Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Tiểu luận: Quan điểm triết học mác lênin về con người, vận dụng quán triệt quan điểm của đảng về phát triển văn hóa, con người ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.12 KB, 33 trang )

MỞ ĐẦU
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều quan điểm khác nhau xung
quanh vấn đề nguồn gốc và bản chất của con người. Trước C.Mác, vấn đề bản
chất con người chưa được giải đáp một cách khoa học. Chỉ đến khi hình thành
quan niệm duy vật lịch sử về con người, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã
khẳng định vai trò cải tạo thế giới, làm nên lịch sử của con người. Điều đó đã
được thể hiện trong Luận cương về Phoiơbăc, C.Mác viết: “Bản chất con người
không phải là cái trừu tượng cố hữu của những cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà của những quan hệ xã hội”1.
Ở Việt Nam, qua các kỳ đại hội đến nay Đảng, Nhà nước ta luôn xác định
xây dựng và phát triển con người là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam. Muốn thốt khỏi tình
trạng nghèo nàn, lạc hậu, nâng cao đời sống nhân dân... thì khơng cịn con
đường nào khác là chúng ta phải chăm lo xây dựng và phát triển nguồn lực con
người, nhất là trong thời đại ngày nay khi nền kinh tế tri thức đang phát triển
mạnh mẽ, loài người bước sang thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (cách
mạng 4.0), do đó địi hỏi u cầu cao hơn về xây dựng và phát triển con người
đáp ứng mọi điều kiện trong thời kỳ mới.
Với mong muốn làm sáng rõ, sâu sắc hơn về luận điểm của C. Mác về bản
chất con người, từ đó vận dụng vào quá trình xây dựng và phát triển con người
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy tác giả lựa chọn đề tài tiểu luận:
Quan điểm triết học Mác - Lênin về con người, vận dụng quán triệt quan
điểm của Đảng về phát triển văn hóa, con người ở nước ta hiện nay”. Qua
tiểu luận góp phần khẳng định tính đúng đắn của quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về bản chất con người từ đó rút ra cho mỗi cá nhân nhận thức sâu sắc hơn
về quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng và
phát triển con người Việt Nam, từ đó vận dụng vào quá trình xây dựng và phát
triển con người trong quân đội trong giai đoạn hiện nay.
1 C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.11.

1



NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ CON NGƯỜI
1. Quan điểm triết học ngồi mácxít về con người
Trong lịch sử triết học đã có nhiều quan điểm khác nhau về con người,
bản chất con người. Đây là một trong những vấn đề quan trọng nhất của thế giới
từ trước tới nay và luôn được các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu phân tích
một cách sâu sắc nhất. Không những thế trong nhiều nghiên cứu của xã hội xưa
và nay thì nghiên cứu về con người là một trung tâm được các nhà khoa học cổ
đại đặc biệt chú ý. Từ các lĩnh vực tâm lý học, sinh học, y học, đến triết học, xã
hội học.v.v... đã quan tâm đến con người và không ngừng nghiên cứu về nó. Mỗi
lĩnh vực nghiên cứu đó đều có ý nghĩa riêng đối với sự hiểu biết và tăng hiểu
biết cho con người. Khi đề cập tới vấn đề con người các nhà triết học để tự hỏi:
Thực chất con người là gì và để tìm cách trả lời câu hỏi đó phải giải quyết hàng
loạt mâu thuẫn trong chính con người. Càng ngày các nhà triết học tìm ra được
bản chất của con người và không ngừng khắc phục, hồn thiện lý luận trước đó.
a) Quan điểm triết học phương Đông
Triết học phương Đông quan niệm về con người trên cơ sở thế giới quan
duy tâm, thần bí hoặc nhị nguyên luận, quan niệm con người là tiểu vũ trụ, giải
quyết quan hệ người - người là gốc để giải quyết các quan hệ khác. Sức mạnh
của con người được hướng vào cải tạo chính con người. Tiêu biểu là trong triết
học Phật giáo (Ấn độ) và Nho giáo, Đạo giáo (Trung Quốc).
* Phật giáo không thừa nhận đấng sáng thế (Brahmam) tạo ra con người,
con người là sự kết hợp giữa sắc và danh (vật chất và tinh thần). Coi con người
khác con vật là có tâm và có thức. Đời sống con người trên trần thế chỉ là ảo
giác, hư vơ; cuộc đời con người khi cịn sống chỉ là sống gửi, là tạm bợ. Cuộc
sống vĩnh cửu là ở cõi Niết bàn, nơi tinh thần con người được giải thốt để trở
thành bất diệt. Tính người có hai thuộc tính: tính Phật và tính trần tục.
* Nho giáo thừa nhận có lực lượng siêu tự nhiên chi phối, quyết định sự
tồn tại, vận động và phát triển của sự vật, của con người. Theo Khổng Tử, Trời


2


là thuỷ tổ của con người, con người có số mệnh là do Trời quy định và mỗi
người có định mệnh khác nhau, ông đưa ra chủ trương nhập thế “Tu thân, tề gia,
trị quốc, bình thiên hạ” và tư tưởng “hữu giáo vơ loại”.. Tìm bản chất con người
ở phương diện đạo đức. Đồng thời, cho rằng con người khác con vật ở chỗ biết
hợp quần. Nho giáo đã xem xét con người trong các mối quan hệ xã hội, song
hạn chế là không thấy được con người trong quan hệ kinh tế.
* Đạo giáo: Lão Tử cho rằng “Đạo” là gốc của vạn vật, con người là do
“Đạo” sinh ra và ông khuyên răn con người sống “Vô vi”, “Vô kỷ”. Con người
là một bộ phận của tự nhiên và thần bí hố bản chất xã hội của con người.
Mặc dù chưa tìm thấy được những quan hệ cốt lõi trong việc cải tạo con
người và xã hội lồi người, nhưng những triết gia phương Đơng cũng có những
cống hiến quan trọng trong các giải pháp cải tạo xã hội, con người về đạo đức,
về giáo dục, về nhân sinh quan... Song, do trình độ khoa học cịn hạn chế mà các
quan điểm đó chưa được lý giải đầy đủ và sâu sắc.
b) Quan điểm triết học phương Tây
* Quan điểm duy tâm và tôn giáo: con người là do thần thánh, do lực
lượng siêu nhiên tạo ra, cuộc sống của con người là do Trời, thần sắp đặt, an bài.
- Quan điểm duy tâm: Platôn cho rằng, con người được cấu thành từ thể
xác và linh hồn, thể xác chỉ là chỗ trú ngụ tạm thời của linh hồn. G.V.Ph.Hêghen
cho rằng, mọi sự vật hiện tượng xung quanh ta, từ những sự vật tự nhiên cho đến
những sản phẩm hoạt động của con người chỉ là hiện thân của “thần tuyệt đối”.
Con người là sản phẩm và cũng là giai đoạn phát triển cao nhất của tinh thần tuyệt
đối, hiện thân của “ý niệm tuyệt đối”, là bước cuối cùng của cuộc diễu hành của ý
niệm tuyệt đối trên trái đất. Pitago, mọi vật và con người có nguồn gốc từ con số.
Con người có thể xác và linh hồn, trong đó linh hồn là bất tử. Xơcrát cho rằng có
hai hạng người đối lập, trong đó chỉ có q tộc là có đạo đức chân chính, cịn nơ

lệ khơng có đạo đức. Aritxtốt cho rằng mọi sinh vật đều có linh hồn, thực vật có
linh hồn thực vật; động vật có linh hồn cảm tính; con người có linh hồn lý tính. Vị
trí linh hồn là ở trái tim. Đặc biệt, với quan niệm con người là một động vật chính

