tập trung và gây ra nhiều tai nạn giao thông là việc
họ sử dụng điện thoại di động dù biết điều này là khơng được phép. Vì
vậy, nhóm tơi đã quyết định lấy thông điệp “Không dùng điện thoại khi
đang lái xe” làm đề tài cho TVC quảng cáo 30s.

2.

MỤC ĐÍCH ĐỀ TÀI
Với TVC quảng cáo mang tính phi thương mại này, nhóm tôi muốn
truyền tải một thông điệp ngắn gọn, rõ ràng nhưng súc tích đến với
người dân :” Người tiếp theo có thể là bạn, khơng dùng điện thoại khi
đang lái xe”. TVC chúng tôi hướng tới các bạn trẻ thường hay chủ quan,
nghĩ bản thân có thể ứng biến nhanh nên sử dụng điện thoại khi đang lái
xe dù trên đường rất đơng người đi lại. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng
muốn nhắn nhủ tới những người thân của họ: Không nên gọi điện hay
nhắn tin khiến người điều khiển giao thông bị mất tập trung và xao
nhãng rất dễ gây nguy hiểm. Đó là lý do chúng tơi lựa chọn đề tài mang
tính phi thương mại. Bên cạnh đó, việc sử dụng hình ảnh là cặp đơi trẻ
cịn thể hiện đối tượng công chúng hướng tới.

1



CHƯƠNG II : CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.

QUẢNG CÁO PHI THƯƠNG MẠI:
Quảng cáo phi thương mại thường được thực hiện bởi một tổ chức từ
thiện hoặc một nhóm cơng dân hoặc tổ chức tơn giáo hay chính trị. Một
số quảng cáo phi thương mại được tạo ra với mục đích huy động vốn.
Bên cạnh đó, nhiều quảng cáo phi thương mại lại muốn thay đổi hành vi
của người tiêu dùng. Một số mục tiêu chính của quảng cáo phi thương
mại là: Kích thích nhu cầu tìm kiếm thơng tin, phổ biến các vấn đề thực
tại của xã hội, thay đổi thói quen của cơng chúng, giảm sự lãng phí
nguồn lực, thể hiện các quan điểm chính trị, cải thiện thái độ của công
chúng và nhắc nhở mọi người về một vấn đề nào đó.
Thơng thường quảng cáo phi thương mại thường được xem như là một
nguồn thông tin khách quan.
 TVC quảng cáo lựa chọn hình thức phi thương mại với mục đích
nhắc nhở mọi người khi tham gia giao thơng không nên sử dụng
điện thoại.

2.

THỂ LOẠI TƯỜNG THUẬT VÀ CHUYỆN ĐỜI THƯỜNG
TRONG QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH
2.1 Thể loại tường thuật trong quảng cáo qua phương tiện phát thanh
– truyền hình:
Giống như một bộ phim đầy đủ tình tiết, loại quảng cáo này có
một cốt truyện rõ ràng. Thơng thường , câu chuyện dẫn dắt tới
một vấn đề, rồi trình bày cách sử dụng một sản phẩm đặc biệt nào
đó để giải quyết vấn đề. Thông thường việc thêm vào một chút

2.2

cường điệu, một chút hài hước sẽ làm cho truyện phim thú vị.
Thể loại chuyện thường ngày:
Những người làm quảng cáo thuộc thế hệ xưa gọi nó là quảng cáo
thương mại “của mấy bà trong bếp”. Về phương diện lý thuyết,
loại quảng cáo này làm người xem tin tưởng hơn. Nó khơng có
các nhân vật anh hùng như loại quảng cáo truyền thống, trái lại,
2


nó miêu tả những con người rất bình thường – những người có thể
sống ngay cạnh nhà của người xem.
Trong khi quảng cáo thương mại mang tính kỹ thuật, sự chủ yếu
dựa vào những kỹ thuật hư cấu, thì thể loại quảng cáo nói về
những câu chuyện đời thường tạo nên ấn tượng, đó là một câu
chuyện tả chân thực chứ không phải hư cấu. Nhiều ý kiến cho
rằng người xem sẽ có phản ứng tích cực đối với loại quảng cáo
này.
Những chương trình quảng cáo thuộc thể loại chuyện thường,
ngày thường cho chiếu cảnh một người bình thường, đang phải
đối mặt với một số vấn đề đời thường như: hơi miệng, bị sâu răng,
táo bón, quần áo khơng được giặt sạch – và sẽ được một người
bình thường khác cố vấn bằng cách giới thiệu một sản phẩm kỳ
diệu nào đó.
Trong những chương trình quảng cáo thuộc thể loại chuyện
thường ngày, người ta cho đặt bảng hướng dẫn lời nói trước mặt
người diễn hoặc ra hiệu. Một cách được ưa thích khác là người
diễn trong các quảng cáo đó ca hát một cách lạc điệu. Rõ ràng là
các công ty quảng cáo cảm thấy chúng ta có thể lắng nghe lời hát

