Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Vận dụng biện pháp tích hợp vào dạy học loại bài thực hành kĩ năng sử dụng tiếng việt lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.4 KB, 20 trang )

Vận dụng biện pháp tích hợp vào dạy học loại bài
thực hành kĩ năng sử dụng tiếng Việt lớp 10
Apply measures integrated into the teaching of skill exercises use Vietnamese for
grade 10
NXB H. : ĐHGD, 2012 Số trang 105 tr. +


Nguyễn Thị Hường


Trường Đại học Quốc gia Hà Nội; Trường Đại học Giáo dục
Luận văn ThS ngành: Lý luận và phương pháp dạy học (bộ môn Ngữ văn);
Mã số: 60 14 10
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PSG.TS. Đỗ Việt Hùng
Năm bảo vệ: 2012

Abstract. Xác định cơ sở lí luận về dạy học tích hợp, nghiên cứu thực trạng vận dụng biện
pháp tích hợp vào dạy học loại bài thực hành kĩ năng sử dụng tiếng Việt nói riêng và phần
tiếng Việt lớp10 nói chung. Xây dựng một số biện pháp tích hợp để triển khai dạy loại bài
thực hành kĩ năng sử dụng tiếng Việt lớp 10. Triển khai thực nghiệm sư phạm để khẳng định
tính khả thi của đề tài. Đề xuất biện pháp tích hợp để dạy loại bài hình thành kỹ năng sử
dụng tiếng Việt lớp 10. Trên cơ sở kết quả thực nghiệm sẽ tiến hành phân tích, nhận xét,
đánh giá để có những kiến nghị và giải pháp cụ thể cho hướng nghiên cứu tiếp theo.

Keywords: Ngữ văn; Phương pháp giảng dạy; Tiếng Việt; Lớp 10

Content.

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng, vừa là công cụ để con người nhận thức tư duy.


Hiện nay phương pháp dạy học môn Ngữ Văn có phần hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của xã
hội.
1.2. Khối lượng kiến thức, tri thức của nhân loại ngày càng nhiều. Với lượng thời gian hữu hạn giáo
viên không thể trang bị những kiến thức cần thiết cho HS bằng các hình thức dạy học truyền thống.
1.3. Chương trình Ngữ văn mới được biên soạn theo hướng tích hợp, ba phân môn được hợp lại
thành một môn chung, mỗi phân môn là một phần của môn Ngữ văn. Những kiến thức kĩ năng của
ba phần Văn, Tiếng Việt, Làm văn được triển khai đồng thời cho mỗi bài học, theo mối quan hệ đồng
quy, hỗ trợ lẫn nhau trong phạm vi và mức độ có thể, nhằm thực hiện mục tiêu cao nhất của chương
trình là giúp cho HS từng bước nâng cao và hoàn thiện năng lực đọc - hiểu văn bản và viết các loại
văn bản theo phương thức biểu đạt một cách tích cực, chủ động.
1.4. Chương trình Ngữ văn 10 đã đưa ra định hướng về đổi mới phương pháp và hình thức dạy học
theo tinh thần tích hợp, nhưng những nghiên cứu cụ thể về dạy học theo quan điểm tích hợp, một đặc
thù của bộ môn lại chưa được triển một cách thoả đáng. Do vậy, nghiên cứu đề tài: Vận dụng biện
pháp tích hơp vào dạy học loại bài thực hành kĩ năng sử dụng tiếng Việt lớp 10 là rất cần thiết và
có ý nghĩa với thực tế dạy học.
2. Lịch sử nghiên cứu
2.1. Dạy học tích hợp ở một số nước trên thế giới
Tích hợp đã trở thành một trong những xu thế dạy học hiện đại đang được quan tâm nghiên
cứu và áp dụng vào nhà trường ở nhiều nước trên thế giới. Vì thế, có rất nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm đến lý thuyết về tích hợp như: Hội đồng liên quốc gia về giảng dạy khoa học, với dự bảo trợ của
Unesco đã tổ chức tại Varna (Bungari) “Hội nghị tích hợp việc giảng dạy các khoa học”; Hội nghị
phối hợp trong chương trình của Unesco Paris 1972; Quan điểm của CEPE, Fourez, De Ketelle,
Xavier Roegierf,…
Quan điểm tích hợp được thể hiện khá rõ trong SGK của một số nước như: Trung Quốc, Pháp,
Malaixia, Đức,…
2.2. Dạy học tích hợp ở Việt Nam
Một số tài liệu đề cập đến vấn đề này như bộ sách Thiết kế dạy học Ngữ văn THCS theo
hướng tích hợp của Trương Dĩnh, Bài tập rèn luyện kĩ năng tích hợp Ngữ văn THCS. Giáo trình
phương pháp dạy học tiếng Việt [14] của Nguyễn Thanh Hùng ; Đoàn Thị Kim Nhung với Phương
pháp dạy học Ngữ văn ở trường THCS [17]; Luận án Hệ thống đề kiểm tra nhằm đánh giá năng lực

Ngữ văn THCS theo yêu cầu tích hợp [21] của Nguyễn Thị Hồng Vân. Ngoài ra còn một số bài báo
bàn về quan điểm tích hợp trong môn Ngữ văn và dạy học Ngữ văn của Trần Bá Hoành, Nguyễn
Thanh Hùng, Đỗ Chu Ngọc, Nguyễn Khắc Phi. Vũ Thị Sơn, Phan Trọng Luận, Trần Đình Sử,…
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp tích hợp vận dụng vào dạy học loại bài thực hành kĩ năng sử dụng
tiếng Việt, trong chương trình Ngữ văn lớp 10. Giúp giáo viên có được những định hướng cần thiết
để triển khai giờ học có hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu tích hợp của chương trình và SGK. Đồng
thời nâng cao hiệu quả học tập tiếng Việt, nâng cao hiểu biết về văn học, lịch sử, xã hội; góp phần
hình thành và phát triển nhân cách cho HS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục đích trên, chúng tôi xác định nhiệm vụ nghiên cứu chính như sau:
- Xác định cơ sở lí luận về dạy học tích hợp.
- Xây dựng một số biện pháp tích hợp để vận dụng dạy học loại bài thực hành kĩ năng sử
dụng tiếng Việt lớp 10.
- Triển khai thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính khả thi của đề xuất vận dụng biện pháp
tích hợp vào dạy loại bài thực hành kĩ năng sử dụng tiếng Việt lớp 10. Trên cơ sở kết quả thực
nghiệm sẽ tiến hành phân tích, nhận xét, đánh giá để có những kiến nghị và giải pháp cụ thể cho
hướng nghiên cứu tiếp theo
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Chỉ ra các biện pháp tích hợp, nội dung có thể tích hợp và cách thức tiến hành dạy học tích
hợp đối với loại bài thực hành kĩ năng sử dụng tiếng Việt lớp 10. Đồng thời thực hiện hoá một phần
những định hướng về dạy học tích hợp qua việc thiết kế giáo án và giảng dạy thực nghiệm.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Phương pháp điều tra khảo sát
Phương pháp thực nghiệm
6. Giả thuyết khoa học.
Nếu vận dụng được biện pháp tích hợp vào dạy học loại bài thực hành kĩ năng sử dụng tiếng
Việt lớp 10 thì hiệu quả dạy học giờ thực hành tiếng Việt trong nhà trường sẽ cao hơn.