3


trị, ông đã đặt vấn đề nghiên cứu cả mặt tự nhiên và mặt xã hội của con người.
- Quan điểm tôn giáo: Theo Kitô giáo, con người do Chúa sáng tạo, con
người có thể xác và linh hồn. Thể xác mất đi, linh hồn sẽ còn lại. Thể xác và linh
hồn đối lập nhau như cái thấp hèn và cái cao thượng. Con người phải cứu vớt
linh hồn của mình, phải chăm lo phần linh hồn cao quý. Nhà thần học
Ôguýtxtanh cho rằng Chúa là lực lượng siêu tự nhiên, định đoạt mọi số phận của
con người, ban phước hoặc trừng phạt con người. Theo Tômát Đacanh, Chúa
Trời sinh ra giới tự nhiên và con người, con người là hình ảnh của Chúa. Linh
hồn con người được tạo ra cùng với Chúa tạo ra con người. Trật tự các sự vật do
Chúa sắp đặt là: Chúa Trời - thần thánh - con người - các sự vật khơng có linh
hồn.
* Quan điểm duy vật thời kỳ cổ đại: giải thích nguồn gốc, bản chất con
người theo quan điểm duy vật thô sơ, mộc mạc; cho con người là một bộ phận
cấu thành của thế giới, là một bản nguyên vật chất xác định. Đêmơcrít cho rằng,
mọi sinh vật và con người đều cấu tạo từ nguyên tử, linh hồn con người cũng là
vật chất, dược cấu tạo từ nguyên tử. Sự khác nhau giữa con người và con vật là
ở chỗ trong cơ thể con người có nhiều nhiệt lượng hơn và các chất cấu thành nó
sạch sẽ hơn so với động vật.
* Triết học cổ điển Đức:
- Các nhà triết học cổ điển đức, từ Cartơ đến Heghen đã phát triển quan
điểm triết học về con người theo hướng của chủ nghĩa duy tâm. Đặc biệt Heghen
quan niệm con người là hiện thân của ý niệm tuyệt đối là con người ý thức và do
đó đời sống con người chỉ được xem xét về mặt tinh thần. Song Heghen cũng là

người đầu tiên thông qua việc xem xét cơ chế hoạt động của đời sống tinh thần
mà phát hiện ra quy luật về sự phát triển của đời sống tinh thần cá nhân. Đồng
thời Heghen cũng đã nghiên cứu bản chất quá trình tư duy khái quát các quy luật
cơ bản của q trình đó.
- Sau khi đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm Heghen, L.Phoiơbắc đã phê
phán tính siêu tự nhiên, phi thể xác trong quan niệm triết học Heghen, ông quan

4


niệm con người là sản phẩm của tự nhiên, có bản năng tự nhiên, là con người
sinh học trực quan, phụ thuộc vào hồn cảnh, ơng đã sử dụng thành tựu của khoa
học tự nhiên để chứng minh mối liên hệ không thể chia cắt của tư duy với những
quá trình vật chất diễn ra trong cơ thể con người, song khi giải thích con người
trong mối liên hệ cộng đồng thì ơng lại rơi vào lập trường của chủ nghĩa duy
tâm. Theo L.Phoiơbắc, “Bản chất tuyệt đối và cao quý của con người như nó
vốn có và là mục đích cho sự tồn tại của nó nằm ở trong ý chí, tư duy và cảm
xúc”. Con người trong quan niệm của L.Phoiơbắc là con người tự nhiên, sinh
vật, chung chung, trừu tượng, phi lịch sử, phi giai cấp.
C.Mác đã nhận xét: “L.Phoiơbắc đã hịa tan bản chất tơn giáo vào bản
chất con người... ở L.Phoiơbắc bản chất con người chỉ có thể được hiểu là
“lồi”, là tính phổ biến nội tại, câm, gắn bó một cách thuần túy tự nhiên đông
đảo cá nhân lại với nhau”2.
Các quan niệm triết học nói trên đã đi đến những cách thức lý luận xem
xét người một cách trừu tượng. Đó là kết quả của việc tuyệt đối hoá phần hồn
thành con người trừu tượng. Tự ý thức còn chủ nghĩa duy vật trực quan thì tuyệt
đối hố phần xác thành con người trừu tượng. Sinh học, tuy nhiên họ vẫn còn
nhiều hạn chế, các quan niệm nói trên đều chưa chú ý đầy đủ đến bản chất con
người. Tuy nhiên, một số trường phái triết học vẫn đạt được những thành tựu
trong việc phân tích, quan sát con người, đề cao lý tính, xác lập các giá trị về

nhân bản học để hướng con người tới tự do, nhất là cống hiến của L.Phoiơbắc.
Đó là những tiền đề có ý nghĩa cho việc hình thành tư tưởng về con người của
triết học mácxít.
c) Quan điểm triết học ngồi mácxít đương đại về con người
Các trào lưu triết học ngồi mácxít đương đại (chủ yếu là triết học phương
Tây) đã có những cách giải thích khác nhau về con người, tuy có một số hạt
nhân hợp lý nhưng xét đến cùng đều biện hộ cho lập trường của giai cấp tư sản
nên không tránh khỏi rơi vào chủ nghĩa duy tâm và phiến diện.
2 C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.11.

5


* Triết học nhân bản cho rằng, con người mang bản chất vĩnh viễn không
biến đổi trong lịch sử. Họ quy bản chất con người về bản chất tự nhiên sinh học
- nhân bản của nó. Do đó, tìm bản chất của con người không phải ở các quan hệ
xã hội của họ, mà là ở cái bản thể sinh học của họ, theo đó, lịch sử xã hội cũng
khơng khác lịch sử sinh học - tự nhiên. Thậm chí, họ còn coi con người là sinh
vật tiêu cực, hoạt động của con người được quy về hoạt động thuần túy bản
năng, kể cả hoạt động xã hội cũng chỉ là sinh hoạt bầy đàn nhằm bảo toàn cuộc
sống sinh học như giá trị tối cao.
* Chủ nghĩa hiện sinh cho rằng, con người như một chủ thể tưởng tượng
cô độc, bị tha hóa bởi chính sản phẩm họ làm ra. Con người trong chủ nghĩa
hiện sinh sống khơng có niềm tin vào thế giới, vào tương lai và vào người khác.
Bởi vì, theo triết học hiện sinh, khi giữa xã hội và cá nhân có liên hệ chặt chẽ thì
sự tồn tại của cá nhân sẽ khơng cịn là cá nhân thực sự mà là cá nhân đã bị đối
tượng hóa, bị mất cá tính do bị ràng buộc với người khác và với xã hội. Để khôi
phục sự hiện sinh của mình, con người cần thốt khỏi sự ràng buộc của những
người khác và xã hội để được tự do. Khi đã tự do tuyệt đối thì tự bản thân sử
dụng cuộc đời của mình, đó là tự xác định bản chất của mình.