“có lúc tơi thích hạt dẻ, có lúc tơi chẳng thích” trong bữa cơm của
mình.
Gắn với thể loại chuyện đời thường là những quảng cáo sử dụng “
Nhân vật kể chuyện” mô tả về một nhân vật được cho rằng sẽ làm
người xem tin tưởng. Nhân vật này dường như dành hết cả ngày
để ca ngợi về một sản phẩm nào đó: Một loại giấy vệ sinh mềm
mại, một loại cà phê thơm ngon đặc biệt nào đó giúp giảm căng


thẳng,..
TVC quảng cáo về an tồn giao thơng với sự kết hợp của hai thể loại
này sẽ là con đường ngắn nhất để đến với công chúng. Thể loại tường
thuật đem đến cho người xem cốt truyện rõ ràng: Một chàng trai do
3


mải nhắn tin và gọi điện cho người yêu nên đã mất tập trung, trong
phút bất cẩn anh đã gặp phải tai nạn đáng tiếc. Thể loại chuyện đời
thường được thể hiện ở việc nhắn tin, gọi điện với những lời lẽ có
cánh rất phổ biến hiện nay sẽ khiến cơng chúng cảm nhận tính chất
thực tế và gần gũi của TVC.
3.

SỰ TÁC ĐỘNG CỦA YẾU TỐ CẢM XÚC TRONG QUẢNG CÁO
TRUYỀN HÌNH:
Cảm xúc là yếu tố đóng vai trị rất lớn trong việc thúc đẩy mạnh mẽ các
quyết định của con người. Do vậy khơng có gì ngạc nhiên khi các quảng
các quảng cáo thường xuyên sử dụng các yếu tố cảm xúc để nhằm đạt
được mục đích marketing của mình. Một trong năm yếu tố cảm xúc
thường được các nhà quảng cáo sử dụng đó là sự sợ hãi.Sợ hãi là yếu tố

tác động mạnh mẽ nhất, bản năng nhất khiến cho con người phải hành
động ngay lập tức. Có rất nhiều mẩu quảng cáo đã sử dụng mô tuýp gây
cảm giác sợ hãi như:
- Nước tương không chứa 3-MCPD của Chin-Su -> Nếu dùng loại khác
thì dễ bị ung thư
- Sữa Anlene chống loãng xương, bảo vệ xương chắc khoẻ -> không
dùng dễ bị đau cột sống, thối hóa
- Kem đánh răng Colgate bảo vệ suốt 12 giờ -> Nếu khơng dùng thì bị
sâu răng
- ...
Khi sợ hãi, người ta sẽ như bị rơi vào trạng thái thôi miên và ám thị
mong muốn được dùng ngay sản phẩm/dịch vụ đó để được an tồn.
 TVC muốn truyền tải thơng điệp về an tồn giao thơng cần sử dụng
yếu tố sợ hãi để có thể giúp người xem thấy được những hậu quả
đáng tiếc có thể xảy ra nếu cứ tiếp tục sử dụng điện thoại khi đang lái
xe. Thay vì đưa ra một lời nhắc nhở nhẹ nhàng và đơn thuần thì việc
sử dụng yếu tố sợ hãi bằng hình ảnh chàng trai bị tai nạn với tiếng
gọi của cơ gái sẽ có tác động mạnh hơn với người xem.

4


5


CHƯƠNG III : NỘI DUNG TVC QUẢNG CÁO
1.

KỊCH BẢN
1.1 Kịch bản phân cảnh :


Phân

Thời lượng

cảnh
1

(s)
3

Nội dung

Nhạc

Mơ tả

Cỡ

Ghi
chú

Chàng trai

Nhạc vui

cảnh
Tồn

đi trên


vẻ, yêu đời

cảnh

3

nhắn tin
Bánh xe

Nhạc vui

Cận

3

lăn rất đều
Chàng trai

vẻ, yêu đời
Nhạc vui

cảnh
Cận

nhắn tin

vẻ, u đời

cảnh


gì đấy ?”
Cơ gái

Nhạc vui

Đặc tả

nhận được

vẻ, yêu đời

tay

đường,
vừa đi vừa
2
3

nội dung :
“ Em yêu
đang làm
4

3

tin nhắn

của cơ


trả lời lại :