7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày trong
3 chương :
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc vận dụng biện pháp tích hợp vào dạy học loại
bài thực hành kĩ năng sử dụng tiếng Việt lớp 10
Chương 2: Một số biện pháp tích hợp vận dụng vào dạy loại bài thực hành kĩ năng sử dụng
tiếng Việt lớp 10
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

CHƢƠNG 1
CỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG
BIỆN PHÁP TÍCH HỢP VÀO DẠY HỌC LOẠI BÀI THỰC HÀNH
KĨ NĂNG SỬ DỤNG TIẾNG VIỆT LỚP 10
1.1. Một số vấn đề lý luận về dạy học tích hợp
1.1.1. Khái niệm
Tích hợp là một cách tiếp cận khoa học, tích hợp ban đầu có các tên gọi là: Liên hệ
(Permeation), Kết hợp (Combination), Phối hợp (Coordination), Tích hợp (intergration). Nội hàm
khoa học khái niệm tích hợp có thể hiểu một cách khái quát là sự hợp nhất hay là sự nhất thể hoá đưa
tới một đối tượng mới như là một thể thống nhất trên những nét bản chất nhất của các thành phần đối
tượng, chứ không phải là một phép cộng đơn giản các thuộc tính của thành phần ấy. Không thể gọi là
tích hợp nếu các tri thức, kĩ năng chỉ được thụ đắc, tác động một cách riêng rẽ, không có sự ien kết,
phối hợp với nhau trong lĩnh hội nội dung hay giải quyết một vấn đề, tình huống. Luận văn lấy quan
điểm này làm cơ sở để tiến hành nghiên cứu và thực nghiệm.
1.1.2. Các cách tích hợp
Cách 1: Những ứng dụng chung cho nhiều môn học được thực hiện ở cuối năm học hay cuối
cấp học.
Cách 2: Những ứng dụng chung cho nhiều môn học được thực hiện ở những thời điểm đều
đặn trong năm.
Cách 3: Phối hợp quá trình các môn học khác nhau bằng các đề tài tích hợp. Cách này áp
dụng cho các môn học gần nhau về bản chất, mục tiêu hoặc cho những môn đóng góp bổ sung cho

nhau, thường dựa vào các môn học công cụ.
Cách 4: Phối hợp quá trình học tập các môn học khác nhau bằng các tình huống tích hợp,
xoay quanh mục tiêu chung cho nhóm, tạo thành một môn học tích hợp.
Lên cấp THCS, THPT hệ thống khái niệm trong các môn học phức tạp hơn, đòi hỏi sự phát
triển tuần tự chặt chẽ, mỗi môn học do một giáo viên được đào tạo về chuyên môn đảm nhiệm, do
vậy người ta thiên về áp dụng cách tích hợp Phối hợp quá trình học tập các môn học khác nhau bằng
các tình huống tích hợp.
1.1.3. Mục tiêu của dạy học tích hợp
- Dạy học tích hợp làm cho quá trình học tập có ý nghĩa bằng cách gắn học tập với cuộc sống hàng
ngày, vận dụng các kiến thức học được để xử lý các tình huống cụ thể, những tình huống có ý nghĩa,
hoà nhập thế giới học đường với cuộc sống.
- Dạy học tích hợp giúp phân biệt cái cốt yếu với cái ít quan trọng hơn.
- Dạy học tích hợp quan tâm đến việc sử dụng kiến thức trong tình huống cụ thể.
- Dạy học tích hợp còn giúp HS xác lập mối quan hệ giữa các khái niệm đã được học.
1.2. Loại bài thực hành kĩ năng sử dụng tiếng Việt
1.2.1. Khái niệm
Loại bài thực hành kĩ năng sử dụng tiếng Việt là loại bài vận dụng lý thuyết đã được học vào
làm các bài tập cụ thể. Từ đó hình thành những kĩ năng cần thiết cho HS trong việc sử dụng tiếng
Việt, nâng cao năng lực, hiệu quả giao tiếp bằng ngôn ngữ.
1.2.2. Vai trò của loại bài thực hành kĩ năng sử dụng tiếng Việt
1.2.2.1. Loại bài thực hành kĩ năng sử dụng tiếng Việt trong nhà trường và trong đời sống xã hội
Trong nhà trường từ năm 1945 tiếng Việt được dung làm ngôn ngữ chính thức. Nó là phương
tiện để truyền đạt và tiếp nhận các tri thức khoa học, giáo dục tư tưởng, tình cảm, lối sống.
Với xã hội tiếng Việt là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất trong xã hội Việt Nam hiện
nay. Chức năng xã hội không chỉ khẳng định trong lĩnh vực giao tiếp hàng ngày của các dân tộc anh
em sống trên đất nước Việt Nam. Ngày nay trong các lĩnh vực hoạt động giao tiếp như chính trị, an
ninh, quốc phòng, ngoại giao tiếng Việt được sử dụng là phương tiện chính thức. Và như vậy vai trò
của tiếng Việt trong cuộc sống cũng như trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định. Chính điều
này là tiền đề để khẳng định vai trò của loại bài thực hành tiếng Việt trong nhà trường là rất bức
thiết.

1.2.2.2. Tầm quan trọng của loại bài thực hành kĩ năng sử dụng tiếng Việt
Loai bài thực hành kĩ năng sử dụng tiếng Việt trong nhà trường THPT là một phần không thể
thiếu hoặc coi nhẹ trong phân môn tiếng Việt nói riêng và chương trình Ngữ văn nói riêng. Mặc dù
trong một năm học số tiết dành cho thực hành kĩ năng sử dụng tiếng Việt không nhiều nhưng nó góp
phần quan trọng vào việc định hướng cho HS thấy được ngôn ngữ tiếng Việt dưới góc nhìn đa chiều.
Mặt khác qua tiết học thực hành giúp HS có được năng lực sử dụng tiếng Việt một cách chính xác
mạch lạc, chặt chẽ, trong ang, và đây cũng chính là rèn luyện khả năng nhận thức và tư duy của
con người. Khi HS có kĩ năng sử dụng tốt tiếng Việt thì các em có cơ sở để học tốt các môn học khác
trong nhà trường cũng như giao tiếp ngoài xã hội.
1.2.3. Mối quan hệ giữa phương pháp và biện pháp
1.2.3.1. Khái niệm phương pháp
Phương pháp là quá trình sử dụng một hệ thống các cách thức, công cụ có liên quan đến nhau
theo một trình tự logic nhất định để thực hiện một hoạt động nhằm đạt được mục đích cuối cùng là
hoàn thiện một sản phẩm, một công việc hay một vấn đề nào đó. Phương pháp là tổng thể chung của
các cách thức sử dụng công cụ làm việc khác nhau để hoàn thành một công việc chung.
1.2.3.2. Khái niệm biện pháp
Biện pháp là cách thức thực hiện một công việc để đạt được mục đích đặt ra. Biện pháp nhấn
mạnh cách làm, cách hành động cụ thể.
1.2.3.3. Mối quan hệ giữa phương pháp và biện pháp
Phương pháp và biện pháp đều hướng tới phụ vụ cho việc hoàn thành một công việc đạt kết
quả như mong muốn. Phương pháp cũng như biện pháp đều là cách thức thực hiện công việc trên cơ
sở hiểu biết và tri thức vốn có về đối tượng và công việc phải hoàn thành. Giữa phương pháp và biện
pháp không có sự đồng nhất, song chúng có sự giao thoa và một phần bao chứa trong nhau. Xét trên
phương diện rộng của quá trình thực hiện công việc ta cũng có thể coi biện pháp là một phần của
phương pháp.
1.3. Chƣơng trình tiếng Việt lớp10 THPT
1.3.1. Mục tiêu
Phần Tiếng Việt trong SGK Ngữ văn lớp 10 nhằm những mục tiêu chủ yếu sau đây:
Một là, hình thành một số kiến thức về ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt nói riêng.
Hai là, nâng cao kĩ năng sử dụng tiếng Việt khi nói, khi viết và năng lực phân tích, lĩnh hội

văn bản khi nghe, khi đọc.
Ba là, bồi dưỡng tình cảm yêu quý tiếng Việt, thái độ tôn trọng và ý thức giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt.