* Chủ nghĩa thực chứng mới giải thích xã hội và con người bằng các luận
điểm có tính chất tự nhiên chủ nghĩa. Chủ nghĩa thực chứng mới trình bày con
người trong sự tha hóa nhưng khơng quan tâm đến truy tìm ngun nhân và cách
thức giải quyết sự tha hóa. Họ đề cao sự hiểu biết tùy tiện về con người và xã
hội, xác định giá trị cho con người một cách hoàn toàn chủ quan, thực chất là
mang tính chủ nghĩa cá nhân.
* Chủ nghĩa Phơrớt coi bản năng tính dục của con người là cơ sở duy nhất
cho các hoạt động của con người, tức là hạ thấp con người xuống hàng động vật
ở mặt tâm lý. Đây là điều hết sức sai lầm và không đúng với bản chất con người.
Như vậy, trong suốt quá trình lịch sử lâu dài, việc con người tự nhận thức
về bản thân mình đã được nâng lên không ngừng, cùng với việc nhận thức tự
nhiên và xã hội. Các quan điểm trước Mác về con người chưa thoát khỏi quan

6


điểm vật siêu hình hoặc duy tâm thần bí. Nhưng chúng ta cũng thấy rằng trong
lịch sử, rất nhiều vấn đề về con người chưa được giải quyết một cách thoả đáng,
căn bản và triệt để. Lồi người chỉ có thể tìm thấy câu trả lời xác đáng cho mọi
vấn đề về con người trong triết học Mác-Lênin.
2. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về con người
a) Khái niệm con người
Trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử xã hội và về con
người, triết học Mác – Lênin đã đem lại quan niệm hoàn chỉnh về con người.
Theo quan điềm chung nhất, con người là thực thể sinh học xã hội.
Con người là sinh vật có tính chất xã hội, vừa là sản phẩm cao nhất trong
q trình tiến hóa của tự nhiên và lịch sử xã hội, vừa là chủ thể sáng tạo mọi
thành tựu văn hóa trên Trái đất. Triết học Mác – Lênin đã chỉ rõ tính hai mặt, hai
yếu tố cơ bản cấu thành con người là mặt sinh học và mặt xẫ hội. Con người có
mặt tự nhiên, vật chất, nhục thể, sinh vật, tộc loại... Đồng thời, con người có mặt

xã hội, tinh thần, ngơn ngữ, ý thức, tư duy, lao động, giao tiếp, đạo đức. Hai mặt
đó hợp thành một hệ thống năng động, phức tạp, luôn ln biến đối, phát triển.
Về vai trị của con người, triết học Mác – Lênin khẳng định con người là chủ thể
hoạt động thực tiễn. Bằng hoạt động thực tiễn, con người sáng tạo ra mọi của cải
vật chất, tinh thần, đồng thời sáng tạo ra cả bộ óc và tư duy của mình.
b) Các phương diện tiếp cận nguồn gốc, bản chất con người
* Sự hình thành, phát triển con người là một quá trình gắn liền với lịch sử
sản xuất vật chất
Triết học Mác Lênin xuất phát từ quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử
đã tiếp cận sự hình thành, phát triển con người trong lịch sử sản xuất vật chất, từ
đó khẳng định lao động là điều kiện chủ yếu quyết định sự hình thành, phát triển
của con người. Chính trong lao động, thơng qua lao động mà con người biến đổi
điều kiện tự nhiên bên ngoài; làm biến đổi bản chất tự nhiên, cải tạo bản năng
sinh học của con người; đồng thời, hình thành và phát triển những phẩm chất xã
hội của mình.

7


Con người khác con vật ở chỗ, con vật sống dựa hồn tồn vào tặng phẩm
của tự nhiên, cịn con người phải bằng lao động sản xuất để cải tạo tự nhiên,
sáng tạo ra của cải vật chất, thoả mãn nhu cầu ngày càng phát triển của mình.
Lịch sử sản xuất vật chất cũng là lịch sử con người cải tạo tự nhiên phù hợp với
nhu cầu tồn tại và phát triển của mình. Mác khẳng định rằng nhờ sản xuất mà
giới tự nhiên biểu hiện ra là tác phẩm của con người, làm cho tự nhiên “có tính
người”, tự nhiên được “nhân loại hoá”. Lịch sử phát triển của tự nhiên gắn bó
hữu cơ với lịch sử phát triển của xã hội lồi người. Chính vì vậy, Mác nhấn
mạnh: Con người đứng trước một tự nhiên có tính lịch sử và một lịch sử có tính
tự nhiên.
Con người được chuẩn bị như thế nào về mặt sinh học để có khả năng lao

động và trở thành chủ thể sáng tạo là vấn đề do ngành Sinh học và các khoa học
tự nhiên có nhiệm vụ tiếp tục làm sáng tỏ. Tuy nhiên, triết học Mác – Lênin
khẳng định thông qua lịch sử sản xuất vật chất, nhờ lao động mà một lồi sinh
vật mới ra đời, đó là Homo sapiens – con người có lí tính, mang tính chất xã hội.
Lao động đã biến đổi bản chất tự nhiên của tổ tiên loài người. Khoa học đã
chứng minh rằng con người là một tổ chức sinh vật có trình độ phát triển cao
nhất trên hành tinh, từ một loài sinh vật có xương sống phát triển lên, là nấc
thang cao nhất trong lịch sử tiến hoá của các giống loài qua hàng trăm triệu năm.
Lao động đã cải tạo bản năng sinh học của con người, bắt bản năng phục tùng lí
trí, phát triển bản năng con người thành một trạng thái mới về chất. Mác cho
rằng: “Trong con người, ý thức thay thế bản năng, hoặc bản năng con người là
bản năng đã được ý thức”3. Lao động là điều kiện chủ yếu quyết định sự hình
thành phát triển phẩm chất xã hội của con người. Trong lao động tất yếu hình
thành quan hệ xã hội, thơng qua hoạt động giao tiếp hình thành lên ngơn ngữ,
nhận thức, tình cảm, ý chí và cả phương pháp tư duy của con người... Chính vì
vậy, Ăngghen khẳng định: Trên ý nghĩa cao cả nhất thì lao động sáng tạo ra
chính bản thân con người.
3 C.Mác và Ăngghen, Toàn tập, t.3, sđd., tr.44.