gái

“ Em đang

bấm

đợi anh

bàn

này <3”

phím
điện

5

3

Chàng trai

Nhạc vui

thoại
Cận

trả lời tin


vẻ, yêu đời

cảnh

nhắn :
6


“ Anh qua
chỗ em
ngay đây “
Mặt hớn
6

3

hở
Cô gái

Nhạc vui

Trung

đang trải

vẻ, yêu đời

cảnh

cái coi “

Chàng trai

Nhạc vui

Cận

mở điện

vẻ, yêu đời

cảnh

tóc, quay
lưng lại
màn hình.
Cơ gái
đang ở
trước bàn
trang điểm
để chuẩn
bị đi chơi.
Cơ gái trả
lời tin
nhắn :
“ Nhớ quá
à, cho em
nghe giọng
7

2


thoại ra
gọi

7


8

2

Cơ gái

Nhạc vui

Cận

nhận được

vẻ, u đời

cảnh

điện thoại.

mơi

Cơ gái vừa

cơ gái


nói :
“ Anh à”’
Thì có
tiếng đổ vỡ
ở bên đầu
dây bên
9

6

kia
Dịng máu

tiếng hơ

Đặc tả Máy

chảy

hốn.

dịng

chạy

ngang qua

Tiếng xe


máu

theo

xe đổ,

cấp cứu.

bánh xe

dịng
máu

đang quay.
Xung
quanh là
tiếng hơ
hốn.
Tiếng xe
cấp cứu.
Dịng máu
chảy đến
chiếc điện
thoại, văng
vẳng đầu
dây bên
8


kia tiếng

cô gái
đang gọi
thất thanh :
“Anh ơi,
Sao vậy
anh ơi “

10

2

Xuống
đen, hiện
lên
Slogan :
“Người
tiếp theo
có thể là
bạn …
Khơng
dùng điện
thoại khi
đang lái
xe”

1.2

2.

Kịch bản hình ảnh :


NỘI DUNG
9


2.1

Hình thức tiến hành
Loại hình : TVC
Thể loại : TVC về vấn đề an tồn giao thơng
Thời lượng : 30s
2.2

Nội dung
Nội dung Clip kể về đoạn hội thoại ngắn giữa chàng trai và người
yêu của anh ta. Tuy nhiên, đây khơng phải là một đoạn hội thoại mặt
đối mặt bình thường giữa hai người. Hồn cảnh của cuộc nói chuyện
rất đặc biệt, đó là khi chàng trai đang đi xe máy trên đường đến đón
cơ gái đi chơi. Chàng trai quá chú tâm vào việc nhắn tin với người
yêu mình và còn chấp nhận gọi điện theo yêu cầu của cô gái mà bỏ
qua hết mọi nguy hiểm để sử dụng điện thoại khi đang trên đường
đến nhà cô gái. Cuối cùng, chàng trai cũng khơng thốt được lưỡi hái
của tử thần. Do không tập trung tham gia giao thông nên anh đã gặp
tai nạn thương tâm và không biết kết cục sẽ ra sao.
TVC mở đầu là hình ảnh bánh xe đang chạy và tập trung vào việc mô
tả cảnh chàng trai đang vừa đi đường vừa dùng điện thoại để nhắn tin
với người yêu. Dù đường rất đông người qua lại, đặc biệt trong TVC
có cảnh quay chàng trai mải nhìn điện thoại đã khơng để ý mà phải
lách xe để tránh ơtơ. Tiếp sau đó là khung cảnh lãng mạn với hình
ảnh cơ gái với mái tóc dài dịu dàng đang mỉm cười nhắn tin và muốn

người u gọi điện cho mình. Tuy nhiên ở cơ gái,cảnh quay không
quay trực diện gương mặt cũng như biểu cảm rõ ràng mà chỉ thể hiện
sự tác động của cô gái đến chàng trai. Chi tiết này mang tính ẩn dụ
muốn hướng tới nhiều người chứ không phải là một cá nhân cụ thể.
Sau đó,chàng trai do tập trung đến việc sử dụng điện thoại nên đã xảy
ra tai nạn đáng tiếc. Người xem thấy rõ điều đó qua tiếng va chạm xe
rất lớn và chi tiết miệng cô gái đang cười bỗng trở nên hoảng hốt,
liên tục gọi chàng trai mà khơng có sự hồi đáp. Cảnh cuối của TVC là
cảnh quay từ trái sang phải của chiếc xe đang đổ, bánh xe vẫn đang
10