1.3.2. Cấu trúc loại bài tiếng Việt lớp 10
1.3.2.1. Loại bài cung cấp kiến thức và hình thành kĩ năng mới
Loại bài cung cấp kiến thức và hình thành kĩ năng mới. Nội dung của những bài này chưa
được dạy hoặc chưa được đề cập một cách trực tiếp trong chương trình THCS. Đó là những bài sau:
- Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
- Văn bản và đặc điểm của văn bản
- Đặc điểm của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết
- Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt
- Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
- Khái quát về lịch sử tiếng Việt
1.3.2.2. Loại bài thực hành kĩ năng sử dụng tiếng Việt
Loại bài thực hành kĩ năng sử dụng tiếng Việt có nhiệm vụ củng cố kiến thức và phát triển kĩ
năng mà HS đã được học ở các lớp dưới, hoặc đã có hiểu biết sơ giản. Đó là những bài sau:
- Các phép tu từ ẩn dụ và hoán dụ
- Các phép tu từ điệp và đối.
- Yêu cầu chung về việc sử dụng tiếng Việt.
- Ôn tập tiếng Việt cuối năm
1.3.3. Tính tích hợp trong chương trình tiếng Việt 10
1.3.3.1. Tích hợp theo chiều ngang
Theo Ngữ văn 6 – sách giáo viên - tập 1, Tích hợp theo chiều ngang là tích hợp kiến thức
tiếng Việt với mảng kiến thức về văn học, thiên nhiên, con người theo nguyên tắc đồng quy: Văn -
Tiếng Việt - Tập làm văn.
Trong SGK Ngữ văn 10, sự tích hợp Tiếng Việt với văn học và làm văn thể hiện ở cả việc lựa
chọn, sắp xếp, khai thác nội dung kiến thức môn Việt ngữ học.
1.3.3.2. Tích hợp theo chiều dọc
“Tích hợp theo chiều dọc nghĩa là tích hợp ở một đơn vị kiến thức và kĩ năng mới những kiến

thức và kĩ năng đã học ở trước đó theo nguyên tắc đồng trục (còn gọi là vòng tròn đồng tâm hay
vòng tròn xoáy trôn ốc), cụ thể là kiến thức và kĩ năng hình thành ở bài học, lớp học, bậc học trước,
nhưng cao hơn, sâu hơn trước”. Đây là kiểu tích hợp khoa học. Xét riêng từng phần trong môn học
thì khi tích hợp ngang, ít nhiều phá vỡ tính hàng dọc của hệ thống tri thức thuộc ngành khoa học,
trong khi HS đã bước đầu phải làm quen, phải có ý thức về các ngành khoa học từ bậc THCS.
Nhìn trong mối quan hệ với bậc tiểu học và THCS, chương trình Tiếng Việt được xây dựng
theo nguyên tắc đồng tâm. Các kiến thức cơ bản về Tiếng Việt của chương trình THPT đã được học
ở chương trình tiểu học và THCS như: Cấu tạo từ, một số lớp từ có quan hệ về nghĩa (từ đồng nghĩa,
từ trái nghĩa, từ đồng âm), từ loại (danh từ, động từ, tính từ, quan hệ từ), các thành phần của câu (chủ
ngữ, vị ngữ, trạng ngữ), các kiểu câu (phân loại theo mục đích nói và phân loại câu theo cấu tạo ngữ
pháp). Đến THCS, từ lớp 6, HS được học kĩ về từ: cấu tạo từ, một số biện pháp tu từ từ vựng, các từ
mượn. Lớp 7, HS tiếp tục học về cấu tạo từ (từ ghép, từ láy, nghĩa của từ ghép, từ láy), về từ mượn
Hán Việt, về trường nghĩa của từ và tiếp tục học về tu từ từ vựng. HS đã bước sang từ loại và tu từ cú
pháp. Đến lớp 8, HS tiếp tục học về từ Hán Việt, tính chất ngữ nghĩa của từ. Ở lớp 9, HS vẫn tiếp tục
học từ Hán Việt và các vấn đề từ vựng, ngữ pháp, bắt đầu bước sang ngữ dụng học (hội thoại). Đến
THPT, lớp 10 HS vẫn tiếp tục học về từ Hán Việt, các biện pháp tu từ; những kiến thức về phong
cách ngôn ngữ, hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ; lịch sử tiếng Việt.
Như vậy có thể thấy tính tích hợp trong chương trình tiếng Việt đi từ những kiến thức đơn
giản, đến những kiến thức phức tạp hơn. Chương trình Tiếng Việt lớp 10 đã thể hiện rõ tính tích hợp
với các tri thức đã được học ở bậc Tiểu học và THCS.
1.4. Thực trạng vận dụng biện pháp tích hợp vào dạy học loại bài thực hành kĩ năng sử dụng
tiếng Việt lớp 10
1.4.1. Nhận thức của giáo viênTHPT về vận dụng tích hợp vào dạy học
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy, vấn đề áp dụng tích hợp trong dạy học Ngữ văn đã được
giáo viên tiếp cận nhưng chưa thật sự có chiều sâu. Sự tiếp cận ấy có thể chỉ dừng lại ở việc nắm
được quan điểm, nguyên tắc xây dựng chương trình và SGK mới là theo định hướng tích hợp và có
hai hình thức tích hợp là: Tích hợp theo chiều ngang và tích hợp theo chiều dọc. Thế nhưng tích hợp
như thế nào, với nội dung và phạm vi nào thì thực sự là vấn đề khó khăn với các giáo viên. Do vậy
dẫn đến thực trạng là nhiều giờ dạy, giáo viên chưa chú ý đến việc vận dụng quan điểm tích hợp, dẫn
đến việc khai thác bài dạy thiếu tính hệ thống, thiếu chiều sâu, làm cho chất lượng bài dạy không đạt;

nhiều giờ dạy, giáo viên tích hợp một cách gượng gạo, các đơn vị kiến thức được tích hợp không có
mối liên hệ gắn bó; nhiều giờ dạy, giáo viên lựa chọn đơn vị kiến thức tích hợp chưa trọng tâm
1.4.2. Việc vận dụng biện pháp tích hợp vào dạy học loại bài thực hành kĩ năng sử dụng tiếng Việt
lớp 10
Theo kết quả điều tra cho thấy, số lượng giáo viên không coi trọng việc áp dụng quan điểm
tích hợp vào dạy học loại bài thực hành tiếng Việt nói riêng và phần Tiếng Việt nói chung là rất lớn.
Điều này cũng đồng nghĩa với kết quả của các giờ học này chưa đạt được mục tiêu của môn học nói
chung và từng phần trong môn học nói riêng. Nguyên nhân của thực trạng này là:
Một là, lý thuyết về dạy học tích hợp còn khá mới mẻ đối với GV.
Hai là, tâm lý ngại thay đổi đã trở thành một trong những rào cản để giáo viên sử dụng những
quan điểm mới, phương pháp mới vào dạy học.
Ba là, phần Tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn chưa được quan tâm đúng mức. Vẫn còn
tồn tại những quan điểm xem nhẹ nội dung này.
Chương trình Ngữ văn 10 đã triển khai các nội dung học tập của ba phần Văn, Tiếng Việt và
Làm văn trong mối quan hệ tích hợp để hướng tới một trong những mục tiêu cơ bản là rèn luyện cho
HS năng lực cơ bản là rèn luyện cho HS năng lực đọc - hiểu, cảm thụ, tiếp nhận các văn bản (đặc biệt
là văn bản văn học) và năng lực tạo lập văn bản với các phương thức biểu đạt khác nhau, từ đó góp
phần đào tạo những con người có tri thức văn hoá, có tâm hồn lành mạnh, có sự năng động, sáng tạo
trong việc vận dụng những kiến thức và kĩ năng đã học vào thực tiễn cuộc sống. Việc đổi mới
chương trình đưa đến một yêu cầu tất yếu là phải có phương pháp dạy học phù hợp. Hiện nay, chúng
ta thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo quan điểm tích hợp trong dạy học Ngữ văn nói chung
và phần Tiếng Việt nói riêng.