8


Nhờ lao động mà con người vừa tách khỏi tự nhiên, vừa hoà nhập với tự
nhiên trở thành một thực thể sáng tạo. Hoạt động lịch sử đầu tiên mang ý nghĩa
sáng tạo chân chính của con người là chế tạo ra công cụ lao động. Con người bắt
đầu lịch sử của mình từ đó. Nhờ cơng cụ lao động – tư liệu của mọi tư liệu, sức
mạnh vật chất đầu tiên mà con người tách khỏi tự nhiên, tách khỏi loài vật với tư
cách là một chủ thể hoạt động thực tiễn xã hội. Đồng thời bằng hoạt động cải tạo
tự nhiên, con người hoà nhập với tự nhiên, biến “tự nhiên thứ nhất” thành “tự
nhiên thứ hai”, “tự nhiên thứ ba”... sáng tạo ra của cải, tri thức, tinh thần. Như

vậy sáng tạo là thuộc tính tối cao của con người. Bản chất con người là sáng tạo
ngay từ đầu với đầy đủ ý nghĩa của nó.
* Con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội.
Triết học Mác – Lênin tiếp cận con người trong tính tồn vẹn, khẳng định
con người là một chỉnh thể tồn tại và phát triển trong sự thống nhất giữa mặt
sinh học và mặt xã hội. Đây là một chinh thể phức tạp, năng động. luôn luôn vận
động, phát triển.
Về mặt sinh học, con người tồn tại ở cấp độ cơ thể, biểu hiện trong các
hiện tượng sinh lí, di truyền, thần kinh, điện – hố và các quá trình khác của cơ
thể. Về mặt này, con người phục tùng các quy luật của tự nhiên, sinh học. Về
mặt xã hội, con người tồn tại ở cấp độ nhân cách, biểu hiện trong những quá
trình ý thức, tính cách, tính khí... là chủ thể quan hệ xã hội, lao động, giao tiếp,
tinh thần... Về mặt này, con người phục tùng các quy luật xã hội.
Con người tồn tại và phát triển trong tính tồn vẹn thống nhất của hai quá
trình sinh học và xã hội. Sự hình thành phát triển con người thơng qua một q
trình thống nhất giữa cơ chế di truyền và hoạt động xã hội. Cơ chế di truyền
quyết định quá trình tiến hoá sinh học của con người, tạo nên cơ sở sinh học cho
sự tiến hố xã hội. Q trình gia nhập hoạt động xã hội, gia nhập vào bối cảnh
văn hoá lịch sử của quần thể xã hội đã quyết định sự hình thành phát triển những
phẩm chất xã hội của con người. Đây là một quá trình thống nhất và phức tạp.
Trong đó, cơ chế di truyền khơng chỉ quyết định về mặt sinh học là chủ yếu mà

9


cịn gắn liền với sự hình thành phát triển “bản năng xã hội” của con người.
Ngược lại, quá trình tập nhiễm trong cuộc sống xã hội không chỉ quyết định mặt
xã hội của con người mà còn cải biến mặt sinh học, làm cho cái sinh học thích
nghi với hoạt động xã hội. Chính vì vậy, Ăngghen cho rằng giới tự nhiên đạt đến
trình độ tự nhận thức được mình đó là con người.

* Con người tồn tại, phát triển trong mơi trường cư trú và mang thuộc tính
xã hội – hành tinh – vũ trụ
Triết học Mác – Lênin tiếp cận con người trong hệ thống con người – môi
trường cư trú, từ Trái đất đến vũ trụ. Môi trường là điều kiện cần thiết cho sự tồn
tại và phát triển của con người. Đó là tồn bộ hồn cảnh tự nhiên và xã hội được
thu hút vào quá trình đời sống con người. Theo nghĩa rộng nhất, mơi trường bao
gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Con người tồn tại trong hệ thống tương tác của tất cả các lực lượng tự
nhiên. Con người là một bộ phận của tự nhiên, giao tiếp với tự nhiên và phụ
thuộc vào tự nhiên. Con người thuộc về giới tự nhiên, nằm trong giới tự nhiên,
sống trên hành tinh và phụ thuộc vào các q trình cơ, lí, hố, sinh học của hành
tinh. Con người phụ thuộc vào các hiện tượng tự nhiên mà trong đó nhiều hiện
tượng ở trình độ khoa học hiện nay chưa giải thích được. Con người giao tiếp và
phụ thuộc vào tự nhiên ở cả cấp độ chức năng – cơ thể và cấp độ cảm xúc - tinh
thần. Khoa học tự nhiên đã phát hiện sự tương tác giữa “nhịp điệu vũ trụ” với
“nhịp điệu sinh học”. Điều đó nói lên con người mang thuộc tính xã hội – hành
tinh – vũ trụ và phụ thuộc vào môi trường.
Con người tồn tại trong mơi trường xã hội, thơng qua xã hội mà thích nghi
với tự nhiên. Bởi vì, xã hội là một bộ phận của giới tự nhiên, một kết cấu vật
chất đặc thù của giới tự nhiên. Toàn bộ quần thể xã hội hoạt động trong giới tự
nhiên, chỉ có thể tồn tại và phát triển trong mối quan hệ hài hoà với tự nhiên.
Mác khẳng định: “Chừng nào lồi người cịn tồn tại thì lịch sử của họ và lịch sử
tự nhiên quy định lẫn nhau”4. Như vậy, bản chất con người là tổng hoà các thuộc
4 C.Mác và Ăngghen, Toàn tập, t.1, sđd., tr.267.

10


tính tự nhiên – sinh học – xã hội.
* Con người là một thực thể cá nhân – xã hội

Con người vừa là một chỉnh thể đơn nhất, vừa mang những phẩm chất của
hệ thống các quan hệ xã hội. Đó là một hệ thống năng động, phát triển thống
nhất giữa cái chung, cái đặc thù và cái riêng. Trước hết, con người là một nhân
cách mang đặc trưng chung, đại biểu cho nhân loại, tộc loại. Thuộc tính chung
nhất và cao nhất của con người là sáng tạo. Con người mang những phẩm chất
đặc thù đại biểu cho một xã hội lịch sử - cụ thể, đại biểu cho một dân tộc, giai
cấp, tập đoàn xã hội, tập thể, nhóm xã hội, gia đình... Những phẩm chất xã hội
của con người mang dấu ấn của một thời đại lịch sử và những quan hệ xã hội cụ
thể. Những phẩm chất riêng có của mỗi người là cái đơn nhất, cái đặc thù của cá
nhân tạo nên kinh nghiệm, tính đơn nhất về tâm lí xã hội của mỗi người. Cái
riêng của con người do đặc điểm di truyền, do điều kiện sống riêng của mỗi
người quy định. Nhờ những phẩm chất riêng mà phân biệt được giữa cá nhân
này và cá nhân khác về trí tuệ, tình cảm, ý chí, động cơ hành động, tính cách...
Mác nói: “Con người là một thực thể xã hội mang tính cá nhân”5.
* Sự thống nhất biện chứng giữa con người giai cấp và con người nhân
loại
Con người mang tính nhân loại. Đây là thuộc tính vốn có hình thành trong
suốt chiều dài lịch sử của cuộc sống cộng đồng phổ biến rộng lớn nhất. Tính
nhân loại thể hiện trong thuộc tính chung nhất cao nhất của con người là sáng
tạo và trong những giá trị văn hoá chung mà nhân loại đạt được. Tính nhân loại
cịn được thể hiện trong những quy tắc chuẩn mực của cuộc sống chung được
hình thành như những đạo lí. Tính nhân loại thể hiện trong những giá trị chung
mà con người quan tâm như nhân đạo, dân chủ, cơng bằng xã hội, hồ bình, bảo
vệ mơi trường sinh thái... Cơ sở của tính nhân loại là từ bản chất xã hội của con
người, do yêu cầu khách quan của cuộc sống cộng đồng là con người phải dựa
vào người khác, nương tựa vào nhau để tồn tại và phát triển.
5 C.Mác và Ăngghen, Những tác phẩm đầu tay, Mátxcơva, tr.590.