quay và chi tiết nổi bật là ánh sáng từ điện thoại của chàng trai cùng
tiếng cô gái liên tục gọi người u.
3. THƠNG ĐIỆP
3.1 Ý nghĩa thơng điệp
“Người tiếp theo có thể là bạn … KHƠNG dùng điện thoại khi đang
lái xe !”
Việc đưa ra một câu mang tính dự đoán như đang nhắm tới mỗi
người xem TVC này. Ai cũng có thể là người tiếp theo có kết cục
đáng tiếc như chàng trai trong TVC quảng cáo nếu vẫn tiếp tục nhắn
tin gọi điện khi đang lái xe. Chính vì vậy, người xem có cảm giác như
nhà phát hành clip đang nhắn trực tiếp tới chính bản thân mình. Bên
cạnh đó, đây cịn là lời nhắn nhủ dành cho tất cả mọi người – những
người mẹ, người cha, anh chị, bạn bè,.. không nên gọi điện hay nhắn
tin cho người thân của mình khi biết họ đang tham gia giao thơng.
Thơng điệp mang tính khẩu lệnh ngắn gọn và rất dễ hiểu. Điều này
thể hiện đối tượng TVC muốn hướng tới là tất cả mọi người, không
chỉ là những người tham gia giao thơng nói riêng mà cả những người
thân ở nhà nói chung. Thơng điệp ngắn gọn,súc tích và dễ hiểu sẽ

giúp cho cơng chúng từ mọi lứa tuổi cũng như các trình độ học vấn
khác nhau có thể dễ dàng đón nhận và thấu hiểu những ý nghĩa mà
TVC muốn truyền tải.

11


3.2

Một số yếu tố nghệ thuật, ẩn dụ trong clip
3.2.1 Hình ảnh quay bánh xe của chàng trai khi đang trên đường đi.
Những ánh sáng từ phía ngược lại, lóe sáng rồi vụt tắt. Ánh
sáng biểu hiện cho sự sống nhưng cũng lóe lên và vụt tắt đi rất
nhanh. Báo hiệu cho chàng trai một điều gì đó khơng hay sắp
xảy ra.

3.2.2

Hình ảnh khn mặt của cơ gái ln bị che đi hoặc khuất đi.
Điều này thể hiện việc cô gái có thể là bất cứ ai chứ khơng
phải là một cá nhân cụ thể. Cơ gái có thể là người yêu, người
thân hay bạn bè,.. của chàng trai. Chi tiết này hướng tới tất cả
những người có quan hệ với chàng trai đều có thể là nguyên
nhân khách quan khiến chàng trai mất tập trung dẫn đến hậu
quả đáng tiếc.

12


3.2.3


Góc quay ấn tượng chạy từ trái sang phải. Chiếc xe đổ ngửa
lên, bánh xe vẫn đang quay. Điện thoại sáng vang lên giọng
của cơ gái phía bên kia đầu dây. Đây cũng chính là cảnh cuối
cùng của TVC. Khi toàn bộ những cảnh đầu của TVC rất nhẹ
nhàng, từ hình ảnh tới âm nhạc, người xem có cảm giác như
một TVC rất nhẹ nhàng, tình cảm và đáng yêu. Thế nhưng toàn
bộ đã đảo ngược lại chỉ trong 1 cảnh quay cuối. Nặng nề, đau
khổ thậm chí là rất sock, chính vì vậy, TVC có thể dễ dàng tạo
ấn tượng cho người xem cũng như có thêm phần cảnh giác với
hành động sử dụng điện thoại khi đang lái xe.

4.

HÌNH THỨC TIẾN HÀNH

CHƯƠNG IV : NHỮNG KHĨ KHĂN, THUẬN LỢI, BÀI HỌC RÚT RA
VÀ ĐÁNH GIÁ CỦA MỖI CÁ NHÂN
13


*Thành viên 1: Nhan Vũ Hữu Thành
1.
1.1

THUẬN LỢI
Kịch bản :
Đây là một kịch bản mà tôi đã ấp ủ từ rất lâu nhưng chưa có cơ
hội thực hiện. Khởi đầu của kịch bản cho TVC này của tơi cịn
mạnh hơn với những hình ảnh tạo cảm giác ghê rợn khi tai nạn

v.v.. thế nhưng, sau khi bàn luận với Hạnh (Người bạn cùng nhóm
sản xuất) và tham khảo ý kiến của giáo viên, tôi và Hạnh đã quyết
định sửa lại kịch bản cho hợp lý và bớt ghê rợn hơn. Tuy nhiên,
sau khi chỉnh sửa, kịch bản vẫn thể hiện được ý tưởng mà tôi
muốn truyền đạt.
1.2

Thời gian :
Sau khi nhóm chúng tơi chốt được nội dung và tiến hành viết kịch
bản, chúng tôi mang kịch bản cho giáo viên bộ mơn duyệt thì
được cơ đồng ý ln. Chính vì vậy, chúng tơi có kha khá thời gian
dành cho việc quay và chỉnh sửa clip. Bên cạnh đó, q trình quay
cũng rất thuận lợi nên bọn tôi chỉ cần quay 2 buổi là hồn thiện.
Chính vì vậy, nhóm tơi có rất nhiều thời gian dành cho việc hậu
kì, chỉnh sửa clip.