CHƢƠNG 2
BIỆN PHÁP TÍCH HỢP VẬN DỤNG VÀO DẠY HỌC
LOẠI BÀI THỰC HÀNH KĨ NĂNG SỬ DỤNG TIẾNG VIỆT LỚP 10
2.1. Một số yêu cầu khi vận dụng biện pháp tích hợp vào dạy học
2.1.1. Dạy học theo hướng tích hợp phải đảm bảo những yêu cầu chung của dạy học
2.1.1.1. Bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng cần đạt ở mỗi bài học cụ thể
Chuẩn kiến thức, kĩ năng của môn học là các yêu cầu cơ bản, tối thiểu về kiến thức, kĩ năng

của môn học mà HS cần phải và có thể đạt được sau mỗi đơn vị kiến thức (mỗi bài, chủ đề, chủ
điểm, mô đun). Chuẩn kiến thức, kĩ năng môn học sẽ được cụ thể hoá trong mục tiêu của từng bài
học, giờ học. Một trong những cơ sở quan trọng của quá trình dạy học là bám sát mục tiêu của môn
học, từ đó xác định năng lực cần được hình thành và phát triển ở người học. Đối với loại bài thực
hành kĩ năng sử dụng tiếng Việt lớp 10 phải căn cứ vào chuẩn kiến thức kĩ năng của Chương trình
giáo dục phổ thông môn Ngữ văn (lớp 10) và cách triển khai nội dung học tập trong SGK Ngữ văn
để xác định các yêu cầu, tiêu chí của việc vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy học.
2.1.1.2. Phải tuân theo một tiến trình dạy học hợp lý
Nội dung phần Tiếng Việt 10 có hai loại bài chính là cung cấp kiến thức, hình thành kĩ năng
mới và thực hành kĩ năng sử dụng tiếng Việt. Với loại bài thực hành, luyện tập, giáo viên cần gợi dẫn
để HS nhớ lại các kiến thức, kĩ năng đã được học ở lớp dưới, đồng thời nâng thêm một bước nhận
thức và năng lực sử dụng. Do đó, cấu trúc bài học ngoài kết quả cần đạt thường bao gồm ba bước:
- Bước 1: GV gợi dẫn để HS nhớ lại những kiến thức, kĩ năng đã học.
- Bước 2: Theo yêu cầu nêu ở từng bài tập, dưới sự tổ chức, hướng dẫn của GV, HS lần lượt
làm các bài tâp, HS khác nhận xét, bổ sung.
- Bước 3: trên cơ sở kết quả của bước 2, GV đánh giá, tổng kết. Từ đó nâng cao thêm một
bước về nhận thức, năng lực cũng như kĩ năng sử dụng.
2.1.1.3. Dạy học tích hợp phải đáp ứng được yêu cầu dạy học thực tiễn
Mục tiêu của việc dạy học loại bài thực hành Tiếng Việt trong nhà trường là phải làm sao cho
HS có kĩ năng sử dụng tiếng Việt một cách có ý thức, có cơ sở khoa học. Đối với bậc THPT, trên cơ
sở nhận thức khoa học, những kiến thức về tiếng Việt mà HS có được, hình thành cho các em những
kĩ năng sử dụng tiếng Việt phù hợp với mục đích giao tiếp đa dạng trong gia đình, nhà trường và
ngoài xã hội. Đây chính là vốn liếng đầu tiên mà nhà trường phải tạo cho các em để các em tự tin
bước vào cuộc sống tương lai sau khi tốt nghiệp phổ thông. Do vậy, việc vận dụng biện pháp tích
hợp cần bám sát mục tiêu dạy học và đáp ứng được với yêu cầu của thực tiễn đối với môn học Ngữ
văn.
2.1.2. Lựa chọn nội dung tích hợp phải hợp lý, tự nhiên, tránh gượng ép
Nội dung tích hợp của ba phần trong môn Ngữ văn (Văn học, Tiếng Việt, Làm văn) là rất
phong phú, có thể tích hợp trong từng thời điểm (một tiết học, một bài học). Bên cạnh tích hợp theo
từng thời điểm, giáo viên còn có thể tích hợp theo từng vấn đề. Tích hợp theo hướng này, giáo viên

có thể vận dụng những kiến thức đã học hoặc sẽ học trong chương trình để dạy một kiến thức thuộc
về chính phân môn này, cũng có thể thuộc về các phân môn khác. Đối với các đơn vị kiến thức cũ
(đã dạy), giáo viên dùng để tích hợp nhằm củng cố, ôn tập, so sánh, đối chiếu, đồng thời rèn cho HS
ý thức và kĩ năng vận dụng “cái đã biết” để xử lý các vấn đề trước mắt, hình thành “cái chưa biết”.
Đối với các đơn vị kiến thức sẽ hình thành trong tương lai (sẽ dạy), giáo viên đưa ra để gợi mở, giúp
HS hình dung được mối quan hệ giữa các đơn vị kiến thức trong chương trình. Qua đó, khơi gợi
được tinh thần ham hiểu biết, muốn được khám phá trong HS, có nghĩa là tăng hứng thú cho người
học. Không những vậy, việc dạy phần Tiếng Việt trong nhà trường cần tích hợp với đời sống xã hội.
Với phần Tiếng Việt lớp 10, không chỉ khai thác mối quan hệ tích hợp Tiếng Việt - Tiếng Việt thông
qua củng cố, ôn tập, rèn luyện kĩ năng, …(tích hợp dọc); tích hợp Tiếng Việt – Văn học theo hướng
tìm ngữ liệu cho các đơn vị kiến thức trong các bài Tiếng Việt cụ thể (tích hợp ngang); tích hợp
Tiếng Việt – Làm văn theo hướng chọn kiểu văn bản thích hợp đã được học ở phân môn Làm văn để
yêu cầu HS luyện tập Tiếng Việt (tích hợp ngang) mà còn có thể gắn nội dung dạy học phần này với
các tri thức khác. Đặc biệt cần lưu ý tới nội dung rèn luyện và phát triển năng lực giao tiếp cho HS.
Phát triển năng lực này là một nội dung quan trọng của dạy học Tiếng Việt.
Sau khi xác định được các đơn vị kiến thức có thể tích hợp trong từng tiết dạy, bài học cụ thể,
giáo viên cần lựa chọn mức độ và phạm vi tích hợp. Vấn đề chọn nội dung nào để tích hợp và tích
hợp đến đâu là vấn đề không đơn giản. Mặc dù ý đồ tích hợp được người biên soạn SGK thể hiện
trong từng bài cũng như trong toàn bộ chương trình Ngữ văn 10.
2.1.3. Đảm bảo giảm tải được kiến thức, rút ngắn được thời gian học tập cho HS
Khi tổ chức dạy học theo hướng tích hợp giáo viên cần lựa chọn phương pháp phù hợp, nội
dung thích hợp, cách thức hợp lý sao cho giảm tải được kiến thức và rút ngắn được thời gian học tập
mà vẫn đạt được mục tiêu dạy học. Muốn vậy, đối với mỗi bài học, bên cạnh việc xác định nội dung
tích hợp một cách hợp lý thì GV còn cần lựa chọn kiến thức và kĩ năng trọng tâm của bài học. Một
bài học có thể hướng tới việc cung cấp nhiều kiến thức, hình thành các kĩ năng khác nhau nhưng với
thời lượng có hạn của các giờ học trên lớp thì việc lựa chọn và nhấn mạnh tới kiến thức, kỹ năng
trọng tâm là điều rất cần thiết. Dạy học tích hợp không nằm ngoài định hướng đó. Mặt khác, như đã
nói ở trên, bản chất của dạy học tích hợp là phải đảm bảo rút ngắn thời gian học tập cho HS. Tức là
với lượng thời gian ít nhất mà HS có thể có được nhiều nhiều kiến thức và kĩ năng nhất. Vì vậy cần
tích hợp tối đa những kiến, kĩ năng mà HS đã có để tránh sự chồng chéo, dư thừa không cần thiết.