11



Trong xã hội có giai cấp, con người mang tính giai cấp. Mỗi người là một
thành viên của giai cấp mang địa vị kinh tế xã hội của giai cấp đó. Địa vị kinh tế
xã hội mang tính khách quan, do toàn bộ điều kiện sinh hoạt vật chất quy định,
mặc dù mỗi thành viên giai cấp có thể ý thức được hoặc khơng ý thức được địa
vị của mình.
Tính giai cấp và tính nhân loại trong con người vừa đồng nhất vừa khác
biệt. Con người tồn tại thông qua những cá nhân hiện thực với tư cách là các chủ
thể hành động xã hội. Tính nhân loại vĩnh hằng. Bởi vì, trật tự kinh tế, chính trị
xã hội có thể bị thay đổi, nhưng quy luật con người luôn luôn phải biết dựa vào
người khác, khai thác sự phong phú của người khác để tồn tại, làm phong phú
cho mình là khơng bao giờ mất đi. Mặt khác, trong xã hội còn chế độ tư hữu về
tư liệu sản xuất, cịn quan hệ đối kháng giai cấp thì con người cịn mang tính giai
cấp. Các giai cấp và các hệ thống xã hội tương ứng vẫn là chủ thể chủ yếu của
xã hội hiện thực. Khơng bao giờ có một “lợi ích nhân loại thuần khiết”. Nó được
phản ánh trong nhận thức, trong hoạt động thực tiễn không tách rời lợi ích các
giai cấp.
Con người thống nhất biện chứng giữa tất yếu và tự do Hoạt động của con
người bị chi phối bởi tính tất yếu. Tính tất yếu tồn tại dưới hình thức các quy
luật khách quan. Mặc dù con người nhận thức được quy luật khách quan hay
khơng thì lịch sử xã hội vẫn vận động phát triển theo quy luật. Hoạt động của
con người biểu hiện ra như là tất yếu “mù quáng”. Con người tự do là con người
nhận thức sâu sắc quy luật và hoạt động tự giác. Tự do là tiền đề, điều kiện cho
hoạt động sáng tạo của con người.
Hoạt động của con người là sự thống nhất giữa tất yếu và tự do. Hoạt
động con người có ý thức là hoạt động tiếp cận dần, nắm bắt quy luật khách
quan làm tiền đề cho sự sáng tạo. Lịch sử xã hội loài người là lịch sử con người
vươn lên giành lấy tự do ngày càng cao hơn. Con người muốn tự do, trước hết
phải được giải phóng về mặt xã hội, phải có chế độ kinh tế xã hội tạo điều kiện
tốt nhất cho hoạt động con người vươn tới tự do. Một xã hội bao gồm trong đó


12


những con người phát triển tự do, tồn diện chính là mục tiêu của chủ nghĩa
cộng sản.
* Hiện tượng tha hoá của con người
Triết học Mác Lênin nghiên cứu sự hình thành, phát triển con người trong quá trình lịch sử, khẳng định bên cạnh mặt chủ đạo của con người là sáng
tạo, cịn có hiện tượng con người bị tha hố. Tha hố là q trình xã hội trong đó
hoạt động của con người và sản phẩm của nó biến thành một lực lượng độc lập
thù địch và thống trị lại con người.
Nguồn gốc của tha hoá là do sự phát triển của phân công lao động xã hội
và sự xuất hiện chế độ tư hữu. Triết học Mác – Lênin nghiên cứu những dấu
hiệu đặc trưng của sự tha hoá từ các phương diện: sự tha hoá của điều kiện lao
động; sự tha hoá của kết quả lao động; sự tha hố của thiết chế chính trị xã hội;
sự tha hoá của tư tưởng; sự tha hoá của tự nhiên... Khắc phục sự tha hố là một
q trình lâu dài, gắn liền với xoá bỏ chế độ tư hữu. Triết học Mác – Lênin chính
là lí luận triết học về khắc phục sự tha hoá của con người, trước hết là lí luận
giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột.
Như vậy, triết học Mác - Lênin trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng
về lịch sử, tiếp cận con người trong tính chỉnh thể của nó, đem lại một hình ảnh
tồn vẹn, đúng đắn về con người, khơi phục lại địa vị vốn có của con người
trong lịch sử. Triết học Mác – Lênin là học thuyết về sự giải phóng con người, vì
hạnh phúc con người. Đây là cơ sở để bác bỏ những luận điểm tư sản, xét lại cho
rằng triết học Mác bỏ quên vấn đề con người, không xây dựng học thuyết về con
người, chỉ xây dựng học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp.
* Vấn đề giải phóng con người
Tiền đề nghiên cứu triết học của Mác và Ăngghen là xuất phát từ con
người hiện thực – sống và hoạt động thực tiễn. Logic lí luận của Mác và
Ăngghen là đưa thực tiễn vào triết học, có quan niệm đúng đắn về thực tiễn và

vai trò của thực tiễn đối với đời sống xã hội, từ đó, giải đáp được những bí ẩn,
bế tắc của mọi lí luận triết học cũ. Nguyên lí đầu tiên của chủ nghĩa duy vật lịch

13


sử là sản xuất vật chất, đây là cơ sở, nền tảng của sự tồn tại và phát triển đời
sống xã hội. Tiền đề mọi lịch sử xã hội là con người hiện thực, con người thực
tiễn, trước hết là thực tiễn lao động sản xuất. Sản xuất vật chất là phương thức
cơ bản biểu hiện bản chất con người và lối sống xã hội.
Do sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự xuất hiện chế độ tư
hữu mà xuất hiện sự tha hoá con người. Khắc phục sự tha hố chính là một q
trình giải phóng con người. Đấu tranh giai cấp cũng là một q trình khắc phục
sự tha hố con người về mặt xã hội, giải phóng con người khỏi mọi chế độ áp
bức, bóc lột. Thực chất của triết học Mác – Lênin là học thuyết giải phóng con
người, vì sự phát triển toàn diện của con người.
3. Vấn đề con người trong Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Tiếp cận với Chủ nghĩa Mác - Lênin, từ phương pháp luận về vấn đề con
người, trong toàn bộ sự nghiệp hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã lĩnh hội và vận dụng sáng tạo vào điều kiện Việt Nam, xây dựng nên hệ
thống những quan điểm, tư tưởng, nội dung các vấn đề về con người một cách
sâu sắc. Hồ Chí Minh ln coi các vấn đề của con người, bản chất con người, sự
nghiệp trồng người là mục tiêu, là quan tâm thường trực, là trách nhiệm vẻ vang
trong cuộc đời hoạt động của mình. Từ lá thư đầu tiên gửi Cụ Phan Chu Trinh
năm 1913 đến lời di chúc cuối cùng, vấn đề tha thiết nhất mà Hồ Chí Minh
thường đề cập là các vấn đề thuộc về con người. Mong muốn cháy bỏng trong
suốt cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh là làm sao cho dân ta, những
người cùng khổ, trẻ em, thanh niên, phụ nữ, những người già cả đều vui vẻ,
khoẻ mạnh, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành và sống trong
hồ bình, trong tình hữu nghị, tình yêu thương và niềm hạnh phúc.

Hồ Chí Minh quan niệm rằng con người vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa
là động lực phát triển của lịch sử. Con người sinh ra trong xã hội, do đó các
hồn cảnh xã hội làm nảy sinh trong con người cả cái thiện và cái ác. Vì lẽ đó,
khi kiến tạo một xã hội mới, theo quan niệm của Hồ Chí Minh trước hết phải
tích cực, chủ động xây dựng những con người, những nhân cách cho xã hội đó.