1.3

Cộng sự :
Hạnh là một người cộng sự tuyệt vời. Thực sự chỉ với một mình
cá nhân tơi, tơi khơng thể hồn thành được Clip này. Tất cả q
trình sản xuất TVC, nếu khơng có sự giúp đỡ của Hạnh thì thời
gian làm TVC có thể có kéo dài hơn rất nhiều. Từ khâu viết kịch
bản, Hạnh là người viết lời thoại cho nhân vật. Chính phần viết lời
thoại này là phần làm cho tơi đau đầu nhất vì lời thoại cần phải tự
nhiên và đời thường nhất. Nhưng ở phần này, Hạnh đã hoàn thành
xuất sắc phần việc của mình. Đến khi quay TVC, mặc dù khơng
trực tiếp cầm máy quay nhưng Hạnh đảm nhiệm công việc hậu
14



cần rất tốt. Bạn chuẩn bị cho tôi đầy đủ các thiết bị phụ như ván
trượt Skate Board( để thực hiện cho cảnh quay cuối cùng), pha
màu để giả làm máu, và chuẩn bị nước nôi, địa điểm v.v.. Nhiệm
vụ của tơi chỉ là quay tốt các góc quay đã chuẩn bị trong kịch bản
thơi. Đến phần hậu kì, Tơi là người đảm nhiệm phần hình ảnh cịn
Hạnh là người lo về mặt âm thanh. Hạnh đã phải tìm rất nhiều âm
thanh, nhạc nền, tiếng động và chuẩn bị phần thu âm của nhân vật
nữ. Nhiệm vụ của tôi là ghép âm thanh vào cho hợp lý và khớp
với nội dung TVC. Có thể nói, với sự hỗ trợ đắc lực của Hạnh,
nhóm mới có thể hồn thành TVC này. Chính vì vậy, việc có một
cộng sự tốt đã giúp cho cơng việc hồn thành được 50% rồi.
2.
2.1

KHĨ KHĂN
Máy móc :
Đây chính là khó khăn lớn nhất mà nhóm tơi gặp phải trong quá
trình làm TVC. Để quay được những thước phim như ý, nhóm đã
phải thuê máy quay GoPro ( một loại máy quay dành cho người
thám hiểm). Mặc dù chiếc máy quay còn nhỏ hơn một máy ảnh du
lịch bình thường nhưng nhờ tính cơ động, có thể gắn lên các vật
khác nên máy quay này rất hữu dụng với các cảnh trong phim.
Thế nhưng, để sử dụng chiếc máy quay này gặp rất nhiều khó
khăn. Do chưa có kinh nghiệm sử dụng nên nhóm tơi mất khá
nhiều thời gian để làm quen và sử dụng thành thạo chiếc máy
quay này. Chưa kể do là đồ đi thuê nên chất lượng cũng không
được tốt cho lắm. Trong quá trình quay phim, khơng dưới 5 lần
khi xe đang chạy thì máy quay gắn trên xe máy bị rơi xuống đất.
Thậm chí, có lần tơi phải chặn trước mũi ơ tô để ngăn không cho ô

tô chẹt qua máy quay. Sau đó, để khắc phục vấn đề này, tơi đã
phải lấy bang dính quấn chặt máy quay vào xe để cố định không
làm rơi máy quay nữa.
15


2.2

Thời gian :
Chính vì phải th máy quay nên chúng tơi chỉ có một ngày quay
những cảnh ngồi trời. Chính vì mất quá nhiều thời gian để nghiên
cứu và luyện tập sử dụng máy quay nên khi nhóm tơi chính thức
quay thì trời đã ngả tối. Chi tiết này hồn tồn khác xa với kịch
bản mà chúng tơi thống nhất từ đầu. Nhưng đó khơng phải khó
khăn lớn nhất. Điều gây trở ngại lớn nhất cho chúng tơi chính là
trời tối. Vì khi quay trong điều kiện thiếu sáng, Clip sẽ cho ra chất
lượng không tốt và sẽ bị một chút nhiễu. Đây cũng là điều mà tôi
không ưng ý nhất của tác phẩm của nhóm.