2.1.4. Quy trình tích hợp
Bước 1: Nghiên cứu và phân tích mục đích và nội dung dạy học.
Bước 2: Chọn lọc những nội dung HS đã được học ở những năm trước (cả ở môn học khác).
Bước 3: Lựa chọn nội dung, vấn đề tích hợp Tiếng Việt với phần Văn và phần Làm văn, các
kiến thức có liên quan ở các môn học khác và từ thực tiễn cuộc sống (trang bị thêm kiến thức có tính
chất giáo dục)
Bước 4: Lựa chọn cách thức tích hợp, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học tích hợp.
Bước 5: Kiểm tra, điều chỉnh cho phù hợp.
2.2. Một số biện pháp tích hợp
2.2.1. Tích hợp trong nội dung dạy học
2.2.1.1. Tích hợp trong môn học
Tích hợp trong môn học trước hết là tích hợp giữa phần Tiếng Việt với phần Văn. Có thể thấy
đối tượng giảng dạy của phần Văn là các tác phẩm nghệ thuật của nhân loại từ cổ đến kim, còn nội
dung giảng dạy của Tiếng Việt là hệ thống ngôn ngữ, những quy luật hành chức của tiếng Việt trong
giao tiếp và các sản phẩm lời nói bằng tiếng Việt, hệ thống các kĩ năng cần thiết để giao tiếp trong xã
hội. Các tác phẩm nghệ thuật lại được cấu thành từ các đơn vị và quy luật ngôn ngữ của tiếng Việt.
Vì thế để muốn tìm hiểu đặc điểm của tiếng Việt phải thông qua các văn bản nghệ thuật và ngược lại
muốn hiểu được các tác phẩm nghệ thuật phải có các tri thức về ngôn ngữ. Bởi vậy trong dạy học
Ngữ văn tích hợp giữa Tiếng Việt – Văn vừa tiết kiệm thời gian vừa giúp HS hiểu sâu hơn nội dung
kiến thức của từng phần. Đối với phần đọc - hiểu văn bản, những hiểu biết về ngữ âm, từ vựng, ngữ
pháp, phong cách học Tiếng Việt sẽ góp phần tạo nên tiềm lực phân tích và cảm thụ các tác phẩm
văn chương. Có khi phân tích một từ một câu có thể giúp HS hiểu thêm nghệ thuật và các giá trị khác
của tác phẩm.
Đối với việc tiếp nhận và tạo lập văn bản, những kiến thức về tiếng Việt sẽ giúp cho HS biết
dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện pháp tu từ phù hợp với đặc trưng của từng loại văn bản; từ đó giúp
HS ngày càng có ý thức trau dồi tiếng Việt. Trong ba phần của môn Ngữ văn thì Làm văn có vị trí
đặc biệt: một mặt nó thể hiện kết quả của hai phần Văn và Tiếng Việt, mặt khác nó lại là nơi thực
hành kỹ năng nói và viết tiếng Việt. Do vậy tích hợp giữa phần Tiếng Việt với Làm văn là nội dung
quan trọng, không thể thiếu trong dạy học Ngữ văn. Phần Làm văn trong chương trình Ngữ văn 10
tập trung vào một số vấn đề chính là văn bản tự sự, văn bản thuyết minh và văn bản nghị luận. Từ nội

dung của phần Tiếng Việt, chúng ta nhận thấy có thể tích hợp Tiếng Việt với Làm văn qua các giờ
học bằng cách cho HS thực hành viết đoạn văn hoặc tự chữa lỗi trong các bài viết văn của mình.
Tích hợp trong nội bộ môn học còn đồng nghĩa với việc thực hiện tích hợp giữa Tiếng Việt
với Tiếng Việt. Trong thực tế có những kiến thức trong loại bài thực hành kĩ năng sử dụng tiếng
Việt lớp 10, HS đã được tìm hiểu ở các lớp học dưới. Vì vây, để tránh chồng chéo, lãng phí thời gian,
gây nhàm chán cho HS thì GV cần nghiên cứu kĩ chương trình để xác định phần kiến thức nào HS đã
được biết, nội dung nào cần được nhắc lại, phần nào cần bổ sung. Khi tích hợp với các kiến thức HS
đã được biết tức là chạm tới vùng phát triển gần sẽ gây được hứng thú học tập cho HS. Từ kiến thức
HS đã có liên hệ, mở rộng, dẫn dắt, định hướng để HS tự chiếm lĩnh những kiến thức mới.
2.2.1.2. Tích hợp liên môn
Với các môn học khác trong chương trình THPT, phân môn Tiếng Việt như đã trình bày trong
chương 1, giữ vai trò là “môn học công cụ” giúp HS tiếp nhận và diễn đạt tốt các thông tin khoa học
được giảng dạy ở nhà trường. Nói cách khác, để thực hiện tốt các nhiệm vụ học tập, HS trước hết
phải nghiên cứu và rèn luyện năng lực sử dụng ngôn ngữ. Đây chính là chìa khoá nhận thức của học
vấn, của sự phát triển trí tuệ. Nếu GV thiếu quan tâm đúng mức đến việc rèn luyện năng lực ngôn
ngữ cho HS sẽ kiến các em không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập của bất cứ bộ môn khoa học
nào trong nhà trường. Có thể thấy tích hợp Tiếng Việt với các môn học khác có thể tích hợp ở cả
mạch kiến thức và kĩ năng.
Về mặt kiến thức, phần ngữ liệu trong các bài học Tiếng Việt không chỉ có các văn bản văn
học mà còn sử dụng các văn bản của nhiều ngành khoa học khác. Qua nội dung của các văn bản đó
sẽ cung cấp cho HS kiến thức của nhiều lĩnh vực khác nhau. Hoặc qua việc giải thích thuật ngữ của
một chuyên ngành nào đó cũng sẽ giúp HS hiểu thêm kiến thức về lĩnh vực ấy. Về mặt kỹ năng, mục
tiêu của phần Tiếng Việt là hình thành và rèn luyện cho HS bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Đây là
bốn kĩ năng thiết yếu trong hoạt động giao tiếp của HS. Dạy học cũng là một hoạt động giao tiếp. Do
đó HS muốn học tập tốt bất kì một môn học nào cũng cần thực hiện tốt cả bốn kĩ năng này.
Nói đến quan hệ liên môn, còn phải chú ý đến tác dụng trở lại của các môn học khác với
Tiếng Việt. Tri thức khoa học của các môn học khác được thể hiện thông qua hệ thống các khái niệm
và thuật ngữ khoa học. Học tập các môn khoa học, HS đồng thời học các hệ thống thuật ngữ tương
ứng và sử dụng các thuật ngữ đó. Nói cách khác vốn từ ngữ của HS sẽ được làm giàu thêm thông qua
các môn học khác trong nhà trường. Mặt khác, việc tiếp xúc với nhiều môn học, HS sẽ thấy được

nhiều cách diễn đạt phong phú của tiếng Việt trong các phong cách khác nhau, từ đó mà rèn luyện
cho mình kĩ năng sử dụng tiếng Việt theo nhiều phong cách khác nhau.
2.2.1.3. Tích hợp với kiến thức thực tế ngoài cuộc sống
Tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ, HS đã dùng tiếng Việt để giao tiếp trong đời sống từ thuở ấu thơ,
trước khi được học về tiếng Việt trong nhà trường. Từ thực sử dụng, HS có được những hiểu biết khá
phong phú về tiếng Việt. Vì thế, dạy học loại bài thực hành tiếng Việt nói riêng và phần Tiếng Việt
trong nhà trường nói chung không thể không tích hợp với vốn kiến thức mà HS đã có. Mặt khác,
tiếng Việt trong đời sống rất phong phú và sinh động. Do vậy tích hợp với kiến thức thực tế ngoài
đời sống, không chỉ giúp HS vận dụng được cái đã có vào bài học mà còn giúp HS phát hiện và thấy
được cái hay, cái đẹp của tiếng Việt. Thực tế cuộc sống không chỉ cung cấp cho HS kiến thức về
tiếng Việt mà còn rèn luyện cho các em các kĩ năng sử dụng tiếng Việt. Cho nên việc tích hợp này sẽ
góp phần làm cho các giờ học Tiếng Việt bớt khô khan, trở nên hấp dẫn, tạo được hứng thú học tập
cho HS.
2.2.2. Tích hợp trong kiểm tra đánh giá
Từ mục tiêu dạy học của phần Tiếng Việt cũng như cách tổ chức nội dung chương trình và
SGK Ngữ văn cho thấy một trong những nội dung quan trọng của việc đổi mới chương trình là phải
đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá. Kiểm tra đánh giá là khâu cuối cùng của chu trình dạy học,
đánh giá không chỉ có vai trò kiểm chứng kết quả của sự đổi mới nội dung, phương pháp theo mục
tiêu đề ra trong những thời điểm học tập nhất định mà còn giúp cho việc định hướng, điều chỉnh kế
hoạch giáo dục tiếp theo được tiến hành phù hợp và có hiệu quả.
Phần Tiếng Việt lớp 10 cung cấp cho HS các đơn vị kiến thức về hoạt động giao tiếp bằng
ngôn ngữ, phong cách ngôn ngữ, lịch sử tiếng Việt và luyện tập về các phép tu từ. Các đơn vị kiến
thức này không học một cách riêng rẽ mà thường được tích hợp trong các bài đọc hiểu. Việc cung
cấp cho HS những hiểu biết về tiếng Việt không chỉ giúp HS có được những hiểu biết tương đối hệ
thống về các đơn vị ngôn ngữ cơ bản của Tiếng Việt mà còn giúp HS có kĩ năng đọc, tiếp nhận các
văn bản đã học dưới góc độ ngôn ngữ. Với cách triển khai tích hợp như trên thì các câu hỏi kiểm tra
Tiếng Việt không nên dừng ở mức độ ghi nhớ, tái hiện các khái niệm, lý thuyết thuần tuý mà cần yêu
cầu HS nhận diện chúng trong các tình huống sử dụng cụ thể, hiểu ý nghĩa của chúng trong trích
đoạn hoặc văn bản, tức là gắn các đơn vị Tiếng Việt với các bài học tích hợp. Bên cạnh đó cũng cần
có những câu hỏi mang tính tổng kết cho từng phần. Sau mỗi giai đoạn học tập giúp HS hệ thống hoá