14


Xã hội nào cũng có những con người đại diện cho nó. Xã hội phong kiến ở Việt
Nam, có những nhân cách kẻ sỹ, bậc trượng phu, người quân tử làm nòng cốt
xây dựng xã hội ấy. Xã hội tư sản đã coi các thương gia, nhân sỹ, các nhà tư bản
là nịng cốt xây dựng xã hội đó. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mục tiêu phấn đấu
trong cuộc cách mạng của chúng ta là chủ nghĩa xã hội, vì vậy “muốn có chủ
nghĩa xã hội thì trước hết phải có những con người mới xã hội chủ nghĩa”.
Con người xã hội chủ nghĩa vừa là sản phẩm sinh thành của quá trình phát
triển xã hội mới, vừa là kết quả của hoạt động lao động sản xuất tích cực. Con
người xã hội chủ nghĩa là những con người có phẩm chất rất mới mà xã hội cũ
khơng có. Con người xã hội chủ nghĩa khác với nhân cách của kẻ sỹ, thương gia,
trượng phu, quân tử, nhà tư bản. Đó là những con người được hình thành khơng
chỉ gắn với tiến trình cách mạng của nhân dân mà nó cịn phải đại diện cho các
giá trị đạo đức mới, lý tưởng của xã hội mới. Đó là những con người kiên quyết
chống áp bức và bóc lột, coi lao động là nguồn sống, là trách nhiệm, là vinh dự,
là nguồn tạo ra hạnh phúc. Đó là những con người có tình u sâu sắc với đồng
loại, u những người lao động nghèo khổ trên thế giới. Nhân tố cơ bản tạo
thành tính cách của những con người như vậy là tính cách mạng của nó. Cong
người vừa có đạo đức trong sạch, vừa có lý tưởng tiên tiến.
Những quan điểm, tư tưởng trên đây và những lời dạy của Chủ tịch Hồ
Chí Minh: “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân, ta
phải hết sức tránh”, “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm

phải trồng người”, “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có con người
mới xã hội chủ nghĩa” đã trở thành những tư tưởng xuyên suốt toàn bộ sự
nghiệp cách mạng của Đảng ta trong thế kỷ XX, trong những năm đầu và những
năm tiếp theo của thế kỷ XXI.
Thực tế chứng minh rằng, những tư tưởng vĩ đại về con người của các nhà
kinh điển, của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Đảng ta vận dụng sáng tạo vào
điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Con người và nhân tố con người đã trở thành mục
tiêu, động lực của sự phát triển kinh tế xã hội, và “chiến lược con người” được

15


Đảng và Nhà nước ta xác định trong những năm thực hiện công cuộc đổi mới
đất nước, trong hệ thống các chính sách xã hội là phù hợp với điều kiện và hoàn
cảnh nước ta. Mỗi con người Việt Nam sẽ tự vươn lên và khẳng đinh đúng diện
mạo của mình trong đời sống xã hội.
Trước đây, trong một thời gian dài do nhận thức không đúng và thực hiện
không có hiệu quả trên phương diện lý luận cũng như trong thực hiện chính
sách xã hội cho nên khơng phát huy hết được mọi tiềm năng, trí sáng tạo của con
người Việt Nam, coi lợi ích của tập thể là cái cao cả, cái tốt đẹp và hồn thiện
nhất, vì vậy, mà lợi ích của cá nhân, của người lao động bị xem nhẹ, thậm trí cho
rằng quan tâm đến lợi ích cá thể là tính xấu, là cái mà cần phải lên án.... Đặc biệt
là trong thời gian dài của chế độ bao cấp thì đã có lúc lợi ích riêng của cá nhân
bị xem nhẹ, không được khuyến khích phát triển. Như vậy đã làm triệt tiêu động
lực của sự phát triển, làm lu mờ, cũng như không phát huy được tài năng của
mỗi cá nhân và con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội, đánh đồng giữa lợi
ích của nhân tố con người với các nhân tố khác, nói cách khác chỉ thấy con
người như một phương tiện của sự phát triển kinh tế - xã hội.
II. QUÁN TRIỆT QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN VĂN
HÓA, CON NGƯỜI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

1. Các quan điểm của Đảng về phát triển văn hóa, con người Việt
Nam hiện nay
Khơi dậy ý chí, khát vọng phát triển đất nước cường thịnh, phồn vinh,
hạnh phúc của dân tộc và con người Việt Nam
Đại hội XIII xác định lộ trình với các mục tiêu cụ thể: Đến năm 2025, là
nước đang phát triển có cơng nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu
nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước
đang phát triển, có cơng nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Và đến năm
2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trở thành nước phát triển, thu nhập
cao. Đây chính là khát vọng và tầm nhìn của Đảng và Nhân dân ta trong thời đại
16


mới. Để thực hiện được khát vọng và tầm nhìn ấy,
Đại hội XIII xác định: ”Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của
đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc”6. Khơi dậy động lực tinh thần to lớn, vô song của dân tộc, con người
Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, xây dựng đất nước phồn vinh
hạnh phúc; khơi dậy và phát huy giá trị văn hóa, tài năng, trí tuệ, phẩm chất đạo
đức, sức mạnh của con người Việt Nam là trung tâm, là mục tiêu, là nguồn lực
nội sinh, là động lực quan trọng nhất để đạt tới các mục tiêu của phát triển đất
nước. Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, tính cộng đồng, ý chí tự cường, tự
hào dân tộc, lịng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội và khát vọng
phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, dân tộc cường thịnh, trường tồn là
một phương hướng cơ bản đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, tất cả các
cấp, các ngành phải quán triệt trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, chứ
không phải chỉ đối với riêng ngành văn hóa. Nếu như trong sự nghiệp giải phóng
dân tộc trước đây, khát vọng độc lập, tự do, tinh thần “Không có gì q hơn độc

lập tự do” và quyết tâm “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ” là động lực tinh thần to lớn đưa Nhân dân ta
nhất tề đứng lên chống giặc ngoại xâm, giành độc lập tự do, thì ngày nay, khát
vọng phát triển đất nước cường thịnh, phồn vinh, hạnh phúc cần và phải là động
lực tinh thần to lớn đưa Nhân dân ta xây dựng thành công một nước Việt Nam
phát triển hiện đại “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Khát
vọng phát triển đất nước cường thịnh, phồn vinh, hạnh phúc ngày nay cũng
chính là mong muốn, khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bởi như Người đã
chỉ rõ: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì”7.

6 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr.34.
7 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.4, tr.64.

17


Lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam làm nền tảng, sức mạnh nội sinh
quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững đất nước
Đại hội XIII xác định: “Lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam làm nền
tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững” 8. Điều đó,
địi hỏi phải ra sức kế thừa và phát huy giá trị lịch sử, truyền thống văn hóa của
dân tộc và con người Việt Nam đã được vun đắp nên qua lịch sử hàng nghìn
năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lịng u nước nồng nàn, ý chí tự
cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình làng xã - Tổ quốc; lịng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính
cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối
sống... Các giá trị và sức mạnh đó của văn hóa và con người Việt Nam đã làm
nên nền tảng tinh thần vững chắc của dân tộc ta; trở thành sức mạnh nội sinh,
động lực quan trọng của phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Theo đó, chúng
ta cần tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để phát triển văn hóa nền tảng tinh thần của xã hội, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt

Nam để xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát triển toàn diện, đồng bộ
các lĩnh vực văn hóa, mơi trường văn hóa, đời sống văn hóa phong phú, đa dạng,
văn minh, lành mạnh; vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc vừa tiếp thu
tinh hoa văn hóa của nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, là nguồn
lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc
tế. Đại hội XIII chỉ rõ: “Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị
và nền văn hóa, con người Việt Nam; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh
mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối
đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực
con người là quan trọng nhất”9.
8 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I,

tr.216, 34.
9 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.216, 34.