3.

NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA
- Phải dự tính trước những việc mình sẽ làm và ln chuẩn bị
-

phương án dự phịng.
Phải chuẩn bị đồ đạc, đạo cụ trước khi bắt đầu khởi quay thật kỹ

-


càng, tránh trường hợp khi đang quay thì lại thiếu đồ.
Kịch bản là ý tưởng của cá nhân nhưng khi thực hiện q trình
quay và sản xuất thì sẽ có rất nhiều thay đổi khác với kịch bản ban
đầu.

4.

ĐÁNH GIÁ CÁ NHÂN
Đây là một bài tập nhóm mà tơi cho rằng nhóm chúng tơi đã hồn
thành và đã cố gắng bởi tồn bộ khả năng của mình. Hai thành viên
trong nhóm phối hợp với nhau rất ăn ý, chính vì vậy nên nhóm tơi có
thể hồn thành sản phẩm đúng với thời gian quy định của giáo viên.
Bên cạnh đó, qua TVC quảng cáo, tơi thấy được ý tưởng của mình
được thể hiện trong đó một cách rõ ràng và dễ hiểu. Đó cũng chính là
điều làm cá nhân tơi rất vui mừng và thoải mái. Tuy nhiên, chất
lượng hình ảnh của Clip chính là cái khiến tơi hơi thất vọng và tiếc
nuối. Chính vì một sai lầm nhỏ mà khiến cho chất lượng của clip
giảm xuống một nửa. Nhưng qua sai lầm này, tơi đã có bài học cho
16


chính bản thân mình và sẽ rút kinh nghiệm cũng như sửa đổi trong
những lần sản xuất phim hoặc clip sắp tới.
*Thành viên 2: Nguyễn Hồng Hạnh
1. THUẬN LỢI:
1.1 Kịch bản:
Có thể nói ý tưởng của nhóm tơi được hai thành viên thống nhất rất
nhanh. Thay vì làm một TVC mang tính thương mai, nhóm tơi đã nhanh chóng
quyết định đổi chiều hướng kịch bản TVC với đề tài tai nạn giao thơng. Với ý
tưởng đã có từ trước, nhóm tơi nhanh chóng tạo được sườn kịch bản cũng như

lập ra bản phân cảnh cho TVC chỉ trong 1 2 buổi họp. Dù trong quá trình bàn
luận, hai thành viên có tranh luận nhưng cũng đã chốt lại được kịch bản cuối.
Sau khi cơ giáo đọc và góp ý, nhóm tơi đã có thể bắt đầu thực hiện TVC mà
khơng cần phải thay đổi quá nhiều về mặt ý tưởng hay kịch bản.
1.2. Cộng sự:
Yếu tố khiến nhóm tơi có thể nhanh chóng thực hiện các bước từ lập ý
tưởng đến kịch bản, quay phim và dựng là sự phối hợp ăn ý và bù trừ giữa hai
thành viên. Nếu như Thành là người nghĩ ra ý tưởng sơ khai thì tơi là người
thêm thắt các chi tiết đắt giá để có thể tạo nên một kịch bản hồn thiện. Nếu
như tôi mạnh về nội dung và chuẩn bị hậu cần thì Thành lại là người có trình
độ chun mơn tương đối tốt trong việc quay phim và dựng phim. Mặc dù
trong q trình thực hiện thực tế, có những phát sinh đã làm tác động không
nhỏ đến việc thực hiện của cả hai thành viên, nhưng chúng tôi vẫn có thể phối
hợp ăn ý để giảm bớt và khiến những yếu tố đó khơng gây ảnh hưởng q lớn
đến TVC.
1.3. Yếu tố khác:

17


Trong quá trình tiến hành thực hiện TVC, việc thuê địa điểm, thuê dụng
cụ quay hay diễn viên đều diễn ra theo đúng kế hoạch và thời gian đã định sẵn
từ trước. Thêm vào đó, thời tiết của 2 hơm quay phim cũng rất ủng hộ cho
nhóm.
2.
2.1

KHĨ KHĂN:
Những phát sinh:
- Phát sinh trong q trình tạo thơng điệp:

Khi lên ý tưởng cho thơng điệp, hai thành viên trong nhóm tơi đã
rất khó khăn để có thể đưa ra được thơng điệp thống nhất. Thành
muốn thông điệp phải mạnh và mang tính đe dọa bởi ban đầu
trong kịch bản, nhóm tơi sẽ có những chi tiết và cảnh quay ghê
rợn về vụ tai nạn giao thơng. Tuy nhiên, tơi lại thích một thông
điệp nhẹ hơn, ngắn gọn và đơn giản để có thể khiến người xem
tiếp nhận một cách thoải mái. Kịch bản được tạo ra nhanh thì
thơng điệp lại khiến nhóm tơi tranh luận mất nhiều thời gian. Tuy
nhiên, sau khi được cơ giáo góp ý và chỉnh sửa, hai thành viên đã
kết hợp ý tưởng thơng điệp của mình để tạo ra được câu thông
điệp cuối cùng :” Người tiếp theo có thể là bạn, khơng dùng điện
-

thoại khi đang lái xe”.
Phát sinh trong quá trình thu lời thoại nhân vật:
Mặc dù lời thoại đã có sẵn nhưng khi thu âm, do giọng điệu và
cách ngắt nhịp của cả hai thành viên khơng phù hợp nên nhóm tơi
đã phải mất khá nhiều thời gian để thu đi thu lại dù lời thoại cũng
chỉ có 2 3 câu. Một lần nữa, tôi và Thành lại tranh luận về ngữ
điệu cần có, người muốn kéo dài âm để tạo sự nhõng nhẽo, người
lại muốn nói nhanh gọn rõ ràng. Thậm chí nhóm tơi đã phải nhờ
sự giúp đỡ từ những người thân để thu âm hộ. Tuy nhiên, sau khi
thống nhất lại lần cuối, tôi và Thành vẫn quyết định sẽ sử dụng
giọng của hai người và thu âm theo góp ý của..một người bạn
khác.
18


-


Phát sinh trong q trình sử dụng máy quay :
Có lẽ do đây là lần đầu sử dụng loại máy quay gắn vào tay cầm
của xe nên nhóm tơi đã gặp phải khơng ít khó khăn trong việc làm
quen với nó. Nhóm đã phải mất gần 2 tiếng để quay đi quay lại
cảnh chàng trai đang đi trên đường, thậm chí từ lúc trời sáng đến
tối, nhóm tơi vẫn loay hoay mãi với cảnh quay đó. Khơng những
vậy, do máy quay hay bị rơi nên nhiều lần tôi đã phải đi ngay sau
chiếc xe với nhiệm vụ nhặt máy để khơng bị phương tiện khác
chẹt qua ( lúc đó đường rất đông xe cộ nên hai thành viên và cả
diễn viên cũng phải rất cẩn thận khi quay).

2.2

Âm thanh
Việc tìm âm thanh sao cho phù hợp với hoàn cảnh là điều khiến tơi
gặp nhiều khó khăn nhất. Trong cảnh chàng trai đi trên đường, tôi đã
phải lọc và chọn ra rất nhiều những âm thanh khác nhau, từ tiếng còi
xe, tiếng động xe chạy nhanh hay tiếng xe cứu thương,..để làm sao
phù hợp với khung cảnh nhất. Sau đó, tơi và Thành đã phải có mơt
buổi họp để ghép nhạc và bàn luận cũng như chỉnh sửa để có được
những tiếng động, âm thanh tự nhiên nhất. Không những vậy, để có
được câu thoại chất lượng tốt, tơi đã phải trùm kín chăn và thu đi thu
lại để khơng bị lẫn tạp âm làm ảnh hưởng đến âm thanh của toàn
TVC.

3.

NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA:
- Yếu tố quan trọng gần nhất là sự ăn ý và cảm thông cho nhau giữa các
thành viên. Nếu được lựa chọn, hãy chọn những thành viên mà bạn chắc

chắn họ hiểu và biết cách làm việc một cách hiểu quả với bạn, thay vì
phải giải thích liên tục thì sự hiểu ý sẽ giúp công việc giảm thiểu tối đa
thời gian chuẩn bị và thực hiện. Trong trường hợp không được lựa chọn
thành viên, làm việc nhóm cần tơn trọng và lựa nhau để có thể dẹp bỏ
cái tơi cá nhân vì cơng việc chung.
19