các kiến thức đã được học.
Đối với việc kiểm tra kiến thức Tiếng Việt 10 theo hướng tích hợp có thể tóm lược hệ thống
câu hỏi kiểm tra như sau:
- Nhận biết khái niệm các đơn vị Tiếng Việt đã học
- Nhận diện các đơn vị Tiếng Việt trong văn bản đọc - hiểu và trong các tình huống sử dụng
khác.
- Hiểu và phân tích vai trò và cách sử dụng của chúng.
Để kiểm tra kĩ năng thực hành, vận dụng cần phải hiểu rằng năng lực tiếng Việt của HS được
thể hiện qua các kĩ năng mà HS có được từ các bài học về tiếng Việt. Những kĩ năng này không chỉ
bộc lộ trong việc thực hành các bài học tích hợp của chương trình mà còn thể hiện trong việc ứng
dụng vào các tình huống đa dạng của cuộc sống. Các kĩ năng cơ bản của Tiếng Việt mà HS lớp 10
cần có là: kĩ năng nhận diện để giải mã được các biện pháp tu từ được sử dụng, kĩ năng phân tích để
thấy được giá trị biểu đạt của các biện pháp tu từ, kĩ năng vận dụng từ ngữ, phong cách ngôn ngữ để
đọc hiểu văn bản, kĩ năng giao tiếp và kĩ năng tạo lập văn bản. Những kĩ năng này không chỉ được
hình thành trong giờ Tiếng Việt mà cả trong các giờ đọc hiểu và Làm văn (bởi năng lực bao trùm
môn Ngữ văn là năng lực sử dụng tiếng Việt). Do vậy, việc kiểm tra Tiếng Việt cần kết hợp chặt chẽ
với đọc - hiểu và tạo lập văn bản. Các câu hỏi kiểm tra cần theo mức độ khó tăng dần để để đánh giá
khả năng của HS một cách đầy đủ, chính xác từ những câu hỏi nhận diện các đơn vị Tiếng Việt trong
văn bản đến phân tích, lí giải về sự phù hợp của chúng, từ việc hỏi về sự vận dụng các kĩ năng tiếng
Việt theo từng bài học đến việc đánh giá và lựa chọn các đơn vị Tiếng Việt trong khi tạo tạo lập các
văn bản theo các phương thức biểu đạt khác nhau.
Có thể tóm lược hệ thống câu hỏi tích hợp kiểm tra kĩ năng thực hành tiếng Việt như sau:
- Vận dụng kiến thức Tiếng Việt trong đọc hiểu văn bản
- Vận dụng trong việc tạo lập đoạn văn, bài văn
- Vận dụng trong giao tiếp, hội thoại.
Hoạt động kiểm tra đánh giá theo quan điểm tích hợp sẽ giúp kiểm tra kiến thức được toàn
diện hơn, có thể thực hiện theo hình thức vấn đáp hoặc kiểm tra viết.
Đối với hình thức kiểm tra vấn đáp có thể sử dụng trong kiểm tra bài cũ hoặc trong qua trình
dạy bài mới có nội dung cần tích hợp với kiến thức đã được học.
Kiểm tra bài cũ là bước đầu tiên trong tiến trình tổ chức hoạt động dạy học một cách cụ thể.

Mục đích của hoạt động này là để kiểm tra việc học ở nhà cũng như mức độ hiểu bài của HS. Ngoài
ra đây cũng là hoạt động có tính chất kết nối giữa bài cũ với bài mới. Do đó việc thực hiện tích hợp
trong kiểm tra bài cũ là rất cần thiết và khá thuận lợi (cả tích hợp dọc và tích hợp ngang).
Kiểm tra viết đối với phần Tiếng Việt gồm kiểm tra 15 phút, kiểm tra 45 phút. Do yêu cầu đổi
mới kiểm tra đánh giá, bài kiểm tra áp dụng một phần thi trắc nghiệm kết hợp với tự luận. Phần trắc
nghiệm sẽ kiểm tra một cách tổng hợp trên một diện rộng các kiến thức đã học. Cấu trúc của đề kiểm
tra theo hướng này chính là thực hiện triệt để nguyên tắc tích hợp ba nội dung kiến thức, kĩ năng của
ba phần Văn học, Tiếng Việt và Làm văn.
* Đối với kiểm tra 15 phút
Bài kiểm tra 15 phút được vận dụng nhằm thu thập thông tin về sự nắm vững kiến thức, kỹ
năng của HS sau khi học xong một cụm bài thông qua một đoạn bài viết hoặc một bài viết ngắn, đơn
giản.
Khi kiểm tra giáo viên nêu ra những câu hỏi, bài tập có tính chất tổng hợp, xâu chuỗi được tất
cả các kiến thức, kĩ năng trong cụm bài, đồng thời đánh giá được năng lực trình bày ngôn ngữ viết
qua một đoạn hoặc bài viết ngắn.
* Đối với kiểm tra 45 phút
Bài kiểm tra 45 phút được vận dụng nhằm thu thập các thông tin về sự nắm vững kiến thức, kĩ
năng của HS sau khi học một cụm bài lớn hoặc một mạch nội dung tương đối đầy đủ qua hình thức
trình bày một vấn đề bằng bài viết phức tạp hơn, dung lượng dài hơn so với bài 15 phút.
Bằng việc kiểm tra đánh giá theo quan điểm tích hợp sẽ giúp đánh giá năng lực học tập của
HS một cách toàn diện và hình thành cho HS ý thức liên hệ nội dung kiến thức đã học với kiến thức
mới và kiến thức của ba phần Văn học, Tiếng Việt, Làm văn với nhau.
CHƢƠNG 3: THỰC NGHIỆM
3.1. Những vấn đề chung
Để có được những cơ sở ban đầu nhằm kiểm chứng độ tin cậy và tính phù hợp trong việc vận
dụng quan điểm tích hợp vào dạy học phần Tiếng Việt 10, hướng tới mục tiêu hình thành và phát
triển các năng lực Ngữ văn cho HS, luận văn đã triển khai dạy thử nghiệm ở lớp 10CB1, 10CB2
trường THPT Trung Văn, Từ Liêm, Hà Nội. Kết quả thực nghiệm sẽ là cơ sở để đánh giá một cách
khoa học, khách quan, chính xác giá trị thực tiễn của những nội dung đã được đề xuất trong luận văn.
Việc thử nghiệm dạy học nhằm thực hiện mục tiêu đánh giá hiệu quả của việc vận dụng tích