18


Văn kiện Đại hội XIII của Đảng yêu cầu cần nghiên cứu, xác định và triển
khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người
Việt Nam gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ
mới. Cần quan tâm bảo vệ, khai thác và phát huy cao nhất các giá trị tốt đẹp, bền
vững của văn hóa, con người và gia đình Việt Nam. Có kế hoạch, cơ chế và giải
pháp nhằm xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa, lịch sử truyền thống dân tộc với việc xây dựng con người, phát triển kinh tế
- xã hội trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Quan
tâm chăm lo công tác giáo dục truyền thống văn hóa, lịch sử, cách mạng, bản sắc
văn hóa dân tộc cho mọi người Việt Nam, đặc biệt là cho thế hệ trẻ. Phát huy các
nhân tố tích cực, nhân văn trong các tơn giáo, tín ngưỡng. Xây dựng văn hóa

doanh nghiệp, doanh nhân và kinh doanh. Xây dựng văn hóa trong lãnh đạo,
quản lý. Khuyến khích các tìm tịi mới trong sáng tạo văn hóa, làm phong phú
thêm bản sắc văn hóa Việt Nam. Xây dựng các cơ chế, chính sách phát huy tinh
thần cống hiến vì đất nước phồn vinh, hạnh phúc của mọi người Việt Nam. Làm
cho văn hóa thấm sâu vào trong toàn bộ đời sống và các hoạt động xã hội; gắn
kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã
hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh
thần; bảo đảm quốc phịng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. “Xây dựng, phát
triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống
yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc”10.
Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành
sức mạnh nội sinh, động lực đột phá cho phát triển đất nước và hội nhập quốc
tế
Đại hội XIII khẳng định: “Phát huy tối đa nhân tố con người; con người là
10 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.116, 47.

19


trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển. Xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị
truyền thống và giá trị hiện đại” 11. Phát triển nhanh và bền vững đất nước dựa
chủ yếu vào việc phát huy tối đa nhân tố con người; lấy con người là trung tâm,
mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước. Vì vậy, xây dựng
con người Việt Nam thời đại mới phát triển tồn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hịa
giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại là nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định.
Giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tơn dân tộc, lịng nhân ái, tinh thần đoàn
kết, đồng thuận xã hội. Bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong

truyền thống văn hóa dân tộc. Chú trọng giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực
sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp
nhân dân, nhất là thế hệ trẻ. Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng
sống với giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc của con người Việt Nam. Xây
dựng, hoàn thiện các giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam thời đại
mới phát triển toàn diện về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, thể chất, tâm hồn, trách
nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo
vệ môi trường, năng lực đổi mới sáng tạo, khả năng làm việc trong môi trường
quốc tế...
Phát triển mạnh mẽ nền văn hóa và con người Việt Nam trong điều kiện
tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, chúng ta đứng trước yêu cầu cấp thiết là phải
bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là các giá trị văn hóa truyền
thống và cách mạng; đấu tranh chống các khuynh hướng đồng hóa, nơ dịch về
văn hóa. Đồng thời coi trọng việc tiếp thu tinh hoa văn hóa, khoa học, giáo dục
của nhân loại để xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam tiến kịp, tiến
cùng thời đại.
Đại hội XIII với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, lần đầu
tiên đã nêu lên yêu cầu: “Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con
11 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.116, 47.

20


người Việt Nam”12. Phải chăng đó là tâm lý tiểu nơng, là bệnh tùy tiện, là tính ỷ
lại, dựa dẫm, tính đố kỵ, thiếu kỹ năng hợp tác, thiếu ý thức tôn trọng pháp
luật?,... Mặt hạn chế của con người Việt Nam cần phải được nhận biết, cần phải
được phê bình, tự phê bình nghiêm khắc, cần phải được sửa chữa, khắc phục, để
cho dân giàu, nước mạnh.
Con người Việt Nam là sự kết tinh của nền văn hóa Việt Nam. Vì vậy q
trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cũng

chính là quá trình phát huy tối đa nhân tố con người, thực hiện chiến lược con
người - khâu trung tâm của sự nghiệp xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực văn
hóa và chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Phát triển văn hóa vì sự hồn thiện
nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa, phát triển
bền vững đất nước. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con
người phát triển toàn diện; phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa và sức mạnh con
người Việt Nam. Trong xây dựng con người, trọng tâm là xây dựng tư tưởng,
đạo đức, lối sống và nhân cách. Văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự
hoàn thiện nhân cách, thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào
mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, trở thành sức mạnh nội sinh, động
lực đột phá cho phát triển đất nước và hội nhập quốc tế.
Lấy con người làm trung tâm của phát triển và con người được hưởng
những thành quả của phát triển
Đại hội XIII xác định: “Lấy con người là trung tâm của phát triển và được
chia sẻ những thành quả của quá trình phát triển kinh tế” 13. Xây dựng đất nước
Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh phải lấy
con người, lấy Nhân dân làm trung tâm của mọi q trình và chính sách phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, an ninh... Cần thực hiện tốt hơn các
12 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.143.
13 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.II, tr.81.

21


chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hóa đạo đức xã hội
lành mạnh, văn minh. Bảo đảm những nhu cầu cơ bản, thiết yếu của Nhân dân
về nhà ở, đi lại, giáo dục, y tế, việc làm, thu nhập... Không ngừng cải thiện và
nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của Nhân dân. Triển khai đồng bộ

các giải pháp giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững. Thực hiện chính sách
bảo hiểm xã hội, an sinh xã hội, dịch vụ xã hội đa dạng, đa tầng, linh hoạt, bao
trùm, toàn diện nhất là đối với người nghèo, người yếu thế trong xã hội, quan
tâm đến mọi người dân để “khơng ai bị bỏ lại phía sau” của quá trình phát triển.
Tǎng đầu tư cho phát triển sự nghiệp phát triển vǎn hóa và con người; đổi mới
cơ chế, chính sách nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư. Hồn thiện và bổ sung các cơ
chế, chính sách để đẩy mạnh xã hội hóa văn hóa... đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa trong nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Không ngừng nâng cao
phúc lợi xã hội, an sinh xã hội cho Nhân dân.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hành và phát huy rộng
rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của Nhân dân;
củng cố, nâng cao niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã
hội chủ nghĩa và sự đồng thuận trong xã hội; tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ
cương xã hội, kỷ luật công chức, cơng vụ. “Đề cao vai trị chủ thể, vị trí trung
tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước ... Có cơ chế giải phóng
mọi tiềm năng, sức mạnh, khả năng sáng tạo, động viên nhân dân tham gia phát
triển kinh tế và quản lý phát triển xã hội. Bảo đảm công khai, minh bạch thông
tin, quyền được thông tin và cơ hội tiếp cận thông tin của mọi tầng lớp nhân dân.
Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, nhất là dân
chủ ở cơ sở”14. Thực hiện có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
2. Những vấn đề đang đặt ra và xu thế phát triển văn hóa Việt Nam
14 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.51.