- Khi làm việc nhóm, đặc biệt là nhóm có ít thành viên mà cơng việc
nhiều thì các thành viên nên thường xun họp lại để cùng làm. Vì cơng
việc nhiều chia cho ít người, nếu khơng được sửa và góp ý kịp thời,
thành viên đó sẽ rất dễ làm việc theo ý kiến chủ quan. Khi cơng việc
được hồn thành theo ý kiến chủ quan thì việc sửa lại rất khó vì sẽ phải
làm lại từ đầu.
- Yếu tố thời gian cần được thống nhất và kỷ luật. Nếu vì chờ đợi nhau
mà cơng việc bị giảm chất lượng thì các thành viên cần tự ý thức để
cùng nhau bảo ban trong việc hẹn giờ với người khác, kể cả diễn viên.
Cần gọi điện để xác nhận chứ không nên nhắc 1 2 lần rồi thôi.
- Bản kế hoạch có rõ ràng, chi tiết và khả thi đến thế nào cũng không
thể tránh khỏi những phát sinh bất ngờ. Nên có một bản chỉ ra những
phát sinh có thể xảy ra trong từng khâu chuẩn bị để giúp các thành viên
khi bắt tay vào làm không bị nhiều bất ngờ khó xử lý. Chẳng hạn trong
ngày đi quay với máy quay gắn ở tay lái, nhóm tơi do khơng dự tính
được việc máy hay bị rơi nên chưa chuẩn bị các dụng cụ như dây buộc
hay băng dính, vì vậy việc đi tìm mua băng dính đã làm nhóm mất đi
khá nhiều thời gian. Đây là một trong những phát sinh khơng đáng có
mà nhóm đã có thể phịng trừ từ trước.
4. ĐÁNH GIÁ CÁ NHÂN:
Có thể nói, Sản xuất quảng cáo là môn học đã đem lại cho tôi những trải
nghiệm và những kinh nghiệm rất thực tế và giúp bản thân tôi nhận ra được

nhiều điểm thiếu sót ở bản thân. Điều quan trọng nhất là tơi đã nhận ra được để
làm ra 1 TVC quảng cáo dù chỉ 30s nhưng đó là cả một q trình làm việc rất tỉ
mỉ và kỷ luật. Khi TVC của nhóm tơi hồn thiện và nhận được lời khen ngợi từ
cô giáo, cả hai thành viên đều rất vui và hài lịng với kết quả mà nhóm đã cố
gắng trong suốt thời gian qua. Tôi đánh giá rất cao tinh thần cũng như trách
nhiệm làm việc của thành viên cùng nhóm tơi – bạn Thành, có lẽ đây là bạn
đồng hành ăn ý nhất với tôi từ trước đến giờ và kết quả được như vậy là xứng
20


đáng với những nỗ lực và cố gắng của cả hai chúng tơi. Bên cạnh đó, trong q
trình lên ý tưởng đến chuẩn bị và thực hiện, bản thân tôi cũng đã học hỏi được
thêm nhiều điều mới và từ những sai lầm của bản thân, tơi có thêm nhiều bài
học cho những lần làm việc sau.

21


CHƯƠNG V : KẾT LUẬN
TVC quảng cáo với thông điệp “ Người tiếp theo có thể làm bạn...
Khơng dùng điện thoại khi đang lái xe” đã để lại trong chúng tôi nhiều điều
phải ghi nhận và phải rút kinh nghiệm. Cả hai chúng tơi đều đã có cho riêng
mình những kỷ niệm và những bài học quý giá. Không giống như những môn
học khác, bài tập làm TVC quảng cáo này chúng tôi được thực hiện từ các
bước nhỏ nhất đến tồn diện. Thay vì chỉ phụ trách một mảng nhỏ, nhóm tơi
được chính thức bắt tay vào làm và theo sát từng bước để có thể làm ra được 1
TVC quảng cáo hồn thiện. Chúng tơi đã biết được những khó khăn, những sự
cố ngồi ý muốn và cả những bất đồng mà nhóm cần phải nhanh chóng sửa đổi
để hồn thiện bản thân hơn.
TVC của nhóm tơi dù chưa thực sự hoàn hảo nhưng đối với hai thành

viên như vậy đã là một thành công không hề nhỏ. Có làm từng bước chúng tơi
mới cảm thấy mọi cơng việc dù nhỏ hay lớn cũng đều cần nhiều sự cố gắng và
nỗ lực không ngừng từ các thành viên. Có vất vả, có tranh luận và khó khăn thì
mọi người mới biết quý trọng thành quả mà nhóm đã tạo được. Chúng tơi tin
rằng những gì nhóm được trải nghiệm, những bài học mà chúng tôi được thực
tế phản ánh lại sẽ là một trong những hành trang quan trọng chúng tôi mang
theo sau này.
Chúng em xin cảm ơn cô giáo Đinh Thị Thúy Hằng đã giúp đỡ và tận
tình chỉ bảo cũng như có những lời nhận xét thấu đáo dành cho nhóm chúng
em. Mơn Sản xuất quảng cáo là một trong những môn học chuyên ngành
không những đem lại cho chúng em những kiến thức sách vở hữu ích mà cịn
giúp chúng em có thêm nhiều những kinh nghiệm thực tế. Một lần nữa chúng
em xin chân thành cảm ơn cô ạ!

22


MỤC LỤC

23



×