hợp trong dạy học loại bài thực hành kĩ năng sử dụng Tiếng Việt lớp 10. Để kiểm chứng một cách
đầy đủ và hiệu quả toàn bộ quá trình vận dụng tích hợp vào dạy loại bài thực hành kĩ năng sử dụng
Tiếng Việt lớp 10 cần phải có một quy trình thực nghiệm quy mô, lâu dài với rất nhiều công đoạn
phức tạp. Trong khuôn khổ đề tài một luận văn, chúng tôi khồng có điều kiện thực hiện tất cả các quy
trình thực nghiệm. Do vậy, luận văn chỉ tiến hành một số thử nghiệm với mục đích những gì được
tiến hành và phân tích sẽ là những kết quả bước đầu có tính chất định hướng cho những bước tiếp
theo.
3.1.1. Mục đích thực nghiệm
Việc thực nghiệm được tiến hành nhằm hướng tới những mục đích sau đây:
Thứ nhất, luận văn triển khai thực nghiệm nhằm kiểm nghiệm sự phù hợp của việc đề xuất
một số biện pháp tích hợp để vận dụng dạy học loại bài thực hành kĩ năng sử dụng Tiếng Việt lớp 10
được đưa ra trong luận văn. Với mục đích này chúng tôi lựa chọn tiết 43: Thực hành biện pháp tu từ
ẩn dụ và hoán dụ trong chương trình Ngữ Văn lớp 10, thiết kế giáo án theo hướng vận dụng biện
pháp tích hợp và thử nghiệm cho một số đối tượng HS; thông qua phân tích, xử lý bảng hỏi và kết
quả kiểm tra của HS để xem xét khả năng đáp ứng các yêu cầu về mục tiêu dạy học theo chuẩn kiến
thức kĩ năng của môn học.
Thứ hai, qua việc thu nhận những thông tin phản hồi từ phía GV và HS về vấn đề vận dụng
biện pháp tích hợp vào dạy học loại bài thực hành kĩ năng sử dụng Tiếng Việt lớp để phân tích, đánh
giá tính khả thi và giá trị thực tiễn của việc vận dụng tích hợp vào dạy học loại bài thực hành Tiếng
Việt lớp 10 đặc biệt là quy trình biên soạn một giờ học theo định hướng tích hợp để có những giải
pháp nhằm bổ sung, hoàn thiện và từng bước nâng cao chất lượng của các tiết học thực hành Tiếng
Việt.
3.1.2 Đối tượng và địa bàn thực nghiệm
Đối tượng chọn để tiến hành thực nghiệm là học sinh 2 lớp 10 ở trường THPT Trung Văn, từ
Liêm, Hà Nội. Lớp 10CB1 và 10CB2 đây là 2 lớp học có sức học đồng đều nhau, học theo chương
trình chuẩn.
3.1.3. Nội dung và các bước tiến hành triển khai thực nghiệm
Việc thực nghiệm đã được tiến hành theo các nội dung sau:
Bƣớc 1: Tổ chức dạy thực nghiệm:
Luận văn tiến hành dạy học thực nghiệm bài: Thực hành biện pháp tu từ ẩn dụ và hoán dụ.

Để tiến hành thực nghiệm chúng tôi soạn 2 giáo án:
- Giáo án thứ nhất: Soạn theo cách dạy truyền thống, không chú trọng đến việc vận dụng tích
hợp vào dạy học
- Giáo án thứ hai: Soạn theo tinh thần dạy học tích hợp
- Dưới đây là giáo án tiết 43 bài: Thực hành biện pháp tu từ ẩn dụ và hoán dụ soạn theo tinh
thần tích hợp
Bƣớc 2: Phân tích các số liệu, nhận xét, đánh giá
Trước hết, luận văn tiến hành so sánh đối chiếu giáo án thực nghiệm với các giáo án mà giáo
viên đã dạy trên thực tế nhằm rút ra kết luận bước đầu về vấn đề tích hợp trong dạy học thực hành
Tiếng Việt lớp 10 đã được nêu ra trong chương trình và sáng rõ qua các chương của luận văn.
Bước tiếp theo là tiến hành thống kê các kết quả thu được từ bảng hỏi và bài kiểm tra của HS
để có những nhận xét bước đầu về tính khả thi và hiệu quả của việc vận dụng biện pháp tích hợp
trong dạy học loại bài thực hành kĩ năng sử dụng tiếng Việt lớp 10.
Bƣớc 3: Xử lý thông tin từ các kết quả được phân tích
Với các thông tin thu được qua quá trình phân tích số liệu thống kê kết quả bài kiểm tra, bảng
hỏi chúng tôi sẽ rút ra kết luận về tính khả thi và ý nghĩa thực tiễn của đề tài. Kết quả thực nghiệm sẽ
được đánh giá trên các mặt sau:
- Sự hứng thú của HS đối với việc vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy loại bài thực hành kĩ
năng sử dung tiếng việt lớp 10 thông qua quan sát trực quan (không khí lớp học và các câu trả lời của
HS); bảng hỏi;
- Hiệu quả của giờ học được đánh giá thông qua kết quả của các bài kiểm tra.
3.2. Kết quả thực nghiệm
3.2.1. Kết quả bài kiểm tra mức độ nhận thức của học sinh sau bài học: Thực hành biện pháp tu
từ ẩn dụ và hoán dụ, tại 2 lớp thực nghiệm và đối chứng.
Bảng 3.1: Kết quả thực nghiệm
Lớp
Số học
sinh
Kết quả thực nghiệm (%)
Loại Giỏi

Loại Khá
Loại
Trung
Loại yếu
Loại Kém
Bình
Thực
nghiệm
50
23 HS
46 %
18 HS
36 %
8 HS
16 %
0 HS
0 %
0 HS
0 %
Đối
chứng
50
14 HS
28 %
14 HS
28 %
18 HS
36 %
4 HS
8 %

0 HS
0 %

Qua kết quả của bài kiểm tra nhanh trên có thể nhận thấy, mức độ đạt được kiến thức của học
sinh ở lớp thực nghiệm và lớp đối chứng có sự chênh lệch rất rõ ràng. Ở lớp đối chứng, tỉ lệ học sinh
có bài kiểm tra đạt loại Giỏi và Khá chỉ chiếm 56% trong khi đó tỉ lệ này ở lớp thực nghiệm là 82%.
Ở lớp đối chứng, tỉ lệ học sinh có bài kiểm tra xếp loại trung bình chiếm nhiều nhất so với các mục
xếp loại khác (tỉ lệ TB là 36%), trong khi đó, ở lớp thực nghiệm, tỉ lệ học sinh có bài kiểm tra đạt
loại Giỏi lại cao nhất với 46%.
3.2.2. Kết quả bài trắc nghiệm về mức độ hứng thú của học sinh sau khi học bài : Thực hành biện
pháp tu từ ẩn dụ và hoán dụ tại lớp thực nghiệm.

Bảng 3.2: Điều tra về mức độ hứng thú của học sinh sau giờ học thực nghiệm
Mức độ
Rất
hứng thú
Hứng
thú vừa phải
Không
hứng thú
Không ý
kiến
50 học
sinh lớp thực
nghiệm
41
82 %
8
16 %
1