22


trong những năm sắp tới
a) Những vấn đề đặt ra trong phát triển văn hóa
* Trên phương diện lý luận

Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, đường lối lý luận của
Đảng về phát triển văn hóa ngày càng sâu sắc, cụ thể hơn, xem xét văn hóa là
một lĩnh vực rộng lớn, thuộc đời sống tinh thần, quan hệ mật thiết với sự phát
triển con người toàn diện. Tuy nhiên, vẫn tồn tại khoảng cách giữa lý luận và
thực tiễn trong việc xác định hướng đi sắp tới của văn hóa phù hợp với bối cảnh
cách mạng công nghiệp lần thứ tư; tác động của Internet, đặc biệt là mạng xã
hội; sự tác động từ mặt trái, tiêu cực của kinh tế thị trường, của toàn cầu hóa giai
đoạn mới đến sự phát triển văn hóa. Đang hiện diện hai thực tế trái ngược nhau:
một mặt, lý luận văn hóa chưa cập nhật, đi sau cuộc sống, hàng loạt câu hỏi cơ
bản và cấp bách do thực tiễn đặt ra nhưng công tác lý luận chưa trả lời được,
hoặc trả lời chưa thuyết phục. Mặt khác, do thiếu sự dẫn dắt, chỉ đường, định
hướng của lý luận đúng đắn, nên nhiều hiện tượng văn hóa diễn ra một cách tự
phát, thiếu kiểm soát và điều chỉnh khiến cho việc chỉ đạo, quản lý trong thực
tiễn lúng túng, thụ động.
Vận dụng lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
trong xây dựng con người, phát triển văn hóa: Kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là sự đột phá trong tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới
của Đảng, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân trong
phát triển kinh tế - xã hội. Khi chúng ta coi văn hóa là hệ điều tiết cho sự phát
triển kinh tế - xã hội, tức là ta nhận rõ hơn vai trò quan trọng của văn hóa trong
việc định hướng, tác động đến nền kinh tế thị trường; phải làm sao để mỗi bước
phát triển kinh tế phải gắn với mỗi bước thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
khắc phục những bất cập, khuyết tật vốn dễ xẩy ra.
Đổi mới, nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, đồn thể, của
23


cả xã hội về vị trí, vai trị rất quan trọng của văn hóa trong sự phát triển bền
vững đất nước. Văn hóa trong nhận thức mới và tồn diện không chỉ là nền tảng
tinh thần, là mục tiêu, động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội mà còn là sức

mạnh nội sinh của dân tộc, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước giàu mạnh,
phồn vinh.
Việc xác định rõ hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị con người Việt Nam, hệ
giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới là để xác định mục tiêu, cách thức
hành động, ứng xử của con người trong việc điều tiết sự phát triển của xã hội.
Đối với nhiều quốc gia, hệ giá trị văn hóa và con người trở thành kim chỉ nam
trong cuộc sống, là động lực và mục tiêu phấn đấu của từng cá nhân. Hệ giá trị
đó được xây dựng dựa trên các nguyên tắc và khát vọng được đại đa số thành
viên trong xã hội chấp nhận, cổ vũ và hướng tới. Trong thời kỳ cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, bên cạnh việc kế thừa và phát huy các
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chúng ta rất cần xây dựng và hoàn thiện
hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị con người Việt Nam và hệ giá trị gia đình Việt Nam
tiến bộ, nhân văn, hạnh phúc để định hướng sự phát triển của mỗi cá nhân, mỗi
gia đình, của cộng đồng và cả dân tộc.
* Trên phương diện thực tiễn
Xử lý mối quan hệ giữa xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc với sự phát triển đồng bộ của nền kinh tế, với sự đầu tư còn hạn chế của
Nhà nước và nguồn lực, tiềm lực kinh tế còn hạn hẹp của người dân. Nền kinh tế
thị trường được điều tiết bởi quy luật cung - cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh
tranh bao gồm các tác động tích cực và tiêu cực đối với văn hóa. Vì văn hóa
được coi là lĩnh vực đặc biệt, nhạy cảm, một số lĩnh vực gắn với phúc lợi xã hội,
quyền tiếp cận, hưởng thụ của người dân nên ln cần có sự điều tiết từ phía
Nhà nước để tránh tác động tiêu cực từ kinh tế thị trường. Đó là việc một số hoạt
động văn hóa, nghệ thuật bị “thương mại hóa”, tầm thường hóa, ảnh hưởng tiêu
cực đến công cuộc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp
24


của dân tộc và chọn lọc, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới.
Xử lý mâu thuẫn giữa nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao, đa

dạng và khắt khe của nhân dân và khả năng đáp ứng có hạn của đội ngũ sáng
tác, biểu diễn và quản lý văn hóa. Từ đó dẫn đến việc người dân tìm đến với các
sản phẩm văn hóa, nghệ thuật kém chất lượng, nặng về giải trí đơn giản, thậm
chí các sản phẩm văn hóa xa lạ, lạc long của nước ngồi, làm tổn thương đến
phong tục, tập quán, lối sống của dân tộc, ảnh hưởng xấu đến nhận thức, thị
hiếu, lối sống của người dân, đặc biệt là giới trẻ.
Giải quyết hài hòa mối tương quan giữa mục tiêu nhân văn của văn hóa
với những quy luật khắc nghiệt của kinh tế thị trường. Sản phẩm văn hóa, nghệ
thuật có những thuộc tính của hàng hóa, nhưng ln có tính đặc biệt vì nó liên
quan đến đạo đức, thẩm mỹ, lối sống, tình cảm, tinh thần của con người. Nhiều
sản phẩm văn hóa mang tính cơng ích, chưa hẳn phù hợp với thị trường cạnh
tranh khắc nghiệt nhưng cần phải bảo vệ vì là hồn cốt dân tộc, giúp định hướng
phát triển nhân cách con người, gìn giữ đạo đức cho xã hội. Việc giải quyết đúng
đắn, hài hòa mối quan hệ này sẽ giúp xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh,
tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển tồn diện con người - mục đích cuối
cùng của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Xử lý tốt mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy, giữ gìn và phát triển,
truyền thống và hiện đại. Đây là những mối quan hệ rất phức tạp, địi hỏi cần có
những quan điểm, cách làm vừa mang tính ngun tắc, tồn diện, xuyên suốt
vừa linh hoạt theo loại từng hình, đối tượng, hồn cảnh cụ thể. Hài hịa lợi ích
các bên liên quan, kiên định mục tiêu bảo vệ các giá trị văn hóa cơ bản, tránh sa
vào các mục tiêu ngắn hạn, thực dụng; biết gìn giữ, phát huy, tiếp thu có chọn
lọc... là những vấn đề đang đặt ra trong phát triển văn hóa giai đoạn hiện nay.
Phát triển hài hịa, đúng mức giữa văn hóa tinh hoa và văn hóa đại
chúng. Văn hóa đại chúng phù hợp với nhiều người, với thị trường nhưng văn

25



×