2 %
0
0 %

82% số học sinh tỏ ra rất hứng thú với giờ học mà các em đã học chứng tỏ hiệu quả của việc
vận dụng biện pháp tích hợp vào dạy học đã tạo được hứng thú học tập cho HS.
Với câu hỏi thứ 2, khi hỏi về mức độ hứng thú của học sinh thay đổi thế nào giữa việc học
trong giờ học tiếng Việt có tích hợp với kiến thức của phần Văn, Làm văn và kiến thức trong các
môn học khác thì hầu hết học sinh đều chọn phương án: Hứng thú đã tăng lên (với 45 học sinh lựa
chọn trên tổng số 50 em). Như vậy, giờ học đã thực sự làm các em cảm thấy thích thú và hơn hết là
làm biến chuyển một năng lực quan trọng ở các em, năng lực hứng thú nhận thức.
Đồng thời qua việc quan sát giờ học chúng tôi nhận thấy, trong giờ học có vận tích hợp HS
sôi nổi, tích cực tham gia phát biểu hơn là trong giờ học theo truyền thống.
Trên đây là một số vấn đề lí luận và biện pháp vận dụng tích hợp vào dạy học loại bài thực
hành kĩ năng sử dụng tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn 10 mà chúng tôi đề ra và tiến hành thực
nghiệm. Qua đó có thể khẳng định vận dụng tích hợp vào dạy học loại bài thực hành tiếng Việt lớp
10 nói riêng và phân môn TiếngViệt nói chung theo quan điểm tích hợp là cần thiết. Tuy nhiên, cũng
phải khẳng định rằng, không có một biện pháp hay phương pháp nào là vạn năng có thể đáp ứng mọi
yêu cầu của dạy học Tiếng Việt nói chung, dạy học loại bài thực hành tiếng Việt lớp 10 nói riêng.
Mỗi một biện pháp đều có ưu điểm, nhược điểm riêng, điều quan trọng là chúng ta phải biết lựa chọn
và sử dụng kết hợp các biện pháp dạy học khác nhau như thế nào để có hiệu quả nhất. Điều này còn
tùy thuộc vào khả năng nghiệp vụ sư phạm và chuyên môn của mỗi giáo viên.
KẾT LUẬN
1.1. kết luận
Trên cơ sở nghiên cứu lí thuyết và dựa trên kết quả thực nghiệm, chúng tôi xin nêu ra một số
kết luận sau:
Thứ nhất: Vận dụng biện pháp tích hợp vào dạy học loại bài thực hành kĩ năng sử dụng tiếng
Việt đem lại hiệu quả cao. Nếu với cách dạy theo truyền thống, khiến giờ học Tiếng Việt trở nên khô
khan, HS không hứng thú, chưa nhận thấy được vai trò quan trọng của nội dung thực hành thì bằng
việc vận dụng tích hợp vào dạy học làm cho HS thực sự say mê, thích thú với tiết học. Vì thế HS chủ

động chiếm lĩnh tri thức, biết cách vận dụng các tri thức đó vào phần Văn học, Làm văn và các môn
học khác, cũng như thực tế giao tiếp trong cuộc sống.
Thứ hai: Với thực trạng dạy phần Tiếng Việt nói chung, loại bài thực hành tiếng Việt nói
riêng như hiện nay thì việc nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp để dạy Tiếng Việt theo định
hướng tích hợp đáp ứng yêu cầu của việc đổi mới chương trình, SGK và thực tiễn xã hội là một việc
làm rất cần thiết. Nếu thực hiện tích hợp một cách hợp lý sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiểu quả
dạy học nói chung.
Thứ ba: Để việc vần dụng biện pháp tích hợp vào dạy học thực hành tiếng Việt đạt được hiệu
quả cao nhất thì GV đứng lớp phải được trang bị một cách đầy đủ kiến thức về tích hợp. Mặt khác
phải nắm chắc chương trình, có sự tìm tòi, nghiên cứu kĩ lượng để có thể xác định nôi dung cũng như
phạm vi tích hợp sao cho phù hợp với nội dung bài học cũng như là đối tượng HS. Tích hợp trong
dạy học là cần thiết tuy nhiên cần phải tránh tuyệt đối hoá quan điểm này dẫn đến việc áp dụng nó
một cách khiên cưỡng. Như thế sẽ dẫn tới tình trang phá vỡ đặc trưng của từng phần, từng môn học.
1.2. Khuyến nghị
1.2.1. Đối với Sở giáo dục và đào tạo
Thường xuyên tổ chức tập huấn cho giáo viên, tổ chức hội thảo chuyên đề về đổi mới phương
pháp. Hàng năm nên phổ biến những sáng kiến kinh nghiệm đạt giải cao. Khuyến khích, động viên
GV áp dụng đổi mới phương pháp dạy học.
1.2.2. Đối với nhà trường
- Đôn đốc GV viết sáng kiến kinh nghiệm, tạo điều kiện thuận lợi để GV có thời gian nghiên
cứu và áp dụng việc đổi mới phương pháp.
- Có đầy đủ phương tiện, trang thiết bị dạy học, tạo điều kiện cho việc đổi mới phương pháp
1.2.3.Đối với giáo viên
- Tích cực đổi mới phương pháp dạy học trong từng bài dạy, tiết dạy. Thường xuyên tìm hiểu,
đánh giá mức độ hứng thú và nhận thức của học sinh khi GV sử dụng phương pháp mới.
- Phải nắm chắc chương trình các cấp học. Tích cực tiếp cận công nghệ thông tin. Thường
xuyên dự giờ đồng nghiệp để học tập cũng như tự rút kinh nghiệm để hoàn thiện bản thân.


References.

1. TÀI LIỆU TRONG NƯỚC
1. Bộ giáo dục & Đào tạo (2006), SGK Ngữ văn 10, tập 1 – 2, Nhà xuất bản Giáo dục.
2. Bộ giáo dục & Đào tạo (2002), Chương trình THCS môn Ngữ văn, Nhà xuất bản Giáo dục.
3. Bộ giáo dục & Đào tạo (2006), Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn, Nhà xuất bản
Giáo dục.
4. Bộ giáo dục & Đào tạo (2006), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên môn Ngữ văn 10, Nhà xuất bản Giáo
dục.
5. Bộ giáo dục & Đào tạo (2006), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên môn Ngữ văn 10 – chương trình
nâng cao, Nhà xuất bản Giáo dục.
6. Bộ giáo dục & Đào tạo (2010), Hướng dẫn chuẩn kiến thức kĩ năng môn Ngữ văn 10, Nhà xuất
bản Giáo dục Việt Nam.
7. Bộ giáo dục & Đào tạo (2006), Sách giáo viên Ngữ văn 10, tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục
8. Bộ giáo dục & Đào tạo (2006), Sách giáo viên Ngữ văn 10, tập 2, Nhà xuất bả Giáo dục
9. Bộ giáo dục & Đào tạo (2002), Sách giáo viên Ngữ văn 10, tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục.
10. Nguyễn Văn Đạm (1999), Từ điển tường giải và liên tưởng tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa
thông tin
11. Đỗ Việt Hùng, Nguyễn Thị Ngân Hoa (2003), Phân tích phong cách ngôn ngữ trong tác phẩm
văn học, Nhà xuất bản Đại học sư phạm.
12. Đỗ Việt Hùng (2011), Nghĩa của tín hiệu ngôn ngữ, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
13. Nguyễn Thanh Hùng (2006), “Tích hợp trong dạy học Ngữ văn”, Tạp chí Khoa học Giáo dục
(6)
14. Nguyễn Thanh Hùng (2009), Giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đại
học Sư phạm Hà Nội.
15. Trần Bá Hoành (2006), “Dạy học tích hợp”, Tạp chí Khoa học Giáo dục (12)
16. Phan Trọng Luận (2006), “Về chương trình Ngữ văn và sách giáo khoa chuẩn lớp 10”, Dạy và
học ngày nay (6).
17. Đoàn Kim Nhung (2006), Phương pháp dạy học Ngữ văn ở THCS theo hướng tích hợp và tích
cực, Nhà xuất bản ĐHQG TP. Hồ Chí Minh.
18. Đỗ Chu Ngọc (2003), “Chống tích hợp trong dạy học Ngữ văn mà không hiểu ngữ, không hiểu
văn, không hiểu tích hợp”,Tạp chí Thế giới trong ta, (1).

19. Hoàng Phê (2005), Từ điển tiếng Việt Nhà xuất bản Đà Nẵng
20. Nguyễn Ánh Tuyết (2001), “Từ tích hợp trong chương trình nuôi dạy trẻ đến tích hợp trong
chương trình đào tạo giáo viên mầm non”, Tạp chí giáo dục (1)
21. Nguyễn Thị Hồng Vân (2004), Luận án Hệ thống đề kiểm tra nhằm đánh giá năng lực Ngữ văn
THCS theo yêu cầu tích hợp
2. TÀI LIỆU NƯỚC NGOÀI
22. Lêvitôp (1963), Tâm lý học lao động. Matxcơva,
23. Platonôp.K.K (1977), Tâm lý học, Matxcơva
24. Xavier Roegiers (1996), Khoa sư phạm tích hợp hay làm thế nào để phát triển năng lực ở nhà
trường, Nhà xuất bản Giáo dục